English | Vietnamese

ĐI TÌM TÔN GIÁO CỦA TÔI 

THẦY HẰNG THẬT – TU SĨ PHẬT GIÁO NGƯỜI MỸ

 

Tác giả: David Ian Miller. Thứ Hai, ngày 2 tháng 5, 2005.  Rev. Heng Sure’s Blog – http://paramita.typepad.com

Ban Phiên dịch Viện Ngữ VPTT đối chiếu và hiệu đính từ bản dịch không rõ dịch giả trên Internet do một đạo hữu gởi đến. Xin kính tùy hỷ công đức phiên dịch của dịch giả và kính cáo lỗi vì không biết ai là dịch giả để xin phép. 

 Năm 2005, , ông David Miller, một nhà báo có đến phỏng vấn Thầy Hằng Thật (Heng Sure), hiện là trụ trì Tu viện Phật giáo Berkeley, một chi nhánh của Tổng Hội Phật Giáo Hoa Kỳ, do Hòa Thượng Tuyên Hóa thành lập. Xin đọc câu chuyện lý thú này để biết thêm về Thầy Hằng Thật và cuộc hành hương của Thầy vào năm 1977.

 Thầy Hằng Thật là người thích nói. Nếu bạn đi dạo quanh trong tu viện Phật giáo Berkeley, nơi Thầy đang trụ trì, và may mắn gặp được Thầy thì có thể Thầy sẽ mời bạn ngồi uống một tách trà và đàm luận về mọi chuyện, từ Kinh sách Phật giáo Trung Hoa cổ điển cho đến những cái hay và không hay của hệ điều hành Macintosh mới ra đời. Trước khi kịp nhận ra thì bạn đã nói chuyện suốt 2 giờ đồng hồ rồi. Kỳ thực, bạn ngồi nghe còn hầu hết là Thầy nói.

 Vì vậy rất khó tin là Thầy Hằng Thật, một người lớn lên ở Ohio trong một gia đình đạo Tin Lành gốc Tô-Cách và Ái-Nhĩ-Lan, rồi đổi sang đạo Phật trong thập niên 60 khi học tại trường Đại học Berkely, đã suốt sáu năm mà không hề nói chuyện một lời (1). Thầy đã phát nguyện tịnh khẩu năm 1977 sau khi thọ giới Tỳ Kheo Đại thừa.

 Vào thời gian đó, Thầy cũng bắt đầu một chuyến bái hương gian nan kéo dài 2 năm rưỡi từ Los Angeles đến Vạn Phật Thánh Thành ở Talamage, gần Ukiah cùng với một người bạn đồng tu. Suốt dọc đường, Thầy lạy phủ phục hay bái lạy trên đường, cứ ba bước một lạy.

Tôi nói chuyện với Thầy về việc Thầy trở thành một Phật tử như thế nào và những kinh nghiệm trong cuộc hành trình dài; cũng như về việc làm thế nào mà Phật giáo trở thành một phần trong thế giới quan rộng lớn của Thầy.

 

David Miller -Theo truyền thống Phật giáo Trung Hoa thì chư Tăng Ni đều có một cái tên mới (pháp danh) sau khi thọ giới. Thường thì pháp danh này được đặt ra để giúp người tu sĩ tinh tấn trên con đường tâm linh. Pháp danh của Thầy có ý nghĩa gì?

 Hằng Thật – Pháp danh Hằng Thật (Heng Sure) có nghĩa là “luôn luôn thật”. Trước khi xuất gia, tôi làm trong ngành sân khấu nghệ thuật. Là một diễn viên kịch, giá trị vai trò của bạn nằm ở chỗ bạn miêu tả được cái ảo tưởng trong vở kịch hay đến mức nào. Thói quen xấu của tôi chính là vẫn duy trì lối sống ảo tưởng ấy vào trong đời sống thực của mình.. (thế nên) Pháp danh của tôi là để nhắc nhở mình luôn trở về với sự thật, với những gì là chân thật.

 

David Miller – Thầy đóng những vai gì?

Hằng Thật – Tôi ở trong ban kịch mùa hè, phần nhiều là trong nhạc kịch Broadway. Tôi thủ vai Guy Masterson trong vnhạc kịch “Guys and Dolls”, vai J. Piermont Finch trong v “How to succeed in business” và vai Mr. Applegate trong “Damn Yankees”.

 

David Miller – Đó quả là một sự chuyển tiếp lớn, từ sân khấu nhạc kịch sang tu viện Phật Giáo. Thầy có cảm tưởng gì về cuộc sống quá khứ của mình?

 Hằng Thật – Ông biết đấy, kịch trường là kịch trường, rất vui và thú vị. Tôi vẫn còn nhớ tất cả những bài hát nhạc kịch và rất nhiều lời ca nữa. Nhưng tôi đã sống đời xuất gia lâu hơn thời gian tại gia. Cho nên mặc dù tôi tin sự giải trí có chỗ đứng riêng của nó nhưng theo tôi, cũng cần đến lúc dành thời gian nhìn sâu hơn vào mọi sự việc.

 

David Miller – Bằng cách nào mà Thầy khám phá ra Phật giáo?  Tôi đoán là chẳng có nhiều Phật tử tại Toledo, Ohio, nơi Thầy lớn lên vào những thập niên 1950 và 60, có phải không?

 Hằng Thật – Chìa khóa cho con đường tâm linh của tôi, bước ngoặc lớn, chính là ngôn ngữ Trung Hoa. Dì của tôi (chị của mẹ tôi) có một thời làm tại Sở Thông tin Hoa Kỳ (US Information Agency) ở Hoa Thịnh Đốn. Và dì tôi chuyên về tin tức Á Châu. Một hôm bà gửi cho tôi một cuốn sách về những họa phẩm của Trung Hoa, lúc đó tôi mới 13 tuổi. Tôi thấy những chữ viết Trung Hoa trong cuốn sách và những chữ viết này c ó cái gì đó đã thu hút sự chú ý của tôi. Điều đó – tôi không biết có đúng không – giống như là tôi đã thấy qua trước đây rồi.

 

David Miller – Thế là Thầy bắt đầu học tiếng Trung Hoa?

 Hằng Thật – Vâng, tôi rất may mắn là đã học tiếng Hoa thời Trung Học. Theo tôi biết thì đó là một trong ba chương trình ngoại ngữ ở Mỹ hồi đó. Ba mẹ tôi – thật cám ơn họ – đã đồng ý ngay và bảo: “Con cứ học đi. Nó sẽ nới rộng tầm nhìn”. Và tôi đã theo đuổi con đường ấy ngay cả khi lên đại học. Tôi đã đậu thạc sĩ Ngôn Ngữ Đông Phương (Oriental Languages) ở Berkeley. Lúc đó, tôi được gặp Sư Phụ tôi là Hòa Thượng Tuyên Hóa.

 

David Miller – Thầy đã gặp Hòa Thượng Tuyên Hóa như thế nào?

 Hằng Thật – Một người bạn cũ cùng trọ học với tôi trước đây đã sang California. Anh ta đã gặp Hòa Thượng Tuyên Hóa tại Tu Viện Kim Sơn, vốn là một xưởng làm nệm cũ trong khu Mission District. Một hôm anh ấy gọi điện thoại cho tôi và nói rằng: “Này, anh còn nhớ có lần chúng ta đã bảo nhau sẽ đi tìm một Tổ  Sư Phật giáo không?” Hồi đó chúng tôi thường nói chuyện với nhau về việc gặp  một vị như vậy ở  Hy Mã Lạp Sơn (Himalayas), có thể là vùng Rishikesh bên Ấn Độ, hay sang Nam Dương (Indonesia). Nhưng bạn tôi nói: “Không. Ngài ở ngay San Francisco này. Anh hãy đến đây để gặp ngài Phương Trượng”. Thế là tôi lái chiếc xe Volvo qua cầu Bay Bridge, rồi đi thẳng vào toà nhà cũ kỹ trên góc đường 15 và đường Valencia. Tôi đã có một kinh nghiệm rất khác thường.

 

David Miller – Chuyện gì đã xảy ra ?

 Hằng Thật – Hồi đó, tôi đang học năm thứ hai chương trình cao học và cuộc chiến tranh Việt Nam đang bùng nổ dữ dội. Tôi tự hỏi: “Muốn làm một giáo sư đại học chăng? Không! Khô khan quá! Hay là đi làm ca sĩ dân ca? Không! Quá mạo hiểm, quá bẩn. Hay là chạy sang Gia Nã Đại? Không! Làm vậy không đúng”. Tôi cứ suy nghĩ mãi về chuyện này. Nhưng khi bước vào cửa tu viện, ngửi thấy mùi và không khí mát lạnh của Tu viện, nghe tiếng chuông vang lên và nhìn thấy sự tĩnh lặng ở đấy, mọi thứ đang quay cuồng trong đầu tôi bỗng dưng tan biến mất. Mọi nghi ngờ, sợ hãi tuột xuống và biến mất qua đầu ngón chân. Tôi nghe thấy rõ ràng có tiếng ai nói nhỏ nhẹ: “Con đã trở về. Con về đây để hành trì. Con đã về nhà”.

 

David Miller – Thế là Thầy bắt đầu học với Hòa Thượng Tuyên Hóa tại Tu viện. Ngài đã dạy Thầy những gì?

Hằng Thật – Hòa Thượng là người Mãn Châu, một nhà sư Phật giáo chân chính, hành trì chánh pháp. Ngài không phải là loại người: “Chúng ta hành thiền bởi vì thiền tô điểm thêm cho cuộc đời của chúng ta”. Ngài dạy tôi từ nền tảng đạo đức: “Làm người cũng quan trọng như tu tập. Làm người chính là khởi đầu cho việc tu hành” (2). Ngài dạy tôi rất nhiều về Khổng tử cũng nhiều như về Đức Phật. Một điều khác mà Ngài tiêm sâu vào cốt tủy tôi là tầm quan trọng của sự giáo dục. Tôi đã đi học liên tục suốt 18 năm trời, nhưng tôi không hề lưu tâm đến đời sống tâm linh. Khi tôi gặp Hoà Thượng Tuyên Hóa, tôi đã thấy ngay sự ham thích học hỏi của Ngài. Ngài hoan hỷ quan sát tâm của những người trẻ học hỏi kiến thức và phát triển. Một niềm vui thuần tịnh.

 

David Miller – Bây giờ hãy nói về chuyến hành hương mà Thầy đã thực hiện sau khi trở thành Tỳ Kheo, hay Tu sĩ Phật giáo vào năm 1977 (3). Suốt hai năm rưỡi, Thầy đã cùng một người bạn đồng tu đi từ Los Angeles dọc theo bờ biển California, cứ đi ba bước lại lạy một lạy. Đây là một sự khó khăn ngoài sức tưởng tượng.

 Hằng Thật – Đúng rồi. Lễ lạy như vậy cũng đủ khó, nhưng khó nhất là phải im lặng không nói chuyện. Tôi đã phát nguyện tịnh khẩu trong 6 năm (bắt đầu tcuộc hành hương) .

 

David Miller – Vậy, điều gì là khó nhất khi tịnh khẩu lâu như vậy?

 Hằng Thật – Điều khó nhất là phải kiên nhẫn, theo dõi những lúc tâm mình muốn nói chuyện. Con người chúng ta được cấu tạo để giao tiếp. Một trong những niềm vui của con người là khả năng nói chuyện. Thật kỳ diệu. Vì vậy, khi tôi phải ngậm miệng và không nói chuyện, ý muốn nói chuyện  không giảm bớt trong một thời gian khá lâu. Có lúc tôi để  ý thấy cả tuần, tôi đã không nghĩ ra được một từ nào. Đến lúc đó, cuốn kinh Phật tôi đeo sau lưng – đó là cuốn kinh mà tôi lễ lạy – tự nhiên hiển hiện sống động. Rất lạ là khi tâm tôi trở nên thật tĩnh lặng thì những câu kinh Phật tự nhiên trở thành những lời bình luận giải thích những gì tôi thấy nơi thế giới bên ngoài. Tôi đã khám phá ra một điều rất lạ là đầu óc chúng ta đã được cấu tạo để giao tiếp một cách rất tinh vi và mãnh liệt với thế giới bên ngoài. Thế nhưng khi chúng ta quay về với nội tâm thì tất cả những điều đó đều nằm yên.

 

David Miller – Nếu Thầy phải tịnh khẩu, thì làm sao liên lạc được trong khi đi đường?

 Hằng Thật – Tôi không cần phải nói nhiều vì vị tăng đi cùng đã lãnh phần nói chuyện. Công việc của tôi là chỉ chú ý vào tâm mình thôi.

 

David Miller – Thế thì, trước hết tại sao Thầy lại phải đi hành hương?

 Hằng Thật – Tôi quyết định rằng nếu có thể chuyển hóa được lòng tham, sân, si của mình qua cuộc hành trình đi bộ, giữ giới tịnh khẩu và lễ lạy, thì có thể tôi sẽ làm được một điều gì đó khiến cho thế giới được an bình hơn. Tôi sẽ bắt đầu trong cái phần thế giới bất an mà tôi có thể kiểm soát được, đó là Khẩu và Ý. Như vậy, cuộc hành hương này là vì hòa bình thế giới, nhưng bắt đầu từ cái tâm của tôi.

 

David Miller – Ý Thầy nói là bằng việc kiểm soát được hành vi của mình, Thầy đang đẩy mạnh cho nền hòa bình thế giới một cách tượng trưng?

 Hằng Thật – Thật ra nó có nghĩa nhiều hơn là tượng trưng. Ông nên biết là tôi đã hoạt động chính trị khá nhiều khi còn là sinh viên. Tôi đã chứng kiến những người bạn bị cảnh sát Chicago đánh b đầu tại  Đại Hội Đảng Dân Chủ. Khi tôi còn ở trung học, Tiến sĩ Martin Luther King bị ám sát và Robert Kennedy bị giết. Cho nên là một sinh viên cao học lúc đó, tôi đang cố gắng tìm ra những điều có ý nghĩa để làm trong thế gian này, cần phải phản ứng thế nào trước thời cuộc. Tôi nghĩ rằng: “Câu trả lời truyền thống của đạo Phật là phải hành xử từ bên trong. Phải bắt đầu từ cái Tâm mình. “Tất cả do Tâm tạo – Nhất thiết duy Tâm tạo” là một trong các thành ngữ  (Phật giáo). Tôi nghĩ nếu tôi có thể hiểu rõ được sự mê mờ của mình thì tôi sẽ thấy được cái chân thật. Đó không phải là đóng kịch, không phải chỉ là vung tay chống nhóm tài phiệt, quân phiệt. Cũng không phải là bỏ học đi hút sì ke ma tuý. Thực ra câu trả lời là tìm đến nguồn gốc của vấn đề, đó là cái Tham, Si của tôi.

 

David Miller – Đi hành hương như vậy, Thầy thấy sao? Thầy đã gặp những kiểu người nào?

 Hằng Thật – Chúng tôi đã gặp đủ kiểu người mà anh có thể tưởng tượng. Có nhiều người biểu lộ hành vi tử tế và rộng lượng. Nhưng cũng có những người không tử tế lắm. Chúng tôi đã bị chĩa súng vào đầu ba lần.

 

David Miller – Người ta chĩa súng vào đầu Thầy sao? Họ định ăn cướp hay sao?

 Hằng Thật – Không. Chúng tôi có bị cướp năm, sáu lần, nhưng không lần nào bị chĩa súng hết. Một vài người thích chĩa súng vào chúng tôi, không hiểu tại sao. Marty, vị tu sĩ đi cùng tôi nói với họ: “Xin chào. Chúng tôi là hai nhà sư Phật giáo đi hành hương cầu cho thế giới hòa bình. Bạn có muốn đọc vài tài liệu không?” Không hiểu sao họ không bao giờ bóp cò cả. Tuy nhiên, phần nhiều những người chúng tôi gặp đều tự đến giúp đỡ chúng tôi.  

David Miller – Xin Thầy cho thí dụ.

 Hằng Thật – Một hôm chúng tôi đi qua vùng Santa Cruz. Trời còn sớm lắm. Khi tôi lạy một lạy và đứng dậy thì thấy có một em gái chừng 10 tuổi đi chiếc xe đạp tiến tới. Cô bé mang một gói đồ và nói: “Ông ơi, đây là cái bánh mì kẹp của cháu. Cháu nghĩ ông sẽ cần đến cái bánh mì này nếu ông còn cứ đi suốt đường tận đằng kia. Đây ông cầm lấy đi!”. Thế là cô bé đưa cho tôi cái bánh mì kẹp. Những cuộc gặp gỡ như thế xảy ra nhiều hơn nhiều so với những trường hợp thù nghịch mà chúng tôi đã gặp.

 

 

David Miller – Thầy có bao giờ thực sự bị nguy hiểm không?

Hằng Thật – Có một lần gần vùng San Luis Obispo, các em nhỏ cứ tan học là nhất quyết đến làm phiền chúng tôi bằng xe tải nhỏ của chúng. Chúng đến làm bụi và đá sỏi bay mù trời, che phủ chúng tôi. Thật là đáng sợ, bởi vì có ai biết các em là ai đâu. Tôi đành chấp nhận, ông biết không, bởi vì tôi cứ cho mình như là vị sư đang làm chuyện lễ lạy, tôi đáng lẽ đang kiểm soát cái Tâm của mình. Nhưng ít lâu sau, như vài tuần sau đó, tôi lại nghĩ: “Trời ơi, bây giờ là 4 giờ. Còn chừng một tiếng để lễ bái thì chúng lại đang đến kia”. Một buổi chiều, tôi thấy các em đậu mấy chiếc xe hơi và xe tải nhỏ của chúng tại sân đậu xe. Thế là tôi bắt đầu tụng Chú Đại Bi. Thực ra là tôi đang nghĩ: “Xin Bồ Tát hãy đánh chúng, xin Ngài bảo vệ con”. Bỗng nhiên, mở mắt ra, tôi thấy Sư Phụ, Hoà Thượng Tuyên Hóa, đang đứng đó trên bãi đậu xe, chân đi dép.

 

David Miller – Ngài Tuyên Hóa đến làm gì vậy?  

Hằng Thật – Tôi nghĩ là Ngài đã lái xe từ San Francisco xuống. Dầu sao, Ngài cười với tôi rồi bước tới những chiếc xe tải của tụi nhỏ. Ngài bắt đầu nói chuyện với chúng. Lũ trẻ nhộn nhịp hẳn lên khi có một ông trông như sư phụ chùa Thiếu-Lâm đến nói chuyện với chúng. Ngài cho chúng những chuỗi hạt thì phải và chúng biếu lại Ngài chai nước Coke. Sau đó tôi mới nhận thức được rằng tôi đã dùng Chú Đại Bi làm  một thứ vũ khí. Tôi đã tự coi mình là nạn nhân. Tôi đã không tập trung vào công việc của một tu sĩ. Có một điều về Sư phụ tôi đó là sự chỉ dạy của Ngài bao giờ cũng đến đúng lúc. Chiều hôm ấy, Ngài bảo tôi: “Đó không phải là từ bi (tụng chú Đại Bi cầu Bồ Tát đánh bọn trẻ)”. Ngày hôm sau, tôi đang bái lạy thì bọn trẻ lại đến. Lần này chúng chỉ đậu xe và nhìn chúng tôi. Lát sau, tôi nghe một đứa nói: “Chúc các Thầy may mắn. Thầy vẫn kỳ lạ nhưng thôi, chúc các Thầy may mắn”.

 

David Miller – Các Thầy ngủ ở đâu? Các Thầy có đến ngủ tại nhà người dân không?

 Hằng Thật – Thực ra là, chúng tôi đã nguyện không vào ngủ nhà ai hết trong suốt 3 năm đó. Chúng tôi có một chiếc xe hơi hiệu Plymouth Station wagon đời 1957 để ngủ qua đêm. Xe này chứa các thứ như ảnh Phật, kinh Phật và xoong chảo để nấu nướng.

 

David Miller – Các Thầy ăn gì?

 Hằng Thật – Phần nhiều là cây cỏ dại mọc ven đường. Chúng tôi có một bản sao cuốn sách của Euell Gibbons tên là “Stalking the Wild Asparagus” (nói về cách chọn măng dại). Một thầy giáo dạy sinh học ở trung học tại Santa Babara cho chúng tôi cuốn sách này, có lẽ vì sợ chúng tôi không biết phân biệt thứ nào ăn được thứ nào không .

 

David Miller – Các Thầy đã học được những điều chính yếu gì trên hành trình của mình?

 Hằng Thật –Tôi đã học hỏi được rất nhiều về ý nghiệp. Tôi thấy mình như bị kẹt vào trò lừa của tâm ý. Chúng tôi học hỏi được nhiều về bản thân, về những nhận thức mà chúng tôi có được từ cha mẹ, từ TV, từ những người bạn. Tôi thấy rõ cái kích thước của tri giác. Tôi thấy giới hạn của sự hiểu biết của tôi về phải trái, về chính mình và về tha nhân. Tất cả những điều do Tâm mình tạo ra. Mà những thứ đó đâu phải là toàn thể cái Tâm của mình. Kinh Phật ví cái nhận thức này như những bong bóng trên mặt biển. Tâm thức của chúng ta là biển cả. Bằng cách lễ lạy, bằng cách tịnh khẩu không nói năng gì, tôi đã từ từ lặn sâu hơn xuống biển cả. Vùng nước đó rất sâu.

 

David Miller – Có bao giờ Thầy muốn lặn sâu xuống biển cả nữa không? Ý của tôi là Thầy lại muốn đi hành hương tam bộ nhất bái như vậy nữa không?

 Hằng Thật – Việc đó cũng giống như việc khảo sát hang động vậy. Khi hành thiền, ông đi sâu vào tâm mình và đánh dấu điểm dừng. Rồi ông quay ra ngoài. Một hôm khác, ông vào lại và đánh dấu lần nữa. Tôi không biết là tôi có đi hành hương nữa không, nhưng tôi vẫn hành thiền, vẫn lễ lạy. Như vậy ông có thể nói là tôi vẫn đi hành hương. Có lẽ phải mất nhiều kiếp mới xuống tận dưới đáy. Nào ai biết được là sẽ mất bao lâu?

 

 

David Miller – Thỉnh thoảng có những người phê phán cuộc sống tu hành là chạy trốn. Họ cho rằng sống trong tu viện là cách để không quan tâm  đến thế giới bên ngoài. Thầy nghĩ thế nào về chuyện này?

Hằng Thật – Điều đó hẳn là một định kiến chung, nhưng tôi cho đó là sai. Bất cứ ai đã từng sống trong tu viện đều sẽ cho ông hay rằng không có nơi nào thoát khỏi thế giới được cả.

 

David Miller – Tại sao lại không có?

 Hằng Thật – Trong tu viện, thực sự không có chỗ nào để trốn tránh cả. Không có TV, sách báo hay đồ chơi. Không có cả tủ đựng thuốc nữa. Trên căn bản là mình chỉ có cái Tâm để đối diện mà thôi. Hãy so sánh tu viện với một cái phòng khách của một gia đình bình thường xem. Trung bình mở TV xem sáu giờ rưỡi một ngày. Đó là chạy trốn đấy. Hãy nghĩ đến tỷ lệ phần trăm những người cần đến thuốc an thần để sống qua ngày và ngủ được ban đêm. Có bao nhiêu đứa trẻ đang xài Ritalin (một loại thuốc an thần)? Có bao nhiêu thì giờ dành vào việc mua sắm? Những ai chỉ trích đời sống trong tu viện có lẽ chẳng bao giờ dành thời gian cho cái Tâm của mình. Nếu có, họ sẽ khám phá rằng không thể chạy trốn đi đâu được. Tất cả mọi thứ trong Tâm đang chờ ta tham cứu. Một khi ngồi xuống để thiền và chìm trong sự vắng lặng, tất cả những kỷ niệm, những đau khổ, những lo âu, hy vọng lại khởi lên. Như vậy chùa, tu viện là chỗ cuối cùng để đến khi muốn tránh những điều đó. Chẳng có gì để đánh lạc hướng bạn cả, chỉ có những điều mà bạn đã quên không nhìn đến từ bao lâu; đó là những gì trong đầu bạn.

 

David Miller – Nhưng Thầy cứ ở trong tu viện, không ra ngoài tiếp xúc với mọi người. Như thế thì Thầy đang trốn tránh rồi, phải không.

 Hằng Thật – Ông có thể nói như vậy. Tuy nhiên trong Phật giáo chúng tôi có một thứ gọi là Phật giáo nhập thế. Tôi là một nhà sư theo Phật giáo nhập thế và tôi hằng ngày đều ra khỏi chùa. Vấn đề là tìm cách áp dụng những kiến giải khi ngồi thiền, những lời dạy trong kinh Phật vào những bất công trong xã hội, trong đời sống kinh tế và chính trị.

 

David Miller – Trước đây, Thầy có nói việc đi phát chẩn thức ăn cho người vô gia cư. Có phải là Thầy định nói đến chuyện này không? 

Hằng Thật – Đúng vậy. Thế nhưng cũng còn có một cái gì khác hơn nữa. Lấy thí dụ, ông đứng sau quầy phát chẩn San Anthony ở San Francisco, trực tiếp phát thức ăn cho 200 người. Rất tốt, ông đã làm một việc rất hữu ích. Xong việc ông đi, chờ đến một dịp khác phát chẩn nhiều hơn. Mặt khác, nếu ông ngồi yên lặng trên tọa cụ, giữ cho Tâm không còn sân hận, thì ông cũng đã làm một việc rất hữu ích cho thế giới. Tâm mọi người bao giờ cũng tiếp xúc với nhau. Tâm ông tiếp xúc được với gia đình ông, con cái ông, cả xóm giềng nữa. Với cái Tâm tĩnh lặng, ông tiếp xúc được với toàn thế giới.

 

David Miller – Tâm tiếp xúc bằng cách nào?

 Hằng Thật – Để tôi lấy một thí dụ. Có người đang rất sốt ruột phải lên ngay xe điện. Trong bụng rất cáu kỉnh. Mọi người xung quanh đều thấy ngay, ai cũng cảm thấy điều đó. Lại có một người khác lên tầu, tâm trạng thoải mái, thất rất vui vẻ lên được tầu. Tất cả người khác cũng sẽ cảm thấy ngay. Chúng ta luôn luôn phát đi hay nhận được những tín hiệu về trạng thái tâm linh của mình, của người. Bởi vậy, nếu bạn ngồi yên trong tu viện, đầu óc thật an vui tĩnh lặng, thì bạn đã đã phát tín hiệu an vui ra ngoài. Bạn đang làm một việc rất có giá trị cho thế giới. Bạn đang chuyển hóa tâm thức. Tôi nghĩ tất cả đó là Phật giáo – hay Do Thái giáo, hay Cơ đốc giáo hay Hồi giáo.

 

David Miller – Không phải là ai cũng có thể hy sinh bản thân để theo đuổi con đường tâm linh như các tu sĩ được. Người ta ai cũng cần kiếm ăn, nuôi gia đình và những chuyện khác nữa. Vậy Thầy sẽ khuyên họ điều gì?

 Hằng Thật –Tôi sẽ nói rằng nếu bạn có thể ngồi trong phòng ngủ, ngồi trên xe cộ, ngồi làm việc ở văn phòng, tức là bạn đang làm một cái gì rồi. Ông có biết có bao nhiêu sở làm có nhân viên đang  tuyệt vọng không? Họ ngồi đấy, cảm thấy mình bị coi thường, rất nản chí vì những ý kiến mình đưa ra bị bác bỏ, hay là mình có một dự án đầu đời mà lại bị một ông xếp hạng thấp, chẳng biết gì, làm sai hỏng hết. Nếu chúng ta có được những sở làm trong đó nhân viên đến làm 8 tiếng một ngày mà biết quan tâm đến tinh thần của mình, không chịu để rơi vào những lo sợ, thất vọng, thì đó là một điều đặc biệt. Đó là công ty chứng khoán mà chúng ta nên đầu tư vào.

 

 

David Miller – Trong các sách báo về thương mại hay trên đài CNBC, người ta chắc chắn chẳng ai nói đến những điều Thầy nói cả. Trái lại, người ta chỉ nói nhiều về mức sản xuất, về thành tích công việc, về lợi tức đem lại.

 Hằng Thật – Rất đúng. Chúng ta đầu tư vào những chuyện ấy, nhưng chúng ta không lưu tâm đến những gì xảy ra ở mặt chìm, không lưu tâm đến chính mình và thế giới xung quanh. Thế giới sẽ phá sản vì thiếu nguồn tài nguyên. Dầu hôi sẽ cạn dần. Chúng ta vẫn tự hỏi: “Có vấn đề gì vậy? Tại sao chúng ta lại bị rối mù thế này”. Chúng ta đếm từng chiếc lá ở đầu cành cây mà không chú tâm đến cái rễ. Cái rễ chính là cái Tâm. Vấn đề là ở chỗ đó.

 

David Miller – Vậy thì đâu là câu trả lời? Có phải Thiền định chăng?

 Hằng Thật – Câu trả lời là cầu nguyện, là kỹ thuật có từ ngàn xưa. Chúng ta ra ngoài tìm kiếm kỹ thuật mới. Thế nhưng kỹ thuật căn bản cũ của chúng ta thì lại không được nghiên cứu đến.

 

David Miller – Thầy nói đến những kỹ thuật gì?

 Hằng Thật – Cầu nguyện là một kỹ thuật, cũng như lòng quảng đại, từ bi. Cúng dường, nhịn ăn, tịnh khẩu cũng vậy. Bất cứ tôn giáo cổ truyền nào cũng đều có những công cụ mà chúng ta có thể dùng được. Hãy xem Mười Điều Răn (của đức Chúa Trời). Có câu: “Ngươi không được làm chứng gian”. Câu này rất hay, tuy nhiên hằng ngày chúng ta cứ nói dối nhau, như ông đã biết đấy, để sống còn. Chúng ta gọi thế là tinh khôn, gọi thế là để kiếm lời. Thực ra, đó chỉ làm hại mình.

 

David Miller – Những kiểu “kỹ thuật” như Thầy nói không đem lại lợi ích gì ngay tức khắc. Ăn một cái bánh kẹo hay ngồi xem một chương trình TV thì dễ dàng thấy thích thú ngay, có phải không? Còn nói đến phải hành xử với lòng từ bi hay mở rộng lòng quảng đại, thì lợi ích còn lâu mới đến.

 Hằng Thật – Đúng, điều đó là đúng. Con người chỉ thích được lợi lạc ngay lập tức. Nhưng nếu chúng ta có những nhà lãnh đạo quốc gia nói đến và quý trọng trí huệ – họ nói rằng: “Chúng ta không nhìn đến những chuyện ngay trước mắt; chúng ta nhìn về bảy thế hệ sau” – thì có lẽ chúng ta làm theo dễ dàng hơn.

 

David Miller –  Đã có ai từng nói như vậy chưa?

 Hằng Thật – Kiến thức thông thái của dân Da Đỏ, dân Do Thái có nói như vậy. Tất cả những bậc Hiền Thánh, Tổ Sư của các truyn thống đều nói theo chiều hướng đó. Các Ngài đều nói là chúng ta phải lưu tâm đến định mệnh của thế giới. Rất tiếc là ít người lắng nghe họ.

 

David Miller – Một trong những điều Thầy đã nói với tôi tuần trước về cuộc hành hương hai năm rưỡi Tam Bộ Nhất Bái (2), là con người có thể thay đổi được. Thầy đã gặp đủ hạng người, có người lúc đầu còn nghi kỵ, hay hơn nữa còn chống đối công việc Thầy làm. Nhưng rồi họ cảm kích Thầy. Thầy còn nghĩ là lòng người có thể thay đổi được nữa không? 

Hằng Thật – Ồ! Chắc chắn rồi, tôi tin là con người có thể thay đổi. Tôi có thể cảm nhận sự khát khao của họ với lòng hướng thiện, nhân ái. Khi tôi ra ngoài, tôi áp dụng nguyên tắc là lấy cái Tâm mình làm phương tiện giao tiếp với mọi người. Tôi muốn Tâm tôi là chỗ của lòng từ bi, là nơi mà mọi tâm niệm của tôi có thể quay về. Tôi nghĩ rằng người nào giao tiếp với tôi cũng cảm thấy như vậy, và nó có để lại dấu ấn. Không phải chỉ là tưởng tượng ra đâu, tôi thấy quả thật có thay đổi.

 

David Miller – Nhưng Thầy cũng vừa nói là con người ta không chịu nghe theo những lời lẽ khôn ngoan. Họ không nghe thấy những điều họ cần nghe. Vậy thì làm sao thay đổi được?

 Hằng Thật – À, tôi nghĩ là chúng ta đang ở một khúc ngoặt. Nền viễn thông toàn cầu ngày nay đã cho phép chúng ta liên lạc được với mọi người, thực sự biết đến và quan tâm đến những người ở xa tít mù như A Phú Hãn và Trung Hoa. Nhưng những gì chúng ta tìm ra được qua sự liên hệ ấy là chúng ta chẳng biết phải nói gì với nhau. Hiện giờ đang có một cuộc đua. Có hai cái đồng hồ đếm phút khác nhau. Một cái đếm sự suy thoái của hành tinh. Cái kia, theo tôi nghĩ, cần phải nói những lời có ý nghĩa. Nếu chúng ta có thể giữ cho trái đất khỏi suy thoái, thì sẽ có một thế hệ mới sẵn sàng nói chuyện với nhau.

 

David Miller –  Thầy nói thế hệ mới là những ai?

 Hằng Thật –Thế hệ mới là những người hiện đến trước cổng tu viện; phần lớn là các trẻ em người Mỹ, một số người Hoa kỳ gốc Hoa, gốc Phi châu, nhưng chắc chắn họ sinh trưởng tại đây. Họ là trẻ em. Chúng tôi gọi họ là bọn trẻ hậu-thất-vọng (post-despair kids), những em mới 14 tuổi đã nghiện rượu, 16 tuổi đã ma tuý xì ke, những em đến tuổi dậy thì suốt ngày lang thang trong khu trung tâm mua sắm. Bây giờ chúng đã là sinh viên đại học, đến cửa tu viện mà nói: “Xin Thầy nói sự thật cho chúng con nghe”. Chúng tôi nói: “Các em hãy ngồi xuống, rồi thiền quán. Hãy đọc Giáo Pháp của đức Phật. Hãy học về Tứ Diệu Đế. Hãy xem xét cổ nhân nói gì. Hãy dở ít sách cổ văn ra thảo luận về kỹ thuật ngày xưa”. Khi chúng tôi nói với chúng như thế, bọn trẻ nói: “Chúng con đã cảm thấy một điều gì đó. Đó là cái gì vậy?”. Những câu nói như thế đã xuyên thẳng sự thất vọng, đâm thẳng vào lòng hoài nghi của chúng.

 

David Miller –  Điều đó làm Thầy hy vọng ở chúng?

 Hằng Thật – Quả có thế. Bọn trẻ lớn lên trong bầu không khí giao tiếp quảng đại mà tôi đã nói vừa nãy. Chúng nghĩ thế giới là một mạng lưới. Và chúng sẽ nói lên những điều chúng muốn nói.

 

David Miller – Chuyện ấy có liên quan gì đến những vấn đề về quả địa cầu của chúng ta?

 Hằng Thật – Thế giới là một hiện hữu to lớn mà mù mờ. Thế giới là gì? Báo chí truyền thông bảo nó là cái gì thì nó là cái ấy. Nó là quả địa cầu, nó là một cú điện thoại. Tôi không làm sao có thể giải quyết được vấn đề của thế giới. Nhưng tôi có thể giải quyết những điều trong Tâm của tôi, bởi vì Tâm là cánh cửa thông với thế giới bên ngoài. Tôi xin kể ông nghe một câu chuyện. Một hôm, tôi nói pháp cho người theo Ấn Độ Giáo (Hindus) ở Olema nghe, tại Hội Truyền Giáo Vedanta. Tôi nói về lòng hiếu thảo với cha mẹ, một đề tài tôi thích nói tới.

 

David Miller – Thầy nói là lòng kính trọng đối với cha mẹ mình?

 Hằng Thật – Đúng. Tôi nói là chúng ta có thể giao tiếp với nhân loại qua Tâm của chúng ta khi chúng ta bày tỏ lòng hiếu kính với cha mẹ. Cũng giống như một cái cây có rễ cái đâm xuống đất tới mạch nước ngầm. Chính cái mạch nước này đã nuôi cây lớn lên. Nếu đi ngược lên cành thì thấy có biết bao nhiêu cành lá. Trở lại với gốc rễ nguồn cội, anh sẽ thấy, qua lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, là anh đã ngay lập tức giao tiếp được với tất cả nhân loại. Sau khi tôi nói xong, có một anh chàng tiến lên – trông bảnh bao, sáng sủa – gặp tôi và nói: “Tôi có thể nói cho Thầy nghe những gì tôi đã hìểu không?”. Tôi nói: “Vâng”. Anh ta nói: “Tôi làm về ngành khoa học vi tính”. Tôi nói: “Thế thì hay lắm. Tôi cũng làm việc với máy vi tính”. Thế là anh ta nói: “Thầy nói cái Tâm của Thầy như là một cánh cửa mở toang đón nhận mọi lòng từ bi nhờ ở ba mẹ Thầy. Trong thế giới (vi tính học) của tôi thì tôi sẽ nói đó là một cái máy vi tính chuyên môn gọi là Một cổng vào máy điện toán phục vụ duy nhất (single-sever) với băng thông vô tận.. Tôi nói: “Đúng lắm”.

 

David Miller –  Thực sự thế là thế nào?

Hằng Thật –Ông liên lạc với tất cả mọi người thông qua cái cổng (portal) đó. Nếu tâm ông không thất vọng, không chịu bỏ cuộc, thì dần dà mọi người bên ngoài sẽ cảm nhận được. Ông có thể làm đi làm lại nhiều lần. Lần hồi về sau, khi đã làm đầy đủ chuyện cần làm, thế giới sẽ lần lần khá hơn lên. Vì vậy Phật giáo không phải là một cái bánh vẽ trên trời. Đạo Phật là điều thực có. Đó chính là bạn tự hỏi mình,  mới có một cái ý niệm gì vậy? Bạn để nó đi hay đem nó quay trở lại? Nếu bạn làm được thì tức là đang làm cho thế giới này được an bình, trong từng niệm, từng niệm.

 

 

 

 

Trong khi đi bái hương, Thầy Hằng Thật và Thầy Hằng Triều vẫn viết thư về cho Sư phụ Tuyên Hóa. Thầy Hằng Thật, trong một thư, có kể lại cho Sư phụ một câu chuyện. Ngày 10 tháng 9, 1979, khi bái lạy tới Boonville Road, gần về tới Vạn Phật Thành, thì có một cô gái đến nói với Thầy Hằng Thật rằng: “Bạch Thầy. Mẹ con đã rời khỏi Việt Nam bằng đường biển. Cho đến nay không một ai có tin tức gì của mẹ con cả. Có lẽ mẹ con đã chết ngoài biển cả rồi. Mong Thầy nghĩ về mẹ con khi cầu nguyện”. Thầy Hằng Thật rất cảm động trước lời thỉnh cầu đầy nước mắt ấy.  

Ghi chú của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ:

(1) Thầy Hằng Thật giữ hạnh tịnh khẩu trong sáu năm, trong suốt thời gian này Thầy chỉ giảng kinh, tuyệt đối không nói chuyện, và không thư từ với gia đình. Xin xem thêm bài Niềm Hãnh Diện Về Con Trai Tôi – Những Lời Chân Thành Của Thân Mẫu Một Vị Tỳ Kheo

(2) Hòa Thượng cũng thường nói: “Nhân đạo tận, Phật đạo thành (Làm người toàn mỹ thì Phật đạo thành)”.

(3) Chuyến hành hương Tam Bộ Nhất Bái – Ba Bước Một Lạy– hơn 700 dặm trong 2 năm 9 tháng từ chùa Kim Luân ở Los Angeles đến Chùa Vạn Phật tại Talmage, California. Bản dịch tiếng Việt http://www.dharmasite.net/thuhanhgia.htm 

American Pilgrimage – Three Steps, One Bow for Peace
eBook – 352 Pages – Text and Photos – (1.6 MB) – Free Download