Hướng Dẫn Thiền Tập 

Hòa Thượng Tuyên Hóa

 

 

 

  1. Sơ Cơ Tập Thiền
  2. Kiên Nhẫn và Tôn Trì Quy Củ
  3. Mỗi Người Phải Tự Chấm Dứt Sanh Tử Của Chính Mình
  4. Thiền Là Nhiếp Tâm  
  5. Thu Thập Thân Tâm

 

Phụ Lục

Trích Khai Thị 5

 

toasenvaluanxa5B15D.gif

  1. Sơ Cơ Tập Thiền

Tiếng Hán, ngồi thiền là “đả tọa”. Tọa là ngồi, còn đả nghĩa là đánh. Ngồi chịu đòn, chịu đánh. Song ai đánh ai đây? Bạn tự đánh bạn đấy! Thế nghĩa là lý gì? Đa số người khi bắt đầu tập ngồi, họ không thực hành một cách thành thật, hễ ngồi vào thì thân nghiêng qua vẹo lại, đầu chúi tới gật lui, loay hoay nhúc nhích hoài mà không an định được. Tóm lại, họ ngồi không yên định được. Tuy vậy, chính cái chỗ, chính cái lúc không an định này mình phải làm chủ: đó gọi là định. Thân không muốn định, mình phải quản thúc, kiềm chế nó, cũng giống như “đập” nó vậy. Do đó gọi là “đả tọa”. Bạn cũng không để tâm ngó ra ngoài. Mỗi khi ý niệm chạy rong bạn phải lập tức kéo nó về lại, khiến cho tâm mình không chạy ra ngoài. Bạn sẽ cảm giác cái việc “kéo lại” này đau khổ thật chẳng khác gì sự khổ sở của kẻ bị đánh vậy. Do đó gọi là “đả tọa”.

Vì vậy, việc tiên quyết của kẻ sơ cơ tập thiền là phải chịu khổ. Cái khổ này không thật là khó nhẫn, cũng chẳng có chi là to lớn lắm đâu, chỉ là đau chân, mỏi lưng, nhức xương vậy thôi. Do thế chữ “đả tọa” không phải là thứ ngọt ngào dễ nuốt đâu. Song, nếu bạn không “đả tọa” thì vĩnh viễn bạn chẳng gặt hái được thứ gì ngọt ngào. Do đó cổ nhân nói:  

“Chẳng chịu một phen lạnh thấu xương
Sao đặng hoa mai thơm ngát hương?”

 

Ở Mỹ ai cũng chủ trương tự do. Con nít tự do phát triển, chẳng ai phiền kỷ luật dân dạy chúng. Đó là một quan niệm lầm lẫn về tự do. Trẻ em nếu không dạy dỗ thì sẽ vô quy tắc, vô lễ độ. Đương nhiên có những em phát triển đúng theo đường hướng tốt đẹp thánh thiện. Song đại đa số trẻ em đều trưởng thành theo khuynh hướng hạ lưu, xấu xa (mà xã hội làm bối cảnh). Thậm chí có trẻ em trở nên du đảng, giết người, đốt nhà, cướp của, buôn bán thuốc phiện, không có chuyện gì mà chúng chẳng thể làm. Đó âu cũng là lầm lẫn và lạm dụng hai chữ “tự do”.

Nhiều phụ huynh biết sanh con đẻ cái, song chẳng biết giáo dục cho con cái đúng đắn. Việc này thật chẳng khác gì trồng cây. Khi cây non đâm cành, nẩy nhánh tứ phía loạn xạ, mà mình không xén, không tỉa chúng thì tương lai cây sẽ chẳng phát triển tốt đẹp đặng. Rốt cuộc cây cũng chỉ đáng dùng làm củi chụm mà thôi. Song le nếu biết tỉa, chẳng lo cây ngay từ lúc còn non nớt thì cây sẽ lớn mạnh, cao thẳng tốt tươi, vòi vọi. Lúc ấy ta có thể dùng cây để làm nhiều chuyện hữu ích: làm đà, làm trụ, xây nhà, xây cửa. Do đó, đã có con cái, phận làm cha mẹ phải dạy dỗ chúng con đường chính. Dẫn dắt chúng hướng về nẻo lành, nếu không phụ huynh thật không tròn trách nhiệm của mình vậy.

Việc dạy dỗ con cái ra sao thì việc tọa thiền cũng hệt như vậy. Mọi người trong ta đều có một trẻ con phải dạy dỗ; đó là “tâm” của mình. Tâm (chỉ vọng tâm) thì cũng giống như đứa con nít, vô cùng non nớt, ấu trĩ. Do đó nó thì lúc muốn lên trời, lúc lại xuống đất; khi thì nghĩ thiện, khi thì tưởng ác. Chỗ dụng công của việc ngồi thiền chính là ngay đó:

Ngay lúc ta chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác chính là chỗ ta phải đem vọng tâm, cuồng tưởng, tạp niệm thu hồi trở lại. Song làm sao thu hồi? Đây,  

  1. Đừng tranh: lòng tranh giành, tranh cãi, đấu tranh, là lòng sân hận ai cũng có. Tuy chẳng ai miễn được, song le mình phải giảm thiểu tối đa.
  2. Đừng tham: không nên tham lam tiền của vật chất, tham lam sắc dục. Một khi tham lam mê mẫn rồi thì chẳng khi nào mình tỉnh ngộ.
  3. Đừng cầu: chẳng nên tìm cầu, đòi hỏi, truy đuổi theo những thứ bên ngoài. Càng không nên mong mỏi những thứ bên ngoài. Càng không nên mong mỏinhững thứ chẳng thuộc về mình.  
  4. Đừng ích kỷ: Lòng ích kỷ là gốc của mọi phiền toái, mọi lôi thôi rắc rối. Nếu mọi người chẳng ai ích kỷ thì thiên hạ sẽ thái bình, chiến tranh tai nạn chấm dứt.Người tu càng không nên ích kỷ. Tuy bạn chẳng thể lập tức trừ đoạn nó ngay, nhưng phải hết mình ra sức mà khử nó.
  5. Đừng tự làm lợi mình: A! Ngồi thiền chẳng phải là tự lợi sao? Có thể là tự lợi nhưng cũng là lợi tha. Nếu bạn làm tấm gương tốt thì sẽ ảnh hưởng kẻ khác cũng trở thành tốt. Vì sao thế giới không tốt? Bởi vì cá nhân mình không tốt. Nếu cá nhân mình tốt thì mọi người chịu ảnh hưởng, ai cũng sẽ tốt.
  6. Đừng dối trá: lúc nào bạn cũng nên chân thật và thành ý. Bạn không muốn lừa ai, cũng không muốn tự lừa mình. Chẳng nên nói dối ai, mà cũng chớ tự nói dối.

 

Sáu điều trên là điều kiện tiên quyết cho việc tọa thiền. Bạn cần thấu triệt chúng, ngay trước khi co chân xếp bằng.  

 

  1. Kiên Nhẫn và Tôn Trì Quy Củ

 

Điều đầu tiên cần học khi thực tập thiền quán là phải kiên nhẫn và tôn trì quy cũ. Nên nói:”bất dĩ quy cũ, bất thành phương viên”, nếu không có côm-pa và thước T, làm sao chúng ta có thể vẽ vòng tròn và hình vuông được? Nếu không giữ quy cũ, làm bất cứ việc gì đều không thành tựu.

Trước hết, các vị phải nhẫn chịu đau chân và đau lưng. Cả trong khi tâm các vị loạn động và trạo cử, các vị phải tìm một cách nào đó để bình tịnh nó. Tốt hơn hết là quý vị ngồi trong tư thế kiết già. Thế ngồi này được gọi là “kim cương tọa”. Khi các vị ngồi trong thế kim cương tọa, các vị có thể dễ dàng nhập định. Khi thấy quý vị nhập kim-cương đại-định, ngay cả chư quỷ cũng sẽ nể sợ và không dám quấy rầy.

Mỗi thời thiền tọa được báo hiệu bằng ba tiếng mõ. Sau khi tiếng mõ đã được đánh lên, mọi cử động đều phải ngưng lại và mọi người đều giữ yên lặng trong suốt thời thiền tọa. Không phải chỉ mọi người phải giữ im lặng, mà ngay cả ma quỷ và các Thiện Thần Hộ Pháp cũng không dám gây ra một tiếng động nào. Điều lý tưởng là ngồi trong tư thế kiết già và giữ tâm bình khí hòa.

Bây giờ tôi sẽ kể cho quý vị câu chuyện về “Quỷ-Bức Thiền-Sư”. Vị này vốn làm nghề tụng kinh thuê cho những người thuê ông ta cầu siêu cho các vong linh quá cố. Ông được gọi là “Ông Nam-Mô” – một ông thầy cúng suốt ngày ông ta tụng “Nam mô, Nam mô, Nam mô” không biết bao nhiêu lần. Ông tụng thật nhiều “nam mô” nhưng cũng chỉ “nam mô” cho người khác và không bao giờ “nam mô” cho chính mình. Ông không bao giờ “nam mô” để thấy mình đang làm gì.

Rồi thì một ngày nọ, ông ta đi “nam mô” cho ai đó và sau đó thì trở về nhà. Có lẽ lúc đó trời đã xế chiều; trên đường về, ông đi ngang qua một làng nhỏ và một con chó sủa lên khi ông đi qua. Trong nhà, tiềng một người đàn bà già nói “Ơ, coi ai ngoài đó mà con chó sủa dữ dội vậy?” Có tiếng một người đàn ông đứng dậy và đến nhìn qua lỗ hổng nơi cửa sổ. Cửa sổ không phải bằng kiếng mà bằng giấy dầu. Người đàn ông nói “Ồ, đó chỉ là con ma chuyên chy tụng kinh sám”. Ông ta nói lớn tiếng làm cho ông thầy nghe được và tự bảo rằng “Kìa, tại sao anh ta gọi mình là con ma chy tụng kinh sám? Mình luôn luôn tụng kinh để giúp người, vậy mà ông ta bảo mình là con ma chy tụng kinh sám!”.

Nhưng dầu sao thì ông ta cũng không làm gì được; vì thật tình chính ông ta đi tụng thuê cho người khác, và nếu có ai muốn gọi ông ta là một con ma tụng kinh thì ông ta cũng không kiện thưa người ấy được. Nghĩ vậy, ông bèn nuốt hận kềm chế sự tức giận của mình.

Một lát sau, ông đến một cái cầu. Trời bắt đầu mưa, cho nên ông chui xuống gầm cầu để trú mưa. Bấy giờ ông ở dưới cầu, được khô ráo, nhưng trận mưa dai dẳng làm cho ông không có cái gì để làm cho qua thì giờ. Vì không có gì để làm, ông tự bảo “Ồ, ai cũng nói rằng ngồi thiền được lắm. Vì rằng mình chẳng có gì làm cả, trong khi chờ đợi, mình thử thiền xem sao”. Rồi ông ngồi xuống, và kéo chân thành thế kiết già. Ông xếp chân và ngồi rất nghiêm túc, và ngay lúc ấy, một sự lạ lùng mầu nhiệm xảy ra.

Hai con quỷ hiện ra. Mặc dầu chưa bao giờ ông thực sự thấy quỷ, ngày này qua ngày khác ông thường độ họ, cho nên ông ta ít nhiều cũng được coi là quyến thuộc của chúng và ông ta không tỏ vẻ sợ hãi. Một con quỷ nói với con kia: “Có một ngôi chùa vàng ở đây. Nhanh lên! Hãy đảnh lễ đi! Có xá-lợi của Đức Phật ở trong ngôi chùa vàng. Nếu chúng ta đảnh lễ xá-lợi Phật, nghiệp chướng của chúng ta sẽ được tiêu trừ.” Thế là hai con quỷ bắt đầu đảnh lễ, sau khi chúng nó đảnh lễ hồi lâu thì cái chân của vị tăng được gọi là “con ma chuyên chy tụng kinh sám” bắt đầu bị đau. Để có thể ngồi thoải mái hơn, vị tăng chuyển thế ngồi kiết già thành thế ngồi bán già, đó là tư thế chân trái nằm trên bắp đùi phải.

Lần này hai con quỷ đến đảnh lễ, thấy có chuyện lạ, một con quỷ nói:

“Nè”! Ngôi chùa vàng kia vừa chuyển thành ngôi chùa bạc. Mày có nhận ra không?”

“Thì sao nào?”, con quỷ kia đáp lại “Chùa bằng bạc vẫn quý rồi, chúng ta nên đảnh lễ đi!”

Rồi cả hai con quỷ đồng đảnh lễ, chúng đảnh lễ một hồi  lâu cho đến khi chân của vị tăng lại bị đau và ông ta uể oải duỗi ra nghỉ, giống như khi quý vị từng làm mỗi khi ngồi thiền mệt mỏi. Vị tăng lúc đó suy nghĩ: “Ta nên nằm nghỉ chốc lát.” 

Nhưng ngay lúc đó, hai con quỷ thoáng thấy ngôi chùa mình đang lạy biến thành một đống bùn. Một con quỷ kêu lên: “Nè! Coi kìa, nhanh lên! Hãy đánh nó đi!”.Nhận thấy hai con quỷ sắp đánh mình, vị tăng sững người vì sợ hãi, nhẹ nhàng trở lại ngồi gọn gàng trong tư thế kiết già. Vừa đúng lúc hai con quỷ đồng thanh la lên: “Ồ! Thật đúng là xá-lợi của Đức Phật ở trong đó. Thật là trò biến hóa như yêu quỷ. Phút trước đó là ngôi chùa vàng, phút sau là chùa bạc, rồi trở thành đống bùn. Chúng ta tốt hơn chỉ nên đảnh lễ bất luận chuyện gì xảy ra!”, rồi chúng lạy không nghỉ cho đến khi trời sáng.

Sự kiện này có một ảnh hưởng tác động đến vị tăng – “con ma chuyên chy tụng kinh sám” . Ông ta ngồi suy nghĩ: “Nếu ta ngồi trong tư thế kiết già thì đó là ngôi chùa bằng vàng, nếu ta ngồi với tư thế bán già thì đó là ngôi chùa bằng bạc, còn nếu ta không ngồi với hai tư thế ấy thì chẳng có gì khác ngoài một đống bùn. Tốt hơn là nên bắt đầu tu tập, không nên chạy tụng kinh đám nữa.” Rồi ông ta vùi mình trong đề tài ấy ngay và công phu tham cứu rất nghiêm mật. Sau một thời gian, ông được ngộ đạo, được tặng danh hiệu “Quỷ Bức Thiền Sư” (Thiền Sư bị quỷ bức bách) vì nếu ông không bị hai con quỷ dọa đánh, ông chắc hẳn sẽ còn trì hoãn công phu và sẽ không bao giờ thành công trong việc tu tập.

  1. Mỗi Người Phải Tự Chấm Dứt Sanh Tử Của Chính Mình

 

Tham thiền là pháp môn ấn tâm vi diệu do đức Thích Ca thân truyền tại đỉnh Linh Sơn. Dạo ấy, đức Phật cầm một cành hoa trong tay và đưa lên, miệng mỉm cười. Không ai trong pháp hội hiểu đặng ý Phật, duy chỉ có ngài Ma Ha Ca-Diếp minh bạch ý chỉ của Phật. Ngài liền mỉm cười. Đây là lần đầu tiên pháp môn “dĩ tâm ấn tâm” được truyền và  từ đó, pháp môn ấy được các vị Tổ truyền thừa cho các thế hệ tiếp nối.

Ngài Đại Ca-Diếp lúc bấy giờ đã trên trăm tuổi. Là vị tu hạnh đầu-đà bậc nhất, luôn luôn phấn chấn nỗ lực dụng công, Ngài không cười cợt bừa bãi đâu. Lý do Ngài mỉm cười là vì liễu ngộ ý chỉ của Phật, rồi biểu thị pháp “lấy tâm ấn tâm” đấy.

Đức Phật Thích Ca truyền pháp môn này cho Ngài Đại Ca-Diếp làm sơ tổ. Sơ Tổ truyền cho Tổ thứ hai là Ngài A-Nan-Đà. Ngài A-Nan-Đà lại truyền cho Tổ thứ ba là Ngài Thương-Na Hòa-Tu, và Ngài Thương-Na Hòa-Tu truyền tiếp cho vị Tổ thứ tư là Ngài Ưu-Ba Cấp-Đa. Cứ như thế “tâm pháp” được truyền thừa cho đến Ngài Bồ Đề Đạt-Ma, vị Tổ thứ 28 ở Ấn Độ. Ngài Bồ Đề Đạt-Ma nhận thấy căn-tánh dân Ấn lúc bấy giờ chưa thuần thục, trong khi căn tánh dân Trung Hoa thì chín mùi, đủ sức tiếp thọ Pháp Đại Thừa. Vì thế Tổ dùng đường biển đi qua Trung Hoa, và đến Quảng Châu vào năm 527 sau Tây lịch. Do đó Quảng Châu còn được gọi là “Tây Lai Sơ Địa”. Nhưng người Quảng Châu bấy giờ chưa có thể tiếp nhận Pháp Đại Thừa này liền vì họ không nhận biết Tổ là ai. Họ miệt thị gọi Ngài là “malacha” (quỷ la sát!). Một từ ngữ khinh miệt dùng để gọi người Ấn Độ. Người bèn đi Nam Kinh bổn ý là muốn độ Pháp Sư Thần Quang. Khi Pháp Sư Thần Quang giảng kinh ở Nam Kinh, biện tài của Ngài vô ngại đến nỗi chư thiên tán hoa trên trời xuống, và dưới đất sen vàng vụt mọc lên.

– Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma hỏi Ngài Thần Quang:

 “Ông giảng kinh để làm gì?”

-“Tôi giảng để dạy người liễu sanh thoát tử”

– Ngài Bồ-Đề-Đạt-Ma lại hỏi: “Trong kinh toàn là giấy trắng mực đen, ông nương vào đâu liễu sanh thoát tử?”

Nghe vậy Ngài Thần Quang bực mình lắm, nghĩ rằng ông râu này phỉ báng Tam Bảo. Nổi giận, Ngài cởi chuỗi tràng hạt bằng sắt nặng chình chịt ra quấn vào mặt Tổ, đánh gãy mất hai chiếc răng của Tổ. Ngày xưa, rất nhiều người biết võ công kể cả những thầy tu.. đã là thầy tu thì không được mang khí giới trong mình, cho nên nhiều thầy đeo chuỗi hạt bằng sắt để làm khí giới phòng thân, sử dụng nó như cây nhuyễn tiên để đối địch.

Lại nói truyền thuyết về hàm răng của những vị Thánh nhân: rằng nếu răng của vị Hiền Thánh rơi xuống đất, thì trời sẽ hạn hán ba năm, và người dân vùng ấy có thể chết đói vì mất mùa. Cho nên khi thấy mình bị đánh gãy luôn một lần hai cái răng, Tổ không nỡ để cho dân chịu khổ vì mình. Thay vì để răng rơi xuống đất, Ngài nuốt chửng hai răng ấy, rồi bỏ đi.

[Ở Trung Hoa có câu tục ngữ “Đả nha vãng đổ liễu yến” nghĩa rằng nếu răng ông bị đánh gãy, hãy nuốt vào bụng là từ giai thoại này mà ra.]

Khi lời thốt ra mà không ứng hợp, Tổ liền biết hiện tại cơ duyên Thần Quang chưa đến, Ngài liền tới núi Tung Sơn, tỉnh Hồ Nam. Trên đường Tổ gặp một con chim oanh vũ bị nhốt trong cái lồng mây. Con chim nhận ra Ngài và hỏi:

“Tây lai ý,
Tây lai ý,
Thỉnh nhữ giáo nhã
Xuất lưng kế”  

Tạm dịch:

“Với ý chỉ từ phương Tây,
Với ý chỉ từ phương Tây,
Xin Ngài dạy con,
Kế sách thoát khỏi lồng này”

Bồ-Đề-Đạt-Ma bèn dạy cho chim kế rằng:

“Xuất lung kế,
Xuất lung kế,
Lưỡng thối trường thân,
Lưỡng nhãn bế,
Thử tiện thị nhữ xuất lung kế”

Tạm dịch:

“Kế thoát lồng,
Kế thoát lồng,
Hai chân duỗi thẳng
Mắt nhắm nghiền,
Chính là diệu kế bay thoát lồng”

 

Con chim lắng nghe xong là hiểu ngay. Rồi nó ngay cẳng ra, nhắm nghiền mắt lại, giả chết. Khi người chủ chim đi làm về, anh ta đến lồng thấy chim, bèn la lên:“Úi da! Chim ơi ngươi làm sao thế?”

Hoảng hốt, anh ta mở cửa lồng, bồng chim ra. Chàng chim nín thở bất động… Người  chủ chim thấy làm lạ, coi tới coi lui chàng chim, rồi ngĩ: “Chim không cục cựa, giống y như đã chết. Song chết rồi thì sao thân không lạnh?”. Do dự, phân vân hết sức, anh ta từ từ mở tay ra… Đúng lúc ấy, chàng chim vỗ cánh bay khỏi tay anh ta. Tự do!

Câu chuyện này đáng làm cho chúng ta suy nghĩ. Ai trong chúng ta không như chim nhốt trong lồng? Tuy ngày ngày ta sống nhởn nhơ, song ta nào có tự do, ra ngoài vòng sanh tử. Mà sự thật là ta sanh ra mê muội, rồi thì mê muội chết đi, chưa hề thấy bản lai diện mục của mình. Vì vậy, nếu muốn được tự do sanh tử, thì trước hết hãy coi mình là kẻ đã chết.* Cho nên nói:

“Nhược dục nhân bất tử
Tức hạ tử công phu.”

Tạm dịch:

“Nếu muốn mình không chết
Thì phải tu hết mình”

 

Mục đích việc tu hành, là muốn thấu rõ mình từ đâu sanh ra và mình chết sẽ đi về đâu? Và để thấu rõ lý do gì mình không thể làm chủ vận mạng của chính mình.

“Có chứ”. Các vị có thể nói: ”Tôi làm chủ thân tôi. Thân này thuộc về tôi”. Nếu các vị thật sự làm chủ thân mình, sao các vị chẳng làm thân trẻ mãi không già? Đến lúc bịnh sao các vị không tự chủ – đừng bịnh? Tới lúc chết, các vị lại càng không thể tự chủ. Cho nên mình cần phải thật sự hiểu rõ ngọn ngành sanh tử. Rằng:

Lai thời hồ đồ, khứ thời bi
Uổng tại nhân gian, tẩu nhất hồi
Bất như bất lai diệc bất khứ
Diệc vô hoan hỉ diệc vô bi.”

Tạm dịch:

“Đến thật hồ đồ, đi buồn lo
Sống uổng trên đời chạy vòng vo
Chi bằng không đến cũng không đi
Cũng chẳng vui sướng chẳng sầu bi.”

 

Con người sanh ra trong u mê, chết đi trong u mê. Khi lâm chung thì buồn rầu khổ não. Nếu bị cảnh trạng này xoay chuyển thì làm người thật vô nghĩa. Vòng vo quanh quẩn hoài trong u buồn, khổ bi thì thật uổng đời lắm. Chi bằng không đến không đi, há không khỏe hơn sao? Được vậy tức thoát khỏi vòng hoan hỉ sầu bi, thực sự tự do tự tại.

Chúng ta không nên tự nhốt mình trong lồng. Lồng gì? Chiếc lồng là thân này. Thân người là một tập hợp hư giả của tứ đại: đất, nước, gió, lửa mà bổn hữu Phật tánh thì bị nhốt trong cái lồng tứ đại ấy, y như chim bị nhốt trong lồng, không thể thoát ra được. Nếu muốn thoát lồng mình phải học “vô quái vô ngại, vô khủng vô bố, vô phiền vô não” (không chướng ngại ai, cũng không gì chướng ngại mình, không sợ hãi gì, cũng không làm ai sợ hãi, không có phiền não gì, cũng không làm ai phiền não). Có nghĩa là chúng ta phải làm chủ chính mình. Vì lý do đó, chúng ta nên học ngồi thiền. Mỗi người phải tự chấm dứt sanh tử của chính mình. Không một ai khác có thể làm chuyện ấy thay mình.. người khác có thể chỉ đường, nhưng mình phải tự mình bước đi. Nếu các vị muốn thoát lồng thì phải tự mình nỗ lực, phải một phen khổ công!

 

  1. Thiền Là Nhiếp Tâm

 

Tọa thiền là con đường mà mọi hành giả phải đi. Thiền là gì? THIỀN, từ Phạn ngữ DHYANA, có nghĩa là “tu phép tư duy”“lắng tư lự”. Người Hoa thường đơn giản hóa ngoại ngữ, nên họ chỉ giữ lại vần đầu của danh từ DHYANA, chỉ còn đọc là CHAN (Thiền).

Tọa thiền thì phải ngồi thiền. Vì sao vậy? Để nhiếp tâm. Khi kẻ sơ cơ tập ngồi thiền, thân y tuy ngồi nhưng tâm chẳng ngồi. Tâm y cứ mãi miết phóng theo vọng tưởng, không biết đến đâu: lúc Đông lúc Tây, chợt Nam chợt Bắc. Giống như được ngồi hỏa tiễn miễn phí, tâm bay lạng khắp nơi. Những vọng tưởng, ý nghĩ lăng xăng ấy, thật khó khống chế vô vàn.

Tại sao người ta không có trí huệ? Bởi vì những suy nghĩ của họ cứ mãi lăng xăng chạy ra ngoài. Tại sao người ta già đi mỗi ngày? Bởi vì tâm của họ luôn luôn truy đuổi hết việc này đến việc khác. Tương tự như một chiếc xe mới: nếu các bạn lái một cách bừa bãi, các bạn sẽ lãng phí rất nhiều xăng. Chẳng những thế, chiếc xe của các bạn sẽ hư cái này, hỏng cái nọ, và có thể chẳng bao lâu nó sẽ nằm liệt. Nguyên lý này cũng áp dụng cho thân thể chúng ta. Nếu các bạn không biết điều hòa nó, ghép nó vào lỷ luật mà lại để cho nó tự do phóng túng, thì rốt cuộc các bạn sẽ tốn rất nhiều xăng. XĂNG ở đây là gì? Chính là cái khí lực tinh thần quý báu của các bạn. Bất luận đổ xăng nhiều bao nhiêu, các bạn ngày nào cũng lái xe vòng vo vô ích, thì bình xăng sẽ chóng cạn. Có kẻ ăn những thứ bổ dưỡng, nghĩ rằng thức ăn ấy có thể tăng thêm tinh thần khí lực của họ; song nếu họ không biết trân quý tinh thần của chính họ, bất luận ăn nhiều thứ bổ đưỡng bao nhiêu, họ cũng không thể bổ sung được cái tinh lực mà họ phung phí. Vì lý do này, nên có câu:

 

Chế chi nhất xứ
Vô sự bất biện  

Nghĩa rằng:

Giữ tâm một chỗ
Không gì chẳng xong.

 

Các bạn phải tập thu tâm lại, kềm nó nằm yên một chỗ. Như vậy các bạn sẽ không lãng phí tinh lực, làm khô cạn nguyên lực tinh thần của mình. Nguyên tắc này cũng như ví dụ việc lái xe: Nếu các bạn khéo giữ gìn, cẩn thận lái xe thì sẽ không xảy ra tai nạn mà chiếc xe của các bạn sẽ hữu dụng trong một thời gian rất lâu. Cùng thế ấy, nếu các bạn biết điều hòa cơ thể, cơ thể sẽ không già. Thật ra, nó không chết!

“Tôi không như thế”, có người nói. “Ai cũng phải chết. Ngay cả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài cũng phải nhập Niết Bàn. Làm sao Thầy có thể nói được là thân xác của  chúng con sẽ không chết?”.

Các bạn phải nên biết: Đức Phật nhập diệt sau khi hoàn tất sứ mệnh giáo hóa của Ngài, nhưng Ngài không chết như mọi  người. Ngài đã đi vào trạng thái không sanh không diệt, một trạng thái rốt ráo, hoàn toàn thanh tịnh. Đức Phật đã chứng đắc đại trí, và giải thoát khỏi sanh tử. Ngài tự do đến, tự do đi. Ngài khác với kẻ phàm phu chết vì bệnh tật. Khi đã làm xong tất cả việc phải làm, cứu độ hết thảy chúng sinh có nhân duyên với mình, Phật liền nhập diệt. Trước khi nhập diệt Ngài triệu tập tất cả các vị Bồ Tát, Thành Tăng, các vị A La Hán, trời,  người, và tất cả chúng sanh trong mười phương đến Pháp hội để họ có thể từ biệt Ngài. Điều này cho thấy rằng Ngài biết trước và thấu triệt sự sống chết của Ngài. Nếu các bạn muốn biết thêm, hãy đọc kinh Đại Bát Niết Bàn.

Mục đích của tọa thiền là nhiếp tâm. Đồng thời các bạn cũng nhiếp tâm, nhiếp khẩu, nhiếp ý, để cho ba nghiệp được thanh tịnh. Thật vậy, khi các bạn ngồi thiền, thân các bạn không phạm giới sát, giới đạo, giới dâm; miệng không nói dối, nói lời thô ác, nói lưỡi hai chiều, nói lời ý ngữ; tâm không tham, không sân, không si; ý nghĩ không tuy đuổi việc bên ngoài. Khi ấy thân tâm các bạn mới yên ổn – thì đây là lúc để các bạn bắt đầu tập ngồi thiền. Ngồi thiền là nhắm đến việc điều hòa thân tâm, để cho thân không bị bịnh tật, miệng không nói lời bất thiện, và tâm không tranh chấp, không tham lam, không truy cầu, không ích kỷ, không thủ lợi cá nhân (tự lợi). Khi ba nghiệp được tịnh, thì trí huệ sanh. Tọa thiền lại trở về nguồn, phục hồi trí huệ bản hữu, phóng đại quang minh.

Tất cả các bạn tới đây học Phật Pháp. Các bạn hãy dành đủ thời giờ, mặc dù công việc có bề bộn bao nhiêu. Dầu cho các bạn có trễ mất một buổi ăn, hay được ít tiền đi, các bạn cần phải kiếm thì giờ để học và hành Phật Pháp. Hãy đem lòng chân thật ra tu, rồi các bạn sẽ được cảm ứng. Nhưng nếu các bạn cho rằng ăn là quan trọng hơn Phật Pháp, hoặc là tiền có ý nghĩa hơn giáo pháp, thì các bạn sẽ không học được pháp nào. Các bạn hãy coi Phật Pháp là thiết yếu và quan trọng hơn mọi sự. Đó là thái độ căn bản của mỗi Phật tử.

 

  1. Thu Thập Thân Tâm

 

Các bạn ngồi thiền thì phải biết mục đích ngồi. Thiền là phương pháp tu luyện sự tư duy, cũng là cách làm cho yên lặng mọi tư lự. Lúc bình thường chúng ta không ai nghĩ đến việc tu: do đó, mình bị 6 căn, 6 trần và 6 thức làm mê mờ, khiến quên tu. Do đó, ngồi thiền là cốt để hồi quang tự soi tâm mình, không chạy theo ngoại cảnh mà quét sạch nội tâm. Mình phải quét sạch hết mọi thứ cuồng tâm, dã tánh, tư dục, tạp niệm, vốn dĩ là những thứ chướng ngại sự tu hành. Giả sử bạn là kẻ có tâm cuồng vọng, tự đại đến độ không ai ưa bạn cả, hoặc bạn luôn có ý tưởng làm giàu, phát tài, hưởng thụ, ích kỷ, tự lợi, dối trá, tham lam, tranh giành, chạy theo ngoại vật v.v…thì bạn nên biết những ý tưởng ấy chính là “cuồng tâm” đấy.

Khi bạn ngồi thiền, hãy xoay ánh sáng tâm linh soi sáng cõi lòng: bạn soi cho hết thất tình* lục dục** 6 căn 6 trần. Ngay lúc chiếu soi như vậy, bạn cần phải phản tỉnh tư duy: “Hằng ngày có phải chăng tôi cứ hướng tâm ra ngoài tìm cầu? hay tôi hướng nội, soi lòng để tìm chân lý?” Làm vậy tức là bạn phủi bụi nơi tấm gương tự tánh: Trí Huệ Tròn Đầy (Đại Viên Kính Trí). Tấm gương trí này xưa nay vốn thông thiên triệt địa, song le hiện nó tạm thời bị bụi bặm phủ kín. Do đó, Ngài Thần Tú Thiền sư dạy rằng:                                                                     

Thân như cây Bồ đề 
Tâm như đài kính sáng
Luôn luôn siêng phủi sạch

Chớ để bụi dính đầy.

Cây Bồ đề chỉ sự giác ngộ; đài kính sáng tức là tấm gương trí huệ. Lúc nào bạn cũng phải nhớ lau chùi tấm gương ấy, không để bụi bám vào. Trí huệ tròn đầy như tấm gương này, xưa nay không việc gì mà nó không biết; nó rõ suốt và thấy suốt vạn sự. Song le bởi do ta bị 6 căn, 6 trần, 6 thức dụ hoặc nên cứ hướng tâm ra ngoài, rồi vì thế ta đánh mất đi trí huệ ấy, đắm mình theo việc truy đuổi hướng ngoại, không còn biết tự soi lòng nữa.

Do đó, thiền hay sự tu luyện tư duy thật đơn giản: hồi quang phản chiếu, tìm chân lý ở nội tâm. Các bạn không nên để mình bị cột cứng vào chuyện thăng quan, phát tài, công danh, lợi lộc…

Có vị hỏi: “Nếu chẳng đeo đuổi những thứ ấy, đời còn gì thú vị?” Các bạn cho rằng làm người là ý nghĩa thú vị lắm sao? Những việc bạn làm thực sự có giá trị chăng? Những việc ấy có giúp gì cho trí huệ của bạn không?

Nếu bạn phủi sạch bụi bặm, Trí Huệ Tròn Đầy Như Gương Sáng của bạn sẽ chiếu suốt thiên địa, thấu khắp ba ngàn cõi Đại Thiên Thế Giới. Lúc ấy bạn sẽ chẳng trở lại ngu si phiền não nữa, há đây chẳng phải là tuyệt diệu lắm sao? Trái lại, nếu bạn tối ngày đầy phiền não ưu tư, thì bạn tự tạo địa ngục, tự giam mình vào đó; há đây là chuyện khoái lạc lắm ư?

Tu hành là đoạn phiền não. Hiện tại các bạn ai cũng có phiền não. Nếu các bạn coi phiền não như cơm, mỗi ngày không ăn cơm phiền não, tựa hồ như không sống nổi, thế thì cuộc đời bạn cứu cánh có giá trị lắm sao?

Nhân vậy, khi tọa thiền bạn cần giữ, cột tâm vào một điểm, rồi tuyệt ưu tư phiền não. Mặc cho trời sập, đất long, bom nổ, bạn cứ điềm nhiên, đừng chú ý nó.

Bạn hỏi: “Nếu vậy, há tôi không trở thành thờ ơ, bỏ rơi thế sự sao?”  Bạn thật có khả năng khống chế, chủ động việc thế sự sao? Đừng nói đến bạn, là người dân bình thường, ngay cả các vị nguyên thủ, lãnh đạo quốc gia cũng không có năng lực làm chủ thế sự. Họ có khả năng làm người ta hết phiền não chăng? Các vị Cao Ủy Liên Hiệp Quốc có thể làm chủ lòng người chăng? Đừng nói chi tới lòng người khác, ngay cả như chính con tim của họ, họ có làm chủ được không?

Nếu bạn thật có khả năng đoạn hết phiền não, làm cho mọi người bình an, thì bạn mới đáng gọi là một bậc lãnh tụ thế giới. Trước mắt, bạn chưa thể làm vậy, do đó bạn phải bắt đầu từ nơi mình mà hạ thủ. Tức là: ghép mình vào kỷ luật, huấn luyện để tư tưởng bạn không còn tranh chấp, không còn tham lam, không còn mong cầu truy đuổi, không còn ích kỷ, tư lợi, dối trá. Làm được vậy, tối thiểu bạn không gây ô nhiễm môi trường, mà ngược lại bồi tiếp thêm chính khí trong trời đất, hóa giải đi mọi độc khí, sát khí dẫy đầy trong không trung. Nguyên lai, mục đích của tọa thiền là để ta trừ mọi thói hư, tật xấu, tham, sân. Do đó nếu bạn cứ đòi hỏi ăn ngon, mặc đẹp, ở sướng đồng thời lại muốn thành Phật, thì thật là điên cuồng.

Có người nói: “Ấy Thầy mở miệng là chửi mắng người ta!” Không đâu, tôi không chửi mắng các bạn; tôi chưởi mắng những con quỷ. Bởi vì trong bụng nhiều bạn đầy dẫy bọn quỷ. Khi bọn quỷ ấy nghe mắng thì chúng khó chịu bức rức lắm; thế rồi bọn quỷ đó xui khiến, làm những bạn ấy không còn chịu ngồi thiền nữa.

Bây giờ các bạn hãy nhân cơ hội tốt đẹp này mà phủi sạch bụi nơi tấm gương lòng, tức là Trí Huệ Tròn Đầy.

“Nhưng tôi không biết làm sao tu?”

Bạn hãy nhẫn nại. Chịu khó nhịn mắng, nhịn chửi. Từ từ bạn sẽ hiểu làm sao tu.

Khi Thầy Duy-na gõ khánh kết thúc buổi tọa thiền, các bạn từ từ duỗi chân ra và động đậy chút ít. Hãy làm một cách từ tốn khoan thai; không nên thô động, gấp rút. Tuy đây là một điểm nhỏ, song ngay ở việc nhỏ, vi tế ấy bạn học cách điều hòa thân và tâm. Ở trong thiền đường, dù cho có rất nhiều người tham gia, nhưng bạn không bao giờ nghe tiếng động lào xào, huyên náo. Ai ai cũng chuyên ý vào câu thoại đầu để dụng công.

 

Phụ Lục:

Trích Khai Thị 5

Qui Củ Thiền Thất

 

Năm 1959, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới (Dharma Realm Buddhist Association) được thành lập. Tiền thân của Hội là Tổng Hội Phật Giáo Trung Mỹ. Từ ngày thành lập đến nay, mỗi năm Hội đều tổ chức nhiều khóa Phật-thất và Thiền-thất; song, những Thất ấy đều được tiến hành trong im lặng nên rất ít người biết là tại Chùa Kim Sơn có đả Phật-thất hay Thiền-thất. Ðó cũng vì chúng ta không quảng cáo tuyên truyền, cũng không phan duyên, mà chỉ chân thật tu hành thôi. Nếu ai biết có đả Thiền-thất, muốn tới tham gia, thì vẫn được hoan nghênh. Song chúng ta tuyệt đối không cầu cạnh hay kêu gọi người khác giúp đỡ, nói rằng: “Chùa Kim Sơn đang đả Thất, có mấy vị ‘vô-tâm đạo nhân’ tu ở đó đấy. Quý vị hãy tới đó cúng dường thì công đức sẽ nhiều vô lượng.” Từ xưa tới nay chúng ta không hề rêu rao, tự quảng cáo như thế!

Ở Trung Quốc, mỗi khi có Thiền-thất, tiền cúng dường của thí chủ có thể đủ để trang trải chi phí cho cả năm; đôi lúc còn dư là đằng khác. Lúc đả Thất, rất nhiều vị cư-sĩ phát tâm cúng dường để kết thiện duyên và cung cấp cho chùa nhiều phẩm vật như gạo, mì, dầu, tương, thực phẩm khô, v.v…

Tại Mỹ, Phật-giáo đang còn phôi thai nên phải chuyển hóa những sai lầm của quá khứ để hướng tới chỗ hoàn mỹ. Có câu: “Bắt đầu tốt đẹp, tức là đã thành công được một nửa.” Chúng ta không dùng thủ đoạn để được cúng dường. Nếu chúng ta dùng những thủ đoạn và phương pháp như ở Trung Quốc, có lẽ chúng ta đã thành công hơn!

Vì sao chúng ta không cầu xin cúng dường? Bởi vì chúng ta trước hết cần phải thành thật tu hành và thuận theo sự sắp đặt của chư Phật, Bồ-tát. Chư Phật, Bồ-tát, Thiên-long Bát-bộ, Hộ Pháp Thiện-thần thấy chúng ta dụng công tu Ðạo, tự nhiên sẽ khiến cho có cảm ứng. Nếu chúng ta không chân thật tu hành, thì dù có người đến cúng dường, chúng ta cũng phải vô cùng hổ thẹn; vì:

Tam tâm bất liễu thủy nan tiêu,
Ngũ Quán nhược minh kim diệu hóa.

(Ba tâm chưa dứt, nước khó tiêu.

Năm Quán nếu rõ, vàng cũng hóa.)

Nếu chúng ta chưa đoạn ba tâm (tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai), thì dù thí chủ cúng dường một ly nước chúng ta uống cũng không tiêu hóa được. Nhưng nếu chúng ta hiểu rõ đạo lý của năm điều quán tưởng thì dù ăn vàng ăn sắt cũng tiêu hóa dễ dàng. Thế nào là Năm Quán?

  1. Hãy xét công lao nhiều ít đã tạo ra bát cơm này.
  2. Hãy suy nghĩ xem đức hạnh của mình hoàn hảo hay khiếm khuyết mà nhận đồ cúng dường.
  3. Hãy ngăn ngừa tâm mình, khiến xa lìa lỗi lầm, mà tham sân si là gốc.
  4. Hãy coi thức ăn là vị thuốc, dùng nó để trị thân khô gầy.
  5. Vì để tu thành Ðạo-nghiệp, do đó mình mới thọ thực.

Ðêm nay là bắt đầu Thiền-thất. Thiền-thất ở Chùa Kim Sơn chúng ta và Thiền-thất ở các tùng lâm bên Trung Quốc khác nhau lắm. Họ đả Thiền-thất thì cũng chính là đả “thực thất,” bởi vì đêm nào họ cũng ăn bánh bao! Ngay cả Chùa Kim Sơn ở Trấn-giang và Chùa Cao Mân ở Dương-châu cũng không ra ngoài lệ ấy. Rất nhiều Thiền-sinh chuyên môn tới những chùa có ăn bánh bao tối để dự Thiền-thất. Chỗ nào có bánh bao ngon là họ tới tham gia. Họ không chọn lựa phẩm chất của khóa Thiền mà chỉ chọn bánh bao to hay nhỏ, ngon hay dở. Do đó, một số chùa nổi tiếng là do có bánh bao to, ngon, thơm tho. Tôi nói vậy chẳng có ý hủy báng kẻ xuất gia không chịu buông bỏ chuyện ăn uống, mà chính vì thực tế có chuyện như vậy.

Chùa Kim Sơn ở đây không có tục lệ ăn bánh bao, dù là một miếng nhỏ ăn lót dạ cũng không có.

Ở Trung Quốc, trong khóa Thiền có rất nhiều cư sĩ đến cúng dường Thiền-sinh. Sau một giờ ngồi Thiền là có cư sĩ tới cúng dường bốn trái long nhãn. Sau giờ Thiền kế tiếp lại có kẻ khác tới cúng dường hai cái kẹo đậu phụng, hoặc miếng bánh. Nói tóm lại, cứ sau mỗi giờ Thiền đều có người tới cúng dường, khiến những vị “vô tâm Ðạo-nhân” nẩy lòng tham lam, ăn no phình bụng, chẳng thể tịnh tọa được nữa. Ở Chùa này những việc ấy sẽ không có; vì đó là sự khác biệt.

Mỗi sáng, từ hai giờ rưỡi là bắt đầu tịnh tọa, rồi kinh hành-liên tục tới mười hai giờ khuya mới nghỉ ngơi. Phải tu khổ hạnh, khổ luyện. Phải làm chuyện chẳng ai làm đặng. Song, nếu chẳng đem hai chữ “sinh tử” treo trên lông mày, mà ngược lại, cứ cho rằng ngủ không đủ, rồi ngồi đó mà nhập “Tam-muội ngủ khì”- nếu quả như vậy thì vĩnh viễn sẽ chẳng thành tựu được.

Phải “chẳng màng cái chết, quên đi mạng sống” mà đả thất. Phải chân thật dụng công đả thất. Phải gặt hái được kết quả mình phải đạt tới thì mới có thọ dụng. Chớ nên “tùy sóng đưa đẩy,” ai làm gì thì làm theo. Thấy ai ngồi, ngồi theo; thấy ai ngủ, ngủ theo-như vậy là không được, chỉ lãng phí thời giờ, chẳng có ích gì cho chính mình cả.

Xưa kia tôi từng tham gia đả Thiền-thất ở nhiều nơi. Ở đâu tôi cũng không bị vị Giám-hương (người đi tuần coi ai ngủ gục lúc ngồi Thiền thì dùng gậy đánh cho thức tỉnh) đánh cả. Vì sao? Bởi vì tôi không ngủ gật. Ban ngày ngồi ở Thiền-đường, ban đêm cũng ngồi ở Thiền-đường-cả ngày hai mươi bốn giờ đồng hồ tôi đều ngồi ở Thiền-đường, chẳng biết nghỉ ngơi là gì, ngủ ngáy là chi cả. Dù là một giây, tôi cũng chẳng lãng phí-lúc nào cũng dụng công phu mình phải dụng, lúc nào cũng đề khởi công phu của mình.

Quý vị ở đây đều là những người có thiện căn sâu dày, thông minh, có trí huệ. Quý vị phải coi việc tu hành này thật quan trọng, chớ nên làm cho có lệ. Trong kỳ Thiền-thất này, nhất định phải có kẻ khai ngộ. Nếu không có ai khai ngộ thì sau khi Thiền-thất kết thúc, quý vị mỗi người phải chịu đòn một trăm gậy! Quý vị cảm thấy có thể chịu nổi một trăm gậy thì chẳng cần khai ngộ; nếu không chịu nổi thì phải ráng khai ngộ! Nếu ai sợ bị ăn đòn, thì bây giờ, lúc chưa bắt đầu Thiền-thất, có thể thối lui! Một khi đã tham gia thì phải tham gia từ đầu tới cuối, không được thối lui nửa đường. Theo quy ước của Thiền-đường, quý vị đã cáo biệt việc sống chết rồi-nếu có ai chết thì chỉ có cách vất xác xuống dưới Thiền-sàng, không được phép khiêng ra ngoài. Huống hồ là không có ai chết, thì mình không được nửa đường rút lui.

Ngay đây quý vị phải vạch ra ranh giới giữa sống và chết. Nếu không sống tức là chết, nếu không chết tức là sống:

Xả bất liễu tử, hoán bất liễu sinh.
Xả bất liễu giả, thành bất liễu chân.

(Vất không đặng cái chết, đổi không đặng cái sống.
Bỏ không đặng cái giả, thành không đặng cái thật).

Ðó là cửa ngưỡng cửa của Chùa Kim Sơn. Do đó Thiền-thất năm nay, quý vị cần phải vô cùng nỗ lực. Bất kể ra sao đi nữa, quý vị phải nhận rõ “bản lai diện mục” của mình. Nếu không nhận thức được “bản lai diện mục,” thì không ai được tính chuyện trốn khỏi cửa lớn của Chùa Kim Sơn! Nếu quý vị trốn đi, quý vị sẽ bị “ở tù”! Ðại khái đó là quy luật của Thiền-thất năm nay, hy vọng quý vị sẽ tuân theo!

(Giảng ngày 6 tháng giêng, năm 1974 tại Chùa Kim Sơn, San Francisco)

Tham Thoại Ðầu-Dùng Vọng Tưởng Ðể Chế Phục Vọng Tưởng

 

Bây giờ sắp bắt đầu Thiền-thất.

Ở Thiền-đường thì chúng ta không niệm Phật; trong lúc đả Phật-thất thì chúng ta không tham Thiền. Bây giờ, chúng ta phải “đi cũng Thiền, ngồi cũng Thiền, đứng cũng Thiền, nằm cũng Thiền”-nói chung là đi, đứng, nằm, ngồi đều tham Thiền.

Trước kia, kẻ tham Thiền thì chẳng hề khởi niệm; đó gọi là “vô niệm”:

Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện.
Lục căn hốt động bị vân giá.
(Một niệm chẳng sinh toàn thể (chân tâm) hiện.
Sáu căn bỗng động, (Phật tánh) bị mây che.)

Tham Thiền tức là tham cứu “một niệm chẳng sinh.” Tới đời Minh thì người ta mới áp dụng phương pháp “tham thoại đầu.” Nay thì Thiền-đường nào cũng tham thoại đầu. Thoại đầu có nhiều loại, như “Ai niệm Phật?” hoặc “Khi cha mẹ chưa sinh ra ta thì mặt mày ta ra sao?” hoặc “Thế nào là ‘chẳng có’?” v.v…

Tham Thiền là không khởi vọng tưởng gì cả. Thí dụ khi tham cứu câu “Ai Niệm Phật?” thì quý vị cứ suy nghĩ, tìm xem ai là kẻ niệm Phật. Song, kỳ thật đây cũng chỉ là một vọng tưởng; chẳng qua là chúng ta dùng một vọng tưởng để khống chế mọi vọng tưởng khác mà thôi. Biện pháp này gọi là “dĩ vọng chế vọng, dĩ độc công độc. Thậm chí niệm “A Di Ðà Phật” cũng là “dùng vọng chế vọng”; nghĩa là cái ý nghĩ niệm Phật là vọng, không thật. Và ngay cả cái niệm tham cứu câu “Niệm Phật là ai” cũng là vọng; song đó là vì một vọng tưởng này có khả năng khống chế được tất cả các vọng tưởng khác. Ðó là đạo lý tham Thiền.

Người tham Thiền thì “Phật tới chém Phật, ma tới chém ma,” không chấp trước cảnh giới nào cả. Khi tham Thiền tới chỗ “trên không biết có trời, dưới không biết có đất, giữa chẳng biết có người; ngoài chẳng biết có vật, trong chẳng biết có tâm,” thì bấy giờ quý vị sẽ hợp làm một với Pháp-giới, có thể hoát nhiên khai ngộ. Quý vị hãy nhớ: Ðừng bị lay chuyển bởi thanh-trần (ngoại cảnh), đừng nhìn đông ngó tây, và cũng đừng để cho tâm loay hoay, không chuyên nhất!

Khi tham Thiền đạt tới chỗ “không mình, không người, không chúng sinh, không thọ giả,” thì quý vị sẽ chặt đứt được gốc rễ sinh tử và sẽ được gặp mặt Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni – bấy giờ quý vị mới biết được cái hay của việc tham Thiền.

Từ vô lượng kiếp tới ngày nay, chúng ta thật may mắn gặp được pháp môn “đả Thiền-thất.” Do đó, chúng ta phải đặc biệt chuyên nhất, chí thành khẩn thiết, ra sức dụng công, đừng phung phí thời giờ quý báu, đừng nghĩ ngợi vẩn vơ về những chuyện ăn, mặc, hay chỗ ở; bởi “một chút thời gian là một chút mạng sống”-thời gian và sinh mạng đều quý báu như nhau:

Nhất thốn quang âm nhất thốn kim,
Thốn kim nan mãi thốn quang âm,
Thất lạc thốn kim dung dị đắc,
Quang âm quá khứ nan tái tầm.

Nghĩa là:

Một tấc thời gian, một tấc vàng,
Tấc vàng khó mua tấc thời gian,
Tấc vàng rơi mất còn dễ kiếm,
Thời gian trôi bẵng mới khó tìm.

Bài thơ trên nói lên giá trị quý báu của thời gian lúc bình thường, huống hồ là lúc đả thất-thời gian ấy còn đáng quý hơn nữa. Không ai biết được vào phút nào, giây nào mình sẽ khai ngộ; do đó, quý vị nên tranh thủ từng giây từng phút, đừng lãng phí. Hy vọng quý vị tham gia Thiền-thất đều dũng mãnh tinh tấn, không phóng dật, buông lung. Phải nhẫn chịu mọi thứ khổ thì mới đạt được an lạc. Chịu đựng được điều mà người khác khó thể chịu đựng, nhẫn nhịn được điều mà người khác khó thể nhẫn nhịn, đó mới là tinh thần tu Ðạo!

(Giảng vào tháng 9 năm 1975 tại Chùa Kim Sơn)

 

Bí Quyết Khống Chế Vọng Tưởng

 

Vạn Phật Thánh Thành mỗi năm đều có tổ chức vài Thiền-thất, mỗi thất là bảy ngày. Trước lễ vía A-Di-Ðà thì có một Phật-thất (7 ngày), rồi sau đó là liên tiếp ba Thiền-thất (21 ngày). Hằng năm, những người đến dự Thiền-thất đều tham gia từ đầu đến cuối, khiến công đức được viên mãn. Năm nay, hy vọng quý vị đến tham gia cũng giữ sự chung thủy, chẳng thối lui nửa chừng, bỏ Thiền-đường đi mất; bằng không thì công phu sẽ phải bỏ dở, lãng phí thời giờ, chẳng có sở đắc.

Tư thế lúc ngồi cần phải ngay ngắn, thẳng lưng. Ðầu phải thẳng, không cúi xuống, không ngửa lui, không nghiêng trái, không quẹo phải. Sau đó, bắt tréo hai chân theo thế kiết-già-lấy chân trái bỏ lên đùi phải, kế đó lấy chân phải bỏ lên đùi trái-đó là tiêu chuẩn. Bởi vì tư thế kiết-già phu tọa khiến chúng ta dễ nhập Ðịnh, cho nên còn gọi là thế hàng ma tọa, thế kim-cang tọa, hay thế liên hoa tọa. Tư thế này có thể giúp tiêu trừ nghiệp chướng trong vô lượng kiếp, khiến liễu sanh thoát tử, tạo được vô lượng công đức.

Lúc bắt đầu ngồi Thiền, quý vị cần phải luyện tập tư thế căn bản này. Kế đến, quý vị hãy điều chỉnh thân thể-mắt nhìn xuống chót mũi, từ mũi nhìn xuống miệng, từ miệng nhìn xuống tâm. Ðó là bí quyết để khống chế vọng tưởng. Sau đó mới điều hòa hơi thở-đừng mau, đừng chậm-hãy thở một cách tự nhiên. Lúc này quý vị mới tham cứu câu “Ai là kẻ niệm Phật?” Trải qua một thời gian lâu dài, việc tham Thiền sẽ có tác dụng.

Việc dụng công tham Thiền cũng giống như “gà mẹ ấp trứng” vậy. Gà mẹ lúc nào cũng nghĩ đến gà con, cứ chuyên tâm hết lòng ấp trứng. Chẳng phải ấp được năm phút là chạy đi, rồi một lúc sau lại trở về ấp tiếp, ấp chưa tới năm phút lại chạy mất…; bởi làm như vậy thì vĩnh viễn không bao giờ trứng nở ra gà con đặng. Tham Thiền cũng thế-lúc nào cũng phải dụng công miên mật. Ðừng sợ đau lưng, đừng sợ nhức chân, đừng sợ khổ cực, đừng sợ gian nan. Hãy một lòng một dạ tham Thiền. Tham cái gì? Tham câu “Niệm Phật là ai?” Tham cho tới khi “sông cạn, núi cùng, nước dừng, đá hiện” thì lúc đó mới khai ngộ được.

Tham Thiền lại cũng giống như “rồng ấp ủ hạt châu.” Rồng lúc nào cũng ôm giữ bảo châu, chẳng hề lơ là hoặc không cẩn thận chú ý. Vì vậy, hạt châu ngày một sáng, còn rồng thì ngày đêm canh giữ hạt châu. Người tham Thiền cũng phải như thế-trong mỗi phút mỗi giây đều không khởi tạp niệm. Cổ nhân nói:

“Nhất niệm bất sanh, toàn thể hiện.”

Nghĩa là khi một niệm không sanh khởi thì chân tâm, Phật-tánh hiện bày. Cũng có thể nói rằng:

“Vọng niệm bất sanh, toàn thể hiện.”

Hễ vọng niệm không sanh khởi thì lúc ấy toàn thể sẽ hiện rõ. Khi ngừng bặt vọng tưởng, quý vị sẽ có cơ hội thành tựu.

Người tham Thiền không nên nghĩ đến việc thành Phật, đừng để tâm tới chuyện khai ngộ, cũng chớ nghĩ tới chuyện đắc trí huệ. Cứ nỗ lực dụng công, cần cù chăm chỉ tu hành. Khi thời gian chín muồi thì sẽ khai ngộ. Ở trong Thiền-đường, quý vị cứ ngồi Thiền, xong lại đi kinh hành, rồi ngồi tiếp, xong lại đi kinh hành, rồi ngồi tiếp, xong lại đi tiếp… Cứ như vậy, tu một thời gian lâu dài thì quý vị sẽ có cơ hội thành tựu, bởi vì “cửu tọa hữu Thiền,” ngồi lâu thì sẽ có Thiền.

Tham Thiền lại cũng giống như “mèo rình chuột.” Mèo phải định thần chú ý rình tại ổ chuột, chờ chuột chui ra là chụp ngay. Mèo không thể giải đãi; hễ tâm tán loạn thì không còn chú ý đặng. Người tham Thiền cũng thế-lúc nào cũng phải giữ chặt chánh niệm, không được sanh vọng niệm. Ðó là kiến thức vào Ðạo sơ cấp nhất của việc tham Thiền.

Người tu Ðạo chớ xuống Nam-sơn cũng chớ lên Bắc-hải mà tìm Ðạo. Ðạo vốn ở ngay thân ta. Nếu quý vị có thể ngồi kiết-già phu tọa, chuyên tâm chú ý tham Thiền, thì đó là Ðạo. Không nên có tâm thích chuyện cao siêu diệu vợi, hướng tâm ra ngoài tìm Ðạo; vì như thế thì vĩnh viễn không tìm ra được đâu. Nếu quý vị bỏ cái gần kề để chạy đi tìm cái xa xôi, thì tới đâu quý vị cũng gặp toàn chuyện khó khăn, phiền toái. Ðó là tự mình chuốc lấy rắc rối, tự mình rước khổ vào thân!

(Thiền-thất, 12/1980)

 

Tham Thoại Ðầu

“Tham” nghĩa là tìm-tìm xem ai là kẻ niệm Phật.

“Tham thoại đầu” tức là nghiên cứu câu “Ai là người niệm Phật? Kẻ niệm Phật là ai?” Có câu:

Ðại nghi, đại ngộ;
Tiểu nghi, tiểu ngộ;
Bất nghi, bất ngộ.
(Nghi lớn, ngộ lớn;
Nghi nhỏ, ngộ nhỏ;
Không nghi, không ngộ.)

Khi tham thấu triệt câu thoại đầu “Ai là kẻ niệm Phật?” rồi, thì sự tham Thiền ấy chính là thanh Kim-cang-vương Bảo-kiếm chặt đứt hết mọi dục niệm, chỉ còn một niệm tham cứu câu thoại đầu mà thôi. Lúc mọi ý niệm đều ngừng bặt, bấy giờ, Ðạo-tâm sẽ bừng dậy.

Trước khi đả Thiền-thất thường có đả Phật-thất. Phật-thất xong mới đả Thiền-thất thì hiệu quả mới tốt đẹp. Trước niệm Phật, sau mới tham cứu thoại đầu “Ai là kẻ niệm Phật?”

“Tham” có nghĩa là tìm-tìm xem ai là kẻ niệm Phật. Là quỷ ư? Vậy thì thuộc loại quỷ nào? Là người ư? Người nào vậy? Là mình ư? Mình chết rồi thì còn niệm được chăng? Bỏ vô quan tài rồi thì chẳng ai còn niệm Phật nữa cả! Hãy tìm xem, rốt ráo thì ai niệm Phật? Và niệm ai chớ? Hãy tìm xem, kẻ niệm Phật là ai? Ai đang niệm Phật? Quý vị tìm không ra ư? Dù quý vị vĩnh viễn tìm kiếm, cũng không tìm ra được! Nếu quý vị tìm ra được chữ “Ai” này, thì vọng tưởng gì cũng hết sạch. Vì sao quý vị vẫn còn vọng tưởng? Vì quý vị vẫn chưa tìm ra được cái “Ai”!

Tìm cái “Ai” này có thể mất đến cả đại kiếp. Khi quý vị thấy những người tu hành lão luyện ngồi Thiền chẳng động đậy, chính là họ đang tìm cái “Ai” này vậy! Bởi vì chuyên tâm tham cứu cái “Ai” này nên mọi vọng tưởng đều ngưng bặt, thoát nhiên khai ngộ. Lúc ấy, trong bóng tối âm u bỗng xuất hiện ánh hào quang sáng chói, chuyện gì quý vị cũng thấy rõ cả. Rằng:

Mê thời thiên quyển thiểu,
Ngộ thời nhất tự đa.
(Lúc mê, ngàn sách còn ít,
Ngộ rồi, một chữ cũng dư.)

Ðó là đạo lý của việc tham cứu câu “Ai là kẻ niệm Phật?” Do đó, hễ người nào không khởi vọng tưởng thì người ấy có công phu. Người luôn khởi vọng tưởng thì bất cứ công phu gì cũng không thành cả. Ðó là điểm cốt tủy của việc tham Thiền.

Công phu tham Thiền cốt ở sự chuyên nhất tham cứu-đi cũng tham, ngồi cũng tham, đứng cũng tham, nằm cũng tham. Nói tóm lại, lúc nào cũng phải tham Thiền, chớ bỏ qua cơ hội tham Thiền. Vì thế, lúc đả Thiền-thất chúng ta không lạy Phật, không tụng Kinh, không lên chánh-điện, không cúng quá-đường. Hễ tới giờ thì ăn; ăn xong lập tức tới Thiền-đường tiếp tục tham Thiền. Lúc cần đi nhà vệ sinh thì đi, xong rồi phải tức khắc trở lại Thiền-đường để tiếp tục tham Thiền. Ðừng lãng phí một phút một giây, bởi vì biết đâu chính trong một phút một giây ấy quý vị có thể khai ngộ thì sao? Do đó, hãy tranh thủ từng giây, từng phút một!

Có câu: “Ðừng rời cái này!” Không rời cái gì? Tức là không rời câu thoại đầu “Ai là kẻ niệm Phật?” Không rời xa câu này, nên đó chính là thanh gươm trí huệ cắt đứt thất tình, lục dục. Một khi thói hư tật xấu trừ sạch thì bổn tánh sẽ hiện tiền. Khi bổn tánh hiện tiền thì Ðạo-quả Giác-ngộ sẽ thành tựu.

Trong thời gian tham Thiền, quý vị phải đối diện với thực tế, khắc phục mọi hoàn cảnh, giữ chặt tông-chỉ. Phải nhớ rằng khổ đau là khởi đầu của an lạc. Tôi thường nói với quý vị là:

“Chịu khổ thì hết khổ,
Hưởng phước thì mất phước!”

Cổ nhân có dạy:

“Họa là chỗ phước dựa vào,
Phước là nơi họa cậy nương.”

Theo sau chuyện hung xấu thường có điềm lành tới; bên cạnh chuyện yên ổn có thể sẽ có chuyện không may. Pháp thế gian thì luôn ở thế đối đãi như vậy. Từ bao kiếp lâu xa đến nay không biết chúng ta đã tạo bao nhiêu ác nghiệp, thế nên giờ đây chúng ta phải chịu quả báo. Nếu quý vị biết nỗ lực dụng công, dũng mãnh tinh tấn, trả sạch hết nghiệp thì sẽ thành tựu Ðạo-quả.

Quý vị hãy chú ý! Bất luận là cảnh giới thuận (theo lòng mình) hay cảnh giới nghịch (với ý mình) thì quý vị cũng hãy nhẫn chịu-nhẫn chịu không nổi cũng phải ráng nhẫn chịu! Tu Ðạo chính là tu nhẫn nhịn; có câu:

“Nhẫn là bảo bối vô giá.”

Nếu quý vị có thể nhẫn nhịn, chịu đựng mọi chuyện, thì sẽ có được sự an lạc chân chánh. Cũng như kẻ luyện võ mà chưa đủ kinh nghiệm-lúc phải vật lộn thì quên bẵng tất cả chiêu số, đến khi đánh đấm xong mới nhớ ra các thế võ để đánh thì đã quá muộn! Tham Thiền cũng vậy-khi cảnh giới đến thì quý vị phải nhẫn chịu, phải chịu thiệt thòi, phải cắn răng chịu đựng; khivượt qua khó khăn rồi quý vị mới đạt được sự tự tại.

Khi tham Thiền, quý vị phải sáng tham như vậy, chiều cũng tham như vậy. Sáng tu Thiền, chiều cũng tu Thiền. Tu lâu ngày thì sẽ thành tựu. Nhẫn nại được, tức là dù đau lưng cũng chẳng màng, đau gối cũng mặc kệ, cứ nhất tâm nhất niệm tham câu “Ai là kẻ niệm Phật?” Nếu lúc nào cũng được như vậy thì quý vị sẽ chẳng khởi vọng tưởng, có thể nhiếp thọ, thâu phục thân tâm, khiến tâm trí thanh tịnh tới mức một vọng niệm cũng không dấy khởi. Quý vị hãy giữ cho tâm đừng rời câu thoại đầu “Ai là kẻ niệm Phật?”; lúc nào cũng đề khởi, lúc nào cũng chẳng quên-đó chính là mục tiêu của sự dụng công.

Việc tham thoại đầu thì chỉ có một vọng tưởng, còn tạp niệm thì có vô số vọng tưởng. Do đó, chúng ta dùng phương pháp “dĩ độc công độc”-lấy một vọng tưởng “tham cứu thoại đầu” để khống chế tất cả các vọng tưởng khác-dần dần, từng vọng tưởng một sẽ bị tiêu diệt, không còn tái khởi. Lúc ấy, bất luận là cảnh giới gì đến quý vị cũng không còn bị mê hoặc; quý vị biết biện biệt rõ ràng thì không thể nào bị “tẩu hỏa nhập ma.” Người xưa nói:

“Ninh khả thiên sanh bất ngộ,
Bất khả nhất nhật trước ma.”
(Thà rằng ngàn đời không ngộ,
Chẳng để một ngày vướng ma.)

Khi tu Thiền-định, quý vị cần phải cẩn thận, dè dặt, chớ có cực đoan. Phải chánh đại quang minh, đừng để bọn ma quỷ có cơ hội hại quý vị. Khi quý vị có tạp niệm tức là quý vị mở cửa cho ma quỷ lọt vào! Do đó, tham thoại đầu chính là Pháp-bảo “đuổi ma”!

(Thiền-thất 12/1280)

 

Cảnh Giới Thiền

 

Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng, không có nhân-tướng, không có chúng-sinh-tướng, không có thọ-giả-tướng; cũng là lúc “tâm quá khứ không có, tâm hiện tại không có, tâm vị lai cũng không có.” Ðạt tới cảnh giới này chưa phải là đắc được công phu thật sự, cũng chẳng có gì đặc biệt đâu. Dù quý vị ngồi được một giờ, hay ngồi được mười giờ, nhẫn đến ngồi suốt một tháng, mười tháng, đó chẳng qua là công phu của quý vị có được chút ít tương ưng, chỉ mới được chút ít cảnh giới khinh an mà thôi. Trải qua cảnh giới nhẹ nhàng khinh an, cứ tiếp tục tham Thiền thì quý vị sẽ nhập cảnh giới Sơ-Thiền.

Sơ-Thiền-Thiên gọi là “Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa,” tức là cảnh giới xa rời những lạc thú của chúng sanh. Tại cảnh giới “Ly Sinh Hỷ Lạc Ðịa, quý vị rất mau nhập Ðịnh. Trong lúc nhập Ðịnh, hơi thở sẽ ngừng hẳn-không ra không vào, không đi không đến-giống như con rùa tới mùa đông thì rụt đầu vào mu, đình chỉ sự hô hấp bên ngoài, song sự hô hấp ở bên trong vẫn tiếp tục. Ðó là hiện tượng “đông miên.” Người tham Thiền, khi nhập Ðịnh thì ngừng thở, nhưng khi xuất Ðịnh thì vẫn hít thở như thường. Quý vị hãy chú ý! Tới cảnh giới này quý vị chớ khởi vọng niệm: “A! Ngừng thở rồi!” Khi vọng niệm ấy nảy sinh thì hô hấp sẽ tiếp nối ngay. Do đó không thể thiếu cảnh giác, bằng không quý vị sẽ lỡ mất cơ hội và phải làm lại từ đầu.

Từ Sơ-Thiền, nếu quý vị tinh tấn tu tập thì sẽ nhập Nhị-Thiền. Nhị-Thiền-Thiên gọi là “Ðịnh Sanh Hỷ Lạc Ðịa,” tức là trong cảnh giới Ðịnh, niềm hỷ lạc sanh khởi. Nên có câu:

Thiền duyệt vi thực, Pháp hỷ sung mãn.
(Thiền vị là thức ăn, sung mãn niềm vui Pháp.)

Nhập cảnh giới này, chẳng những ngừng thở, mà tim cũng ngừng đập. Mạch tim chỉ ngừng chớ không phải dứt hẳn, nên khi xuất Ðịnh sẽ trở lại bình thường.

Từ Nhị-Thiền, nếu quý vị tiến tu thì nhập Tam-Thiền. Tam-Thiền-Thiên gọi là “Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa,” nghĩa là xa rời mọi sự hoan lạc thô thiển, chỉ còn niềm vui vi tế, vô cùng vi diệu. Nhập cảnh giới Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa, thì không những hơi thở ngừng, tim hết đập, mà ý niệm cũng dứt hẳn, hệt như một người chết vậy. Lúc ý niệm dứt thì mọi vọng tưởng mông lung cũng dứt.

Khi hơi thở ngừng lại máu huyết hết dưỡng khí nên sự tuần hoàn cũng đình chỉ, do đó tim cũng không đập, không còn có mạch nữa. Lúc ấy tạp niệm chẳng còn. Giả sử hơi thở là gió, mạch là sóng, mà ý niệm là nước-nếu gió im thì sóng lặng, nước tự nhiên yên tịnh. Ðó chính là đạo lý “giớ ngừng, sóng lặng” vậy. Ðây là tác dụng tạm thời lúc nhập Ðịnh chứ không phải là dứt hẳn như khi chết. Lúc nào muốn phục hồi hơi thở hay mạch đập thì chúng lại hoạt động bình thường.

Từ Tam-Thiền mà tinh tấn tu Thiền-định thì nhập cảnh giới Tứ-Thiền. Tứ-Thiền-Thiên gọi là “Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa,” nghĩa là xả bỏ niềm vui vi diệu của Tam-Thiền, tâm niệm thanh tịnh. Hơi thở ngừng, huyết mạch ngừng, ý niệm ngừng; song cảnh giới ấy cũng phải xả bỏ luôn thì lúc đó bản tánh Chân-như thanh tịnh mới hiện tiền. Cảnh giới này, quý vị chớ nghĩ lầm là xuất sắc hay đặc biệt, bất quá chỉ là ở cõi Tứ-Thiền mà thôi, chưa phải là cảnh giới chứng đắc Ðạo-quả. Ðây vẫn còn là địa vị phàm phu, bởi vì dục vọng chưa đoạn tuyệt. Từ cảnh giới này, nếu quý vị tu phép Tà-định của ngoại đạo thì sẽ nhập Vô Tưởng Thiên, thọ hưởng cảnh giới vô cùng an lạc. Nhưng nếu quý vị tu phép Chánh-định thì sẽ nhập Ngũ Bất Hoàn Thiên, tức là cảnh giới của bậc chứng quả.

Nếu chứng được Sơ-quả A-la-hán, tức là quả vị Tu-đà-hoàn, thì không những khi nhập Ðịnh không còn vọng niệm, mà khi đi đứng nằm ngồi đều chẳng có vọng tưởng, chẳng có chấp trước. Ðạt được Sơ-quả thì chỉ mới đoạn được tám mươi tám phẩm kiến-hoặc (sự mê mờ do cái thấy) trong Tam-giới mà thôi. Hãy còn bảy vòng sinh tử nữa, chứ chẳng phải chứng Sơ-quả là nhập Niết-bàn được đâu. Lúc chứng được Sơ-quả, bất luận là gặp cảnh giới gì cũng không bị dao động, “đối cảnh vô tâm” (gặp cảnh, không khởi tâm tưởng), duy chỉ có Ðạo-tâm, chuyên nhất tu Thiền. Giả như cảnh giới bên ngoài có trang nghiêm, đẹp đẽ ra sao, như là gái đẹp, trai bảnh, cũng không thể làm cho tâm quý vị dao động. Lúc bấy giờ quý vị cũng chẳng tham tiền, tham sắc, tham danh, tham ăn, hay tham ngủ nữa. Mọi thứ đều không tham thì mới có thể gọi là chứng quả. A-la-hán Sơ-quả đi không gây ra tiếng động bởi vì chân họ cách xa mặt đất ba phân. Vì sao vậy? Vì thánh-nhân đắc quả có lòng từ bi, sợ rằng sẽ đạp chết các côn trùng nhỏ, nên mới đi trong hư không.

Quý vị hãy chú ý! Không được tự xưng là đã chứng ngộ khi chưa chứng ngộ, hay là đã đắc quả khi chưa đắc quả. Như thế là phạm giới vọng ngữ, tương lai phải đọa địa ngục kéo lưỡi. Tôi phải nói trước cho quý vị rõ, còn tin hay không là tùy ở quý vị. Trong số Phật tử có kẻ chưa khai ngộ mà cứ tự rêu rao là đã khai ngộ, đó là hành vi không thể chấp nhận được. Dù thật quý vị đã khai ngộ, quý vị cũng không nên khoe khoang: “Tôi khai ngộ rồi! Tôi có Ngũ-Nhãn Lục-Thông rồi nè!” Quý vị chớ tự tuyên truyền, tự mình quảng cáo cho mình; vì như thế thật chẳng có ý nghĩa gì cả.

Ngay cả Phật và Bồ-tát, các Ngài cũng không tự tuyên truyền, tự quảng cáo. Nếu có ai biết vị này là Bồ-tát hay vị kia là Phật hóa thân thị hiện ở thế gian, thì các Ngài liền biến mất. Ðời Ðường có hai vị Ðại-sư, một vị là Hàn Sơn, một vị là Thập Ðắc. Hàn Sơn là hóa thân của Ðức Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, còn Thập Ðắc là hóa thân của Ðức Phổ Hiền Bồ-tát. Cả hai ngài Hàn Sơn và Thập Ðắc vốn là quý vị đồng tu rất thân với nhau. Ngài Thập Ðắc khi còn thơ ấu được Phương-trượng Phong Can đem về Chùa Quốc Thanh nuôi nấng và dạy bảo. Ngài Thập Ðắc chuyên việc nấu nước trong nhà trù và mỗi ngày góp nhặt đồ ăn thừa cho vào ống trúc đem cúng dường ngài Hàn Sơn. Ngài Hàn Sơn thì ngụ ở động Nguyệt-quang trên núi Thiên-thai, mỗi ngày tới Chùa Quốc Thanh nhận đồ thừa để ăn. Hai ngài tâm đồng ý hiệp, thường cười đùa bỡn cợt với nhau, nên cả chùa ai cũng cho các ngài là hai người điên, chẳng ai đếm xỉa gì đến họ cả. Không ai biết rằng hai ngài là Bồ-tát hóa thân, du hý ở nhân gian để cứu độ những chúng sanh cần được độ.

Một hôm, quan Thái-thú Lã Khưu Yên tới gặp Hòa-thượng Phong Can và hỏi rằng: “Thưa Thiền-sư, trong quá khứ chư Phật và Bồ-tát thường hóa thân tới thế giới này, vậy thời nay chư Phật và Bồ-tát có còn hóa thân tới cõi này nữa hay không?”

Ngài Phong Can đáp: “Có chớ! Bất quá ngài không nhận ra mà thôi. Bây giờ tại Chùa Quốc Thanh núi Thiên-thai, vị Thầy chuyên nấu nước ở nhà trù chính là Phổ Hiền Bồ-tát đấy. Thầy có một người bạn là Hàn Sơn, tức là Văn Thù Bồ-tát. Sao ngài nói chẳng có ai?”

Lã Thái Thú nghe xong rất vui mừng, bèn đi gấp đến Chùa Quốc Thanh để đảnh lễ hai vị Bồ-tát Hàn Sơn và Thập Ðắc.

Thầy Tri-khách Chùa Quốc Thanh thấy quan Thái-thú đến viếng thì ân cần tiếp đãi. Nhưng khi nghe vị quan này muốn gặp Hàn Sơn và Thập Ðắc thì ngạc nhiên vô cùng, chẳng biết vì sao ông ta lại muốn gặp hai người điên này. Tuy không hiểu được lý do, Thầy cũng dẫn quan Thái-thú tới nhà trù. Bấy giờ đúng lúc hai ngài Hàn Sơn và Thập Ðắc đang cười nói bô bô như hai kẻ điên khùng khiến ai cũng nực cười. Nhưng Lã Thái Thú vô cùng cung kính đảnh lễ hai Ngài, rồi cũng hết sức cung kính thưa: “Ðệ tử là Lã Khưu Yên xin thỉnh cầu quý Ðại Bồ-tát từ bi dạy bảo cho kẻ mê muội này!”

Ngài Thập Ðắc hỏi: “Ông làm gì thế?”

Thái-thú đáp: “Con nghe Hòa-thượng Phong Can dạy rằng hai Ngài là hóa thân của Ðức Văn Thù và Ðức Phổ Hiền. Bởi vậy con đặc biệt tới đây để xin đảnh lễ và khẩn cầu quý Ngài khai thị cho con.”

Ngài Thập Ðắc nghe xong thì vừa thụt lùi vừa nói: “Ngài Phong Can nói nhảm! Ngài Phong Can nói nhảm! Ngài Phong Can là hóa thân của Ðức A Di Ðà, sao không lạy Ngài mà lại tới đây quấy rầy chúng tôi?”

Nói xong thì chạy ra khỏi chùa, lên tới động Nguyệt-quang núi Thiên-thai rồi, cả hai ngài nhập vào vách đá. Thái-thú thấy vậy vô cùng thất vọng bởi vì hai vị Bồ-tát đã ẩn mình trong vách đá, không ra nữa. Ông ta nghĩ thầm: “Thôi hãy về lạy Ðức Di Ðà vậy!”; nhưng khi y về tới chùa thì mới hay Ngài Phong Can cũng đã viên tịch. Ðúng là “đang diện thác quá” (vuột mất cơ hội trước mắt). Cho nên có câu rằng:

“Ðối diện với Ðức Quán Thế Âm mà chẳng nhận ra được Ngài.”

Trong Thiền-đường này cũng có Quán Thế Âm Bồ-tát, song tôi không thể tiết lộ cho quý vị biết được, để Ngài khỏi bị quý vị đuổi chạy mất!

(Thiền thất 12/1980)

 

Ngồi Thiền Có Thể Chấm Dứt Sinh Tử

 

Vào những năm cuối của triều đại Bắc Tống, Trung Quốc có một vị anh hùng dân tộc tên là Nhạc Phi. Cha ông qua đời khi ông còn thơ ấu. Mẹ ông là một người hiền đức, trí huệ. Cả hai mẹ con nương tựa nhau mà sống. Nhạc Phi được mẹ dạy học và dạy viết. Bởi nhà quá nghèo, không có tiền mua giấy bút và mực nên Nhạc Phi phải tập viết chữ trên cát; thế mà về sau ông nổi tiếng viết chữ đẹp. Ðến lúc trưởng thành thì ông đầu quân. Mẹ ông lúc ấy xâm trên lưng ông bốn chữ “tận trung báo quốc” để nhắc ông phải luôn ghi nhớ chí nguyện lớn lao cứu nước cứu dân.

Lúc bấy giờ quân Kim xâm lược Bắc Tống, chiếm Biện-kinh (Khai-phong), đày hai vua Hội Tông và Khâm Tông lên miền Bắc. Hội Tông là vua đã thoái vị, có hai người con là Khâm Tông và Khang Vương. Khang Vương lúc ấy đang ở Hàng-châu, liền lên ngôi, đặt tên nước là Nam Tống, tự xưng là Tống Cao Tông, phong Tần Cối làm Tướng-quốc. Ðương thời, các quan văn thì chủ trương hòa giải với quân Kim, nhưng các quan võ thì chủ trương chiến tranh.

Bấy giờ Nhạc Phi đại thắng quân Kim ở trấn Chu-tiên (rất gần Biện-kinh) và dự định tiến đánh kinh đô quân Kim ở Hoàng-long (tức Kiết-lâm, Nông-an bây giờ). Chẳng may Nhạc Phi bị Tần Cối đố kỵ và dùng mười hai đạo kim bài giả để triệu hồi về kinh thành. Nhạc Phi vốn mang tư tưởng “trung quân, ái quốc” nên vâng mệnh vua trở về kinh đô. Lúc tới sông Trường-giang, ngang qua Chùa Kim Sơn, ông đến bái kiến Thiền-sư Ðạo Duyệt.

Thiền-sư Ðạo Duyệt khuyên ông đừng trở về kinh thành, hãy ở lại Chùa Kim Sơn (Trấn-giang) xuất gia tu hành thì có thể sẽ tránh được tai nạn. Song, Nhạc Phi vốn đã coi thường sống chết và lại nghĩ rằng bổn phận kẻ làm tướng là phải tuân mệnh vua, không thể cho là “tướng ở ngoài có lúc không phải tuân theo lệnh vua.” Do đó ông đã không nghe theo lời khuyên của Thiền-sư Ðạo Duyệt. Lúc chia tay, Thiền-sư tặng ông một bài kệ:

Tuế để bất túc,
Cẩn phòng thiên khốc,
Phụng hạ lưỡng điểm,
Tương nhân hại độc.
(Chưa đến cuối năm,
Ðề phòng trời khóc,
Dưới “phụng” hai chấm,
Hãm hại ngươi đấy!)

Khi Nhạc Phi về tới Hàng-châu, Tần Cối dùng ba chữ “Mạc tu hữu” (bịa đặt) để hạ lịnh bỏ tù hai cha con Nhạc Phi. Gần đến ngày thọ hình, Nhạc Phi mới chợt hiểu thâm ý bài kệ của Thiền-sư Ðạo Duyệt. Năm ấy, ngày hai mươi chín tết, trời mưa tầm tả. Nhạc Phi ngồi trong ngục lắng nghe tiếng mưa rơi và chợt vỡ lẽ rằng đại nạn đã kề bên. Lời tiên tri của Thiền-sư Ðạo Duyệt cuối cùng đã ứng nghiệm. “Phụng hạ lưỡng điểm” (dưới chữ “phụng” có thêm hai chấm) tức là chữ “tần,” ám chỉ Tần Cối. Quả nhiên Nhạc Phi sau đó bị xử chém tại Phong Ba Ðình.

Bấy giờ Tần Cối hỏi đao phủ: “Nhạc Phi khi sắp bị chém có nói gì chăng?” Ðao phủ đáp: “Tôi chỉ nghe y nói rằng y hối hận vì không chịu nghe lời Thiền-sư Ðạo Duyệt ở Chùa Kim Sơn nên mới nhận lãnh hậu quả thê thảm này.” Nghe vậy, Tần Cối vô cùng tức giận, liền phái Hà Lập tới Chùa Kim Sơn gấp để bắt Thiền-sư Ðạo Duyệt. Song Thiền-sư trong khi nhập Ðịnh một ngày trước đó đã biết được nhân duyên này, nên Ngài đã để lại một bài kệ:

Hà Lập tự Nam lai,
Ngã vãng Tây-phương tẩu.
Nhược phi Phật-pháp đại,
Khải bất lạc tha thủ.

Nghĩa là:

(Hà Lập từ Nam đến,
Ta nhắm Tây-phương đi.
Phật-pháp nếu không tường,
Ắt lọt vào tay hắn.)

Chuyện này chứng minh rằng khi công phu Thiền-định của người tu hành đã tới cực điểm thì có thể khống chế được sinh tử, muốn lúc nào vãng sinh cũng được, tự mình điều khiển định mệnh-đó là một điều rất đương nhiên. Thuở xưa, các Thiền-sư đều có công phu như vậy-tự do sống chết, toại tâm như ý. Ðời Ðường có vị Thiền-sư tên Ðặng Ẩn Phong, có thể lộn ngược đầu xuống đất mà viên tịch. Gần đây có vị Phật Sống ở Chùa Kim Sơn đứng mà viên tịch. Ðó đều là nhờ có công phu Thiền-định nên họ có thể đến và đi tự do, không bị hạn chế gì cả.

(Thiền thất tháng 12 năm 1980)

 

Tham Thiền là Phương Pháp Khai Ngộ

 

Phật-giáo sau khi được truyền sang Trung Quốc thì phân làm năm tông phái là Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, Mật. Thiền là Thiền-định; Giáo là Giáo-lý; Luật là Giới-luật; Tịnh là Tịnh-độ; Mật là trì Chú. Lúc này là lúc đả Thiền-thất, nên chỉ giảng về lý Thiền, còn bốn tông phái kia thì tạm thời không đề cập đến.

Thiền-na, dịch là “Tư Duy Tu,” nghĩa là thường tư duy, suy gẫm về một việc. Việc gì? Tức là thoại đầu. Xem xét “Ai Niệm Phật?” gọi là tham Thiền. Kỳ thật, tham thoại đầu cũng chỉ là vọng tưởng; bất quá chúng ta dùng vọng tưởng để chế phục vọng tưởng, “dĩ độc công độc,” tức là lấy một vọng tưởng để tiêu diệt nhiều vọng tưởng khác. Công phu tham thoại đầu đòi hỏi phải trải qua thời gian dài thì mới thành tựu, do đó nói: “Tham cứu lâu mới có Thiền.”

“Tham” cũng giống như lấy cái khoan đục vào gỗ vậy. Chưa đục xuyên thủng thì chưa ngừng, chẳng thể nửa đường bỏ phế; bởi nếu thế thì công phu từ trước hoàn toàn vất bỏ. Tham Thiền, quan trọng nhất là nhẫn nại được. Khi nhẫn nại đến chỗ tột đỉnh thì có thể chẳng nảy sinh một vọng niệm nào cả. Khi “một niệm chẳng sinh” thì có thể khai ngộ. Có câu:

“Ðầu sào trăm thước, dấn thêm một bước.”

Nghĩa là khi quý vị ở đầu ngọn sào dài trăm thước, quý vị vẫn tiếp tục bước thêm một bước nữa. Lúc ấy, “mười phương thế giới đều hiện toàn thể.” Song, pháp môn này mỗi niệm lúc nào cũng tu trì thì mới có hiệu quả; không thể lười biếng, không thể buông lung. Trong Chứng Ðạo Ca có nói rằng:

Ðốn giác liễu Như Lai Thiền
Lục Ðộ Vạn Hạnh thể trung viên
Mộng lý minh minh hữu Lục Thú,
Giác hậu không không vô đại thiên.

Nghĩa là:

Thiền Như Lai thoát hiểu rồi.
Lục Ðộ, vạn hạnh, thể tròn đầy.
Mộng thì rõ ràng có sáu nẻo,
Ngộ xong trống rỗng, chẳng đại thiên.
“Ðốn” tức là lập tức giác ngộ một đạo lý. Rằng:
Lý khả đốn ngộ, sự tu tiệm tu.

(Lý có thể hiểu ngay lập tức, song sự thì phải từ từ tu.)

Về “sự” thì chúng ta cần phải tu từng bước một, còn về “lý” thì cần phải hiểu rõ ngay tức khắc. Khi đốn-ngộ thì chúng ta biết giếng ở đâu để đi lấy nước; còn lúc chưa đốn-ngộ thì chúng ta chỉ nghe tiếng dây ròng rọc kéo nước mà không biết giếng ở đâu. Ví dụ này thuyết minh Phật-tánh từ đâu lại. Làm sao để chứng đắc Phật-tánh? Chứng Phật-tánh không có pháp gì khác, chỉ một cách là tham Thiền, ngồi Thiền.

Lục Ðộ là pháp môn Bồ-tát tu hành. Bố thí thì “độ” tánh bỏn xẻn và tham lam. Trì giới thì “độ” việc hủy phạm. Nhẫn nhục thì “độ” tánh sân hận. Tinh tấn thì “độ” thói giải đãi, biếng nhác. Thiền định thì “độ” sự tán loạn. Trí huệ thì “độ” tâm ngu si. Khi Lục Ðộ tu đến viên mãn thì mới khai ngộ đặng.

Chúng ta lúc nào cũng ở trong mộng. Rằng:

Nhân sinh nhất trường mộng,
Nhân tử mộng nhất trường.
Mộng lýthân vinh quý,
Mộng tỉnh tại cùng hương,
Triều triều thị tác mộng,
Bất giác mộng hoàng lương,
Mộng trung nhược bất giác,
Uổng tác mộng nhất trường.

Nghĩa là:

Người sống: một tràng mộng,
Người chết: mộng một tràng.
Trong mộng thân vinh quý,
Tỉnh mộng vẫn nghèo xơ,
Ngày ngày cứ nằm mộng,
Chẳng biết mộng “kê vàng,”
Nằm mộng mà chẳng biết,
Uổng thay mộng một tràng.

Lúc mộng, chúng ta thấy rõ ràng có Lục-thú (sáu nẻo: trời, người, A-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục); đến lúc giác ngộ mới thấy tam thiên đại thiên thế giới đều chẳng có. Vì sao? Vì không còn chấp trước. Chẳng còn chấp trước thì đem vạn vật “phản bổn hoàn nguyên”; như thế làm sao còn ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đặng? Mọi thứ đều chẳng còn! Có người nghe rằng bốn tướng đều hết thì chẳng dám tu hành, vì ngộ nhận rằng: “Tu đến cực điểm thì người ta chẳng hiện hữu nữa, chúng sinh cũng hết sạch, thọ giả cũng không còn, vậy thì sao đây? Lúc ấy công việc làm cũng hết luôn, e rằng tôi sẽ thất nghiệp mất!”

Quý vị nhất định cần có việc làm sao? Vậy thì cứ tiếp tục điên đảo! Khi tu hành đến chỗ không còn bốn tướng, thì quý vị sẽ “quét sạch tất cả pháp, xa rời tất cả tướng,” chứng đắc Thực-tướng của mọi sự. Rằng:

Nhất pháp bất lập, vạn pháp giai không.
(Một pháp chẳng lập, mọi sự đều không.)

Chẳng thể nói suông là mình hiểu đạo lý này, mà chúng ta bắt buộc phải chân chính chứng đắc cảnh giới “một pháp chẳng lập, mọi sự đều không.” Lúc ấy sẽ chẳng còn gì là khổ, chỉ hưởng thọ sự an lạc.

Người ta ở đời, nếu không chấp trước danh vọng thì cũng ôm chặt lợi lộc, không chấp trước tiền tài, thì lại mê đắm sắc đẹp, do đó không thể nhìn thủng (hiện tượng), chẳng thể buông bỏ (mọi chấp trước). Muốn nhìn thủng, muốn buông bỏ, song lại chẳng đặng. Vì sao chẳng kham? Bởi vì trong tâm có “con quỷ” tinh tế và “con sâu” linh lợi tác quái, do đó rất nhiều việc mình để lỡ cơ hội, đối diện với Ðức Quán Âm mà chẳng nhận ra Ngài. Ðức Quán Âm Bồ-tát ở ngay trước mặt, thế mà cứ đi tìm kiếm khắp nơi. Ðó chính là bị điên đảo vọng tưởng chi phối vậy.

Chữ “tham” trong tham Thiền có nghĩa là quán chiếu, quan sát. Quán chiếu cái gì? Quán chiếu Bát-nhã. Nghĩa là trong mọi ý niệm, mọi thời điểm, quý vị phải quan sát chính mình ở đây (tự tại), đừng quan sát kẻ khác (tha tại). Hãy quán sát xem mình có ở tại đây hay chăng-nếu mình ở đây thì có thể tham Thiền, dụng công tu hành; nếu mình chẳng ở đây, tức là mình khởi vọng tưởng lăng xăng, nghĩ ngợi vớ vẩn. Thân tuy ở trong Thiền-đường, nhưng tâm lại dong ruổi tận Nữu Ước hay Ý Ðại Lợi. Tới đâu cũng phan duyên, thành ra không tự tại nữa.

Quán chiếu tự tại tức là Bồ-tát. Quán chiếu không tự tại tức là phàm phu. Quán chiếu tự tại là thiên đường. Quán chiếu không tự tại là địa ngục. Nếu chúng ta quán chiếu với sự tự tại, tâm không chạy ra ngoài, thì có thể “thực hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu.” Lúc tham Thiền, thân ngồi tại Thiền-đường, tâm miên mật tham cứu liên tục, không gián đoạn, thì mới đúng là thực hành Bát-nhã thâm sâu, tìm được trí huệ. Khi đắc đại trí huệ thì mới tới được bờ bên kia, bờ giải thoát.

Bí quyết tham Thiền là “triều dã tư, tịch dã tư” (ngày tham cứu, đêm cũng tham cứu). Tham cứu cái gì? Tham cứu “Niệm Phật là Ai?” Ngày nay tham cứu, ngày mai tham cứu. Ngày ngày tại Thiền-đường “thực hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu,” song không phải chỉ một thời gian ngắn là có thể nếm được mùi vị Thiền ngay đâu. Quý vị phải trải qua thời gian dài lâu mới được. Khi có công phu “thực hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu” thì mới có thể “soi thấy năm Uẩn đều không.”

Năm Uẩn còn gọi là năm Ấm. “Uẩn” có nghĩa là tụ tập; “Ấm” có nghĩa là che đậy, bao phủ. Vì sao chúng ta không được tự tại, không đắc giải thoát? Bởi vì chúng ta bị năm Ấm che phủ! Năm Uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, và thức.

  1. Sắc-uẩn: Có chướng ngại thì gọi là sắc, có hình tướng cũng là sắc. Sắc-uẩn chẳng không thì thấy sắc sẽ bị sắc-trần mê hoặc, nghe âm thanh thì bị thanh-trần mê hoặc, ngửi mùi hương thì bị hương-trần mê hoặc, nếm mùi vị thì bị vị-trần mê hoặc, tiếp xúc với vật thì bị xúc-trần mê hoặc. Nếu khiến cho sắc-uẩn là không, thì bên trong không có tâm, bên ngoài không có hình tướng, xa gần không có vật thể. “Sắc” cũng có nghĩa là đủ thứ sắc đẹp, nhan sắc khiến mắt ta hỗn loạn, không nhận biết rõ ràng, mờ mịt giống như kẻ mù vậy. Trong Ðạo Ðức Kinh có nói:

Ngũ sắc linh nhân mục manh,
Ngũ âm linh nhân nhĩ lung,
Ngũ vị linh nhân khẩu sảng.

Nghĩa là:

Năm sắc khiến mắt người mù,
Năm âm khiến tai người điếc,
Năm vị khiến miệng người đờ.

Những thứ ấy đều do bị sắc-uẩn mê hoặc. Nếu phá được sắc-uẩn rồi, thì núi sông, đất đai, thành quách, nhà cửa đều rỗng không cả, chẳng còn gì rắc rối nữa. Do đó, sắc-uẩn chưa không, thì chúng ta còn chấp trước ở sắc. Khi chấp trước ở sắc thì không thể trừ khử được kiến-hoặc (sự mê muội của cái thấy).

Kiến-hoặc là do khi gặp cảnh thì khởi lòng tham ái. Cảnh giới tức là sắc. Khi đối trước cảnh giới nào cũng sinh lòng tham lam hay yêu thích, tức là có chấp trước. Kiến-hoặc có tám mươi tám phẩm; nếu chặt đứt hết được thì sẽ chứng Sơ-quả A-la-hán. Người tu Ðạo chúng ta, trước tiên cần phải đoạn tám mươi tám phẩm kiến-hoặc vốn tồn tại trong Tam-Giới, rồi sau đó mới đoạn trừ tám mươi mốt phẩm tư-hoặc ở Tam-Giới.

Tư-hoặc là do mê muội chân lý nên khởi phân biệt, tức là đối với tất cả đạo lý mình không nhận thức được rõ ràng. Khi đoạn trừ hết tám mươi mốt phẩm tư-hoặc thì sẽ chứng Tứ-quả A-la-hán.

  1. Thọ-uẩn. “Thọ” là lĩnh nạp lĩnh thọ, phát sinh cảm giác. Khi cảnh giới đến, chẳng cần suy nghĩ gì, liền tiếp thụ lĩnh nạp, phát ra cảm giác. Như ăn món gì, cảm giác thấy ngon, đó là “thọ.” Mặc áo đẹp, cảm thấy vui, cũng là “thọ.” Ở nhà tốt, cảm thấy thích, đó là “thọ.” Ngồi xe tốt, có cảm giác êm ái, đó cũng là “thọ.” Khi thân tiếp thọ bất kỳ thứ gì, cảm giác ra sao, đều gọi là “thọ.”
  2. Tưởng-uẩn: tức là tư tưởng, ý niệm. Vì năm Căn tiếp xúc, lãnh thọ cảnh giới của năm Trần nên phát sinh ra đủ thứ vọng tưởng, đủ thứ ý niệm. Chúng thoắt sinh ra thoắt diệt mất, khởi lên tác dụng suy nghĩ đến sắc, đến thọ.
  3. Hành-uẩn. Hành có ý nghĩa thiên lưu, dời đổi, lúc tới lúc đi, lúc đi lúc tới, chẳng khi nào ngừng nghỉ, trôi mãi không dừng. Ðộng cơ làm ác làm thiện là ở trong tâm, song do vọng tưởng, suy tư chi phối và phản ảnh qua những hành vi, cử chỉ của thân khẩu ý (mọi hành vi ấy đều thuộc hành-uẩn).
  4. Thức-uẩn. Thức có ý nghĩa phân biệt; cảnh giới tới thì sinh tâm phân biệt. Ví dụ: Thấy sắc đẹp thì sinh lòng vui thích, nghe lời ác thì sinh lòng ghét bỏ, v.v…

Nếu phá thủng được năm Uẩn thì sẽ vượt qua mọi khổ ách, cũng chẳng còn tai ách gì cả. Vì sao chúng ta có tai ách? Bởi vì chúng ta chưa dẹp bỏ được hai thứ chấp trước là chấp ngã và chấp pháp (mọi sự mọi việc).

Trong bài Chứng Ðạo Ca của Ðại sư Huyền Giác có nói:

Ngũ Uẩn phù vân không khứ lai;
Tam Ðộc thủy bào hư xuất một.

Nghĩa là:

Năm Uẩn như mây trôi, chẳng đến đi,
Ba Ðộc như bọt nước, giả có, mất.

Năm Uẩn xưa nay vốn không có tự tánh, hệt như đám mây trôi, thoắt nhiên có, thoắt nhiên mất. Khi không rõ thấu đạo lý này, chúng ta sẽ mãi bị năm Uẩn che lấp, không thể tự tại, không đặng giải thoát. Người tu Ðạo phải phá năm Uẩn. Như mây bay lại, mặc nó lại; nếu nó trôi đi, mặc nó đi. Không cần chú ý tới, không cần chấp trước nó. Ba thứ độc tham, sân, si thì giống như bọt nước, vốn không có thực thể. Chúng tự sinh ra rồi tự mất đi, nên đừng chấp trước vào chúng. Bài “Chứng Ðạo Ca” lại nói:

Chứng Thực-tướng, vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sinh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.

Nghĩa là:

Chứng Thực-tướng, không nhân, pháp,
Sát-na rũ sạch nghiệp A-tỳ.
Nếu đem lời dối, gạt chúng sinh,
Tự chịu cắt lưỡi hằng sa kiếp.

“Thực-tướng” tức là “vô tướng, vô sở bất tướng” (không có hình tướng gì, song không có gì chẳng phải là nó). Cũng có nghĩa là “tảo nhất thiết pháp, ly nhất thiết tướng” (quét sạch tất cả mọi pháp mọi sự; rời bỏ mọi hình tướng, mọi quan niệm). Có thể nói là “phản bổn hoàn nguyên, chứng đắc tự tánh thanh tịnh.” Tới được cảnh giới này thì cũng chẳng có người, chẳng có pháp. Nhân, pháp đều quên hết. Cũng không còn chấp người, hết luôn chấp pháp (mọi sự mọi việc). Ðó là chứng đắc lý và thể của Thực-tướng. Lúc ấy chỉ trong sát-na, có thể tất cả tội nghiệp đọa địa ngục Vô-gián đã tạo ra trong vô lượng kiếp về trước lập tức tiêu diệt hoàn toàn. Ðại sư Vĩnh Gia nói rằng: “Nếu tôi đem lời giả dối để gạt gẫm chúng sinh, tôi xin cam tâm tình nguyện xuống địa ngục rút lưỡi, chịu khổ trong vô số kiếp nhiều như cát bụi vậy.”

Lúc ở Thiền-đường, quý vị hãy chân thật tu hành. Giống như kéo tằm, quý vị phải nhẫn nại, từ từ kéo từng sợi tơ thì mới không bị rối. Chớ nên tự cho mình là thông minh, muốn tìm đường tắt, muốn dùng phương pháp khoa học để khai ngộ; đó chỉ là suy nghĩ vớ vẩn. Nếu khoa học có thể làm cho khai ngộ, thì các nhà khoa học gia đã không tự chui vào thế kẹt, họ đã sớm khai ngộ từ lâu rồi và chẳng ai có thể dự phần để khai ngộ với họ đâu! Chớ nên nghĩ ngợi mông lung mà phải thành thật, đúng phép mà tham cứu “Niệm Phật là Ai?” Lưng mỏi cũng phải chịu, chân đau cũng phải nhẫn; nhẫn nại mãi sẽ tới lúc quý vị khai ngộ. Rằng:

Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Chẩm đắc mai hoa phác tỵ hương?

Nghĩa là:

Không qua một lần lạnh buốt xương,
Sao được hoa mai tỏa ngát hương?

Quý vị hãy chú ý! Chớ quá thông minh rồi lại bị sự thông minh đánh lừa mình. Phải nhớ: Một phần nỗ lực tu hành là một phần công phu. Tu hành là chân thật công phu, không phải “khẩu đầu thiền” (thiền nói suông). Chỉ nói suông mà không thực hành, thì không ích lợi gì. “Thiền nói suông” chẳng những không giúp gì việc khai ngộ mà ngược lại còn chướng ngại là khác. Do đó nói: “Không nói, mới là Thiền.”

Một niệm linh quang có thể triệt chiếu thiên địa, quý vị cùng mười phương ba đời chư Phật chẳng hề khác biệt. Vì sao chúng ta không thể chứng đắc Tam Thân, Tứ Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông? Vì kẻ phàm phu chúng ta vọng tưởng quá nhiều, do đó trí huệ bị che khuất, chẳng có quang minh, thành ra vô minh. Cả ngày cứ khởi mê hoặc, tạo nghiệp, nên thọ nhận quả báo đau khổ trong vòng sinh tử.

Tam Thân tức là Pháp-thân, Báo-thân, Ứng-thân (hoặc Hóa-thân).

Tứ Trí tức là Thành-sở-tác Trí, Diệu-quán-sát Trí, Bình-đẳng-tánh Trí, Ðại-viên-kính Trí.

Ngũ Nhãn tức là Nhục-nhãn, Thiên-nhãn, Pháp-nhãn, Huệ-nhãn, Phật-nhãn.

Lục Thông tức là Thiên-nhãn Thông, Thiên-nhĩ Thông, Tha tâm Thông, Túc-mạng Thông, Thần-túc Thông, Lậu-tận Thông.

Khi quý vị không có vọng tưởng gì thì mới chứng đắc những cảnh giới này. Ðây chẳng phải là thứ triết lý, lý luận huyền diệu bí ẩn gì cả, chỉ là một thứ hiện tượng tự nhiên, từ chân thật công phu mà chứng đắc. Chẳng có chút gì kỳ lạ, rất là bình thường.

Từ vô thủy kiếp đến nay chúng ta bị vô minh che phủ, chẳng gặp được bậc Thiện-tri-thức dắt dẫn, không biết thế nào là minh tâm kiến tánh (minh ngộ tự tâm, triệt kiến bổn tánh), không biết thế nào là phản bổn hoàn nguyên (trở về nguồn cội). Chúng ta tu Thiền chính là để minh tâm kiến tánh, để phản bổn hoàn nguyên vậy. Nếu được giải thoát thì sẽ không còn quái ngại, ngăn trở, xa rời mọi điên đảo mộng tưởng, cuối cùng tới đặng Niết-bàn vậy.

Thiền thất (12/1980)

 

Không Trừ Vọng Tưởng thì Chẳng Thể Khai Ngộ

 

Mục đích tham Thiền là để khai mở trí huệ, cầu giải thoát. Chúng ta phải chuyên tâm trì chí tham cứu câu “Ai là kẻ niệm Phật?” Khi tham tới cực điểm, quý vị sẽ quên bẵng tất cả mọi vọng tưởng-quên ăn uống, phục sức, ngủ nghỉ, và thậm chí quên cả đại, tiểu tiện! Lúc bấy giờ, “gió thổi không lọt, mưa rơi không thấm,” quý vị chỉ miên mật tham chữ “Ai” mà thôi! Một niệm duy nhất này kiên cố như kim cang, không gì phá hoại nổi. Bấy giờ, quý vị “trên không biết có trời, dưới không biết có đất, ở giữa không biết có người”-tức là đạt tới cảnh giới “không có người, không có mình, không có chúng sinh, không có thọ giả”; và đó cũng là lúc mà quý vị thể nghiệm được trạng thái “trong không có thân tâm, ngoài chẳng có thế giới”-mình cùng vũ trụ đã hợp thành một thể.

Xưa kia, nhiều bậc đại đức cao tăng đã có thể đạt tới trình độ “nhất niệm bất sinh” (không sinh vọng tưởng):

“Tuy suốt ngày ăn cơm, nhưng chưa hề ăn một hạt gạo.

Tuy suốt ngày mặc áo, song chưa hề mặc một sợi tơ.”

Khi đạt tới cảnh giới “vô nhân, vô ngã,” không còn sự chấp trước về mình, người, thì làm gì có thời giờ để khởi vọng tưởng nữa chứ? Các vị ấy cho rằng lãng phí một phút cũng có thể làm vuột mất cơ hội khai ngộ, do đó họ chuyên tâm tham cứu câu “Ai là kẻ niệm Phật?”; chưa tìm ra được chữ “ai” thì họ chưa chịu nghỉ ngơi. Tìm chữ “Ai” là phương pháp khống chế vọng tưởng tốt nhất.

Tại Chùa Cao Mân ở Dương-châu có một vị sư tên là Diệu Ðộ. Khi Thầy tham Thiền tới trình độ “đi mà không biết là mình đang đi, đứng mà không biết là mình đang đứng, ngồi mà không biết là mình đang ngồi, nằm mà không biết là mình đang nằm,” thì cái gì Thầy cũng chẳng nghĩ tới, chỉ chú tâm vào câu “Ai là kẻ niệm Phật?” mà thôi. Có một hôm, Thầy muốn tiểu tiện nhưng vì chuyên tâm tham cứu chữ “Ai” quá miên mật nên Thầy vào lộn Thiên Vương Ðiện và lầm tưởng phía trước bệ Ðức Bồ-tát Vi Ðà là nhà xí! Ngay lúc sắp tiểu tiện, Thầy chợt ngẩng đầu lên và thấy Bồ-tát Vi Ðà đang trừng mắt nhìn mình, tay thì giơ cao cây bảo-xử, khiến Thầy sợ hãi đến tỉnh táo cả người! Biết là mình đã đến lộn chỗ, Thầy vội vã sụp lạy Bồ-tát Vi Ðà, sám hối tội lỗi, cầu xin Bồ-tát tha thứ.

Vì sao có thể có chuyện như vậy? Là vì Thiền-sư Diệu Ðộ chuyên tâm dụng công, một lòng một dạ tham cứu chữ “Ai,” hoàn toàn không để ý đến những việc khác, cho nên Thầy mới lầm tưởng Thiên Vương Ðiện là nhà vệ sinh!

Có người nghĩ vớ vẩn rằng: “Tôi cũng bắt chước Thiền-sư Diệu Ðộ, tôi sẽ lên đài Quán Âm thay vì dùng nhà vệ sinh!” Nếu quý vị cố ý làm như vậy thì quý vị cách xa Ðạo mười vạn tám ngàn dặm rồi! Quý vị nên biết rằng Thiền-sư Diệu Ðộ chẳng bắt chước ai cả, Thầy chỉ nhất tâm tham cứu câu “Ai là kẻ niệm Phật?”, mải miết tập trung tinh thần vào một vấn đề, do đó mới xảy ra cớ sự như vậy. Nếu quý vị cố ý bắt chước đi sai đường thì thật là sai lầm vô cùng; cho nên, ngay cả cái ý tưởng muốn bắt chước này quý vị cũng chớ nên có! Phải nhớ rằng:

“Sai một ly, đi một dặm.”

Nhiều người ở trong Thiền-đường song chẳng chịu dụng công, cứ ngồi nghĩ ngợi lăng nhăng: “Sao chưa có ai đánh khánh vậy kìa? Mau mau khai tịnh để mình duỗi chân duỗi tay, vươn vai ưỡn lưng cho đỡ mỏi đi chứ!” Hoặc có người thì vọng tưởng tới chuyện ăn uống: “Vẫn chưa tới giờ ăn sao? Ðói bụng chịu hết nổi rồi!” Có người thậm chí tính toán: “Ðã mười hai ngày rồi, như vậy là còn chín ngày nữa công đức mới viên mãn. Mong sao xong lẹ lẹ cho rồi để mình khỏi phải bị hành tội nữa!” Người ta tham gia Thiền-thất thì mong cho thời gian càng dài càng tốt để được có thêm cơ hội khai ngộ, còn những người này ngồi trên Thiền-sàng mà cứ như ngồi trên bàn chông, lúc nào cũng thấy bứt rứt xốn xang-nếu không đổi chân thì lại vươn vai, không ngồi yên được. Người ta thì nhập Ðịnh, còn họ thì nhập “phi phi,” vọng tưởng lăng nhăng không ngớt. Nếu đã như vậy thì việc gì phải đến tham gia Thiền-thất? Cứ làm bộ làm tịch ra vẻ tu hành để làm gì kia chứ? Chi bằng đừng tới tham gia để khỏi phải tự chuốc lấy đau khổ cho rồi!?

Song, quý vị nên biết rằng muốn chấm dứt sinh tử thì phải đem hai chữ “sinh tử” treo ngang mày để hễ mở mắt là thấy vấn đề sinh tử, nhắm mắt cũng không quên chuyện tử sinh. Lúc nào cũng phải dụng công tu hành thì mới có thể chấm dứt được sinh tử. Nếu tại Thiền-đường mà quý vị không luôn luôn nghĩ đến việc “liễu sinh thoát tử,” trái lại lúc nào cũng nghĩ ngợi lăng nhăng, cứ lo vọng tưởng của mình chưa đủ nhiều, thì thật là đáng thương biết bao!

Người dụng công tu Ðạo thì không được khởi vọng tưởng dù chỉ trong một giây. Có câu rằng:

“Ðại sự vị minh, như táng khảo tỷ.”

(Việc lớn chưa rõ, như đưa đám cha mẹ.)

Khi chúng ta chưa hiểu được “sinh tử đại sự” thì cũng đáng buồn thảm, bi ai giống như cha mẹ qua đời vậy. Do đó, lúc tham Thiền thì phải luôn luôn dụng công tu hành, chớ lãng phí một giây một phút và cũng chớ buông lung. Dụng công tới lúc “lô hỏa thuần thanh,” công phu chín muồi, thì tự nhiên sẽ có cảm ứng. Có cảm ứng thì công phu mới tương ưng. Cho dù đã khai ngộ rồi quý vị cũng vẫn phải không ngừng cố gắng tiến tới trước. Ðừng lười biếng, đừng tự giam hãm mình nơi “hóa thành;” đừng cho rằng tới đây là hết, rồi không muốn tiến thêm nữa. Những ý tưởng như vậy chính là các hòn đá cản trở sự tu hành.

Biết rõ ràng là vọng tưởng không làm ta khai ngộ, vậy thì tại sao vẫn cứ khởi vọng tưởng chứ? Biết rõ ràng đó là vọng tưởng mà tại sao không quét sạch chúng đi? Ðó chính là khuyết điểm của đa số người đời – biết rõ mà vẫn cố ý vi phạm. Nói rõ ra tức là quý vị vẫn “không thể nhìn thủng, chẳng thể buông bỏ,” vẫn còn chấp trước cái này, câu nệ cái nọ, chấp nam chấp nữ…, kết quả là lãng phí hết thời giờ quý báu.

Thời gian đả Thiền-thất là vô cùng quý giá, bởi vì không dễ gì mà gặp được cơ duyên tốt đẹp như thế. Trong thời gian này, quý vị hãy ném hết mọi vọng tưởng lên chín tầng mây để cho lòng được thanh tịnh, chuyên chú vào câu “Ai là kẻ niệm Phật?” Ðừng xao lãng! Mọi người hãy nỗ lực tham Thiền! Tham! Tham! Tham!

(Thiền thất 12/1980)

 

Khai Ngộ Phải Ðược Ấn Chứng Mới Ðúng Pháp

 

Trước thời Oai Âm Vương Phật ra đời, ai ai cũng có thể khai ngộ mà chẳng cần người nào ấn chứng cả. Từ thời Oai Âm Vương Phật trở về sau, những ai tự giác khai ngộ đều nhất định phải có Tổ-sư hoặc bậc Thiện-tri-thức (đã khai ngộ) ấn khả, chứng minh thì mới đúng phép. Cũng như ở Pháp-hội Lăng-Nghiêm, có hai mươi lăm vị Thánh-nhân tường thuật sự chứng đắc viên-thông của họ và thỉnh Ðức Phật Thích-Ca ấn chứng.

Bây giờ tôi kể cho quý vị nghe một công án về sự ấn chứng.

Ðời Ðường (nước Trung Hoa), có Ðại-sư Vĩnh Gia. Ngài sinh ở huyện Vĩnh-gia, tỉnh Triết-giang. Bởi vì cả đời Ngài không rời huyện Vĩnh-gia nên người đương thời gọi Ngài là Ðại-sư Vĩnh Gia. Sau khi xuất gia, Ngài nghiên cứu giáo lý Thiên-Thai Tông, thích tu Thiền-quán; nhờ xem Kinh Duy Ma Cật mà hoát nhiên đại ngộ. Về sau, khi gặp Thiền-sư Huyền Sách (đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng), ngài Vĩnh Gia bèn thuật lại tự sự. Thiền-sư Huyền Sách khuyên ngài nên đến Tào-khê tham bái Lục Tổ để thỉnh cầu ấn chứng; nếu không, chẳng nhờ thầy mà ngộ, thì là hàng “ngoại đạo Thiên-nhiên.”

Khi ngài Vĩnh Gia tới Chùa Nam Hoa ở Tào-khê, gặp đúng lúc Lục Tổ đang tọa Thiền. Ngài rất cống cao ngã mạn, tới bên Thiền-sàng của Lục Tổ, cũng chẳng vái chào, chẳng đảnh lễ, cầm cây tích-trượng đi nhiễu quanh Thiền-sàng ba vòng, rồi đứng chống tích-trượng.

Lục Tổ mới hỏi: “Một vị Sa-môn cần hội đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Một hạnh cũng không khiếm khuyết thì được gọi là Sa-môn (dịch là Cần Tức-cần tu Giới Ðịnh Huệ, tức diệt Tham Sân Si-siêng tu Giới Ðịnh Huệ, dứt bỏ Tham Sân Si). Ðại-đức từ nơi nào tới, sinh lòng đại ngã mạn như thế?”

Ngài Vĩnh Gia đáp: “Chuyện lớn là sinh tử, vô thường quá chóng vánh.”

Lục Tổ hỏi: “Sao không thể hội cái vô sinh? Sao chẳng liễu ngộ thứ chẳng chóng vánh?”

Ngài Vĩnh Gia đáp: “Thể hội tức là vô sinh. Liễu ngộ vốn không chóng vánh.”

Lục Tổ dạy rằng: “Ông thật hiểu ý nghĩa của vô sinh vậy.”

Ngài Vĩnh Gia hỏi vặn: “Vô sinh mà còn có ý hay sao?”

Lục Tổ trả lời rằng: “Không có ý thì ai đang phân biệt?”

Ngài Vĩnh Gia đáp: “Phân biệt cũng chẳng phải là ý!”

Lục Tổ dạy: “Như thị! Như thị!”

Rồi ngài Vĩnh Gia được ấn khả chứng minh, trở thành Pháp-tự của Lục Tổ.

Sau khi được Lục Tổ ấn chứng, ngài Vĩnh Gia muốn lập tức trở về Chùa Khai Nguyên ở Vĩnh-gia. Song Lục Tổ lưu ngài ở lại một đêm, hôm sau mới xuống núi về quê nhà. Bởi vì chỉ trong một đêm mà giác ngộ được chân-đế của Phật-pháp nên người đương thời gọi ngài là “Nhất Túc Giác Hòa Thượng” (vị Sư giác ngộ nội trong một đêm). Về sau ngài cực lực tuyên dương pháp Ðốn-ngộ của Thiền-môn, viết tác phẩm Chứng Ðạo Ca thuyết minh cảnh giới đốn-ngộ. Ðó là một tác phẩm bất hủ, đã trở thành bản văn phải học trong Phật môn.

Khi chúng ta ngồi trong Thiền-đường, cứ nhìn bề ngoài thì giống như chúng ta đang dụng công tu hành, song thật ra thì chỉ ngồi nghĩ ngợi, vọng tưởng lăng xăng, chẳng dụng công tu hành chút nào cả. Có vị nghĩ rằng: “Bây giờ là thời đại khoa học, phải dùng phương pháp khoa học để khai ngộ”; nhưng lại nghĩ lui nghĩ tới mãi, chẳng chút khoa học gì cả, đó chính là “kẻ ngốc nói chuyện mộng mỵ.”

Kẻ nào khai ngộ rồi thì đều phải thắng được mọi khảo nghiệm, nếu không y sẽ mắc tội đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián. Phàm lệ, ai tự rêu rao về mình: “Tôi đã khai ngộ rồi! Tôi đã chứng quả rồi!” thì đều phải chịu quả báo (đọa địa ngục). Hy vọng quý vị đều hết sức cẩn thận, không tùy tiện nói càn, kẻo về sau phải chịu quả báo!

Ở đây quý vị dậy rất sớm, ngủ thật trễ. Vì sao lại tu cực khổ như vậy? Bởi vì thêm một phút tham Thiền là thêm một cơ hội giác ngộ. Hiện tại quý vị ngồi ở Thiền-đường tập trung tinh thần, dụng công tham cứu câu “Niệm Phật là ai?”, tuy chẳng phải là không có vị chuyên tâm dụng công, song những vị chân chính muốn giác ngộ, đắc được thọ dụng, thì ít lắm. Phần đông người ta không biết rõ việc tham Thiền ra sao, cũng không nhiệt tâm; họ chỉ tu cho có lệ, làm cho qua ngày. Với thái độ đả Thiền-thất như vậy thì dù có đả thất tới “tận vị lai kiếp” cũng chẳng thể khai ngộ được. Tôi hy vọng mỗi quốc gia đều có nhiều vị giác ngộ, để họ giúp ích cho tiền đồ Phật-giáo mai sau.

Trong lúc đả Thiền-thất, quý vị chớ nói chuyện, đừng nghĩ ngợi lăng xăng. Quý vị hãy chân thật dụng công thì mới có cảm ứng, mới khai trí huệ. Có trí huệ thì mới không điên đảo. Không điên đảo thì mới có thể giáo hóa chúng sinh. Nếu chính mình không hiểu rành mạch chân lý thì lấy tư cách gì để dạy kẻ khác? Ðây chẳng phải là “kẻ đui dắt người mù” sao? Thật là vô cùng nguy hiểm!

Việc tham Thiền thì cũng tương tự như bác nông phu gieo hạt ngũ cốc vào mùa xuân; đến mùa hè thì cày cấy, tưới nước, nhổ cỏ, bón phân; qua mùa thu mới gặt được mùa tốt và khi mùa đông tới thì bác mới được no ấm. Hy vọng suốt một năm của bác nông phu là được đủ ăn đủ mặc. Tham Thiền cũng vậy. Quý vị cần cẩn thận giữ chặt tâm niệm, lúc nào cũng quản thúc chính mình. Trong Thiền-đường, lúc đi mình có dụng công chăng? Lúc ngồi mình có dụng công chăng? Nói tóm lại, đi, đứng, nằm, ngồi, đều phải dụng công tu hành. Quý vị cảm thấy dụng công làm sao thích hợp, thì cứ theo đó mà dụng công, chẳng có gì hạn chế. Ví dụ, quý vị cảm thấy tham thoại đầu chẳng tương ưng, thì có thể niệm Phật, hoặc tu chỉ-quán. Chỉ cần phương pháp ấy thích hợp, tương ưng với quý vị thì quý vị sẽ có cơ thành tựu.

Vô luận là dụng công ở pháp môn nào, tâm phải chuyên nhất, đừng có vọng tưởng. Khi dụng công tới cực độ thì sẽ có tin tức tốt đẹp. Nếu có vọng tưởng, suy nghĩ lăng xăng hoài, thì dụng công ở pháp môn nào cũng chẳng có tương ưng. Phàm nếu là người chân chính dụng công, thì đi chẳng biết là đi, ngồi cũng chẳng biết là ngồi-đi hay ngồi đều không để ý thì làm sao khởi vọng tưởng được chứ? Quý vị chỉ cần biết “Niệm Phật là ai? Niệm Phật là ai?” Cứ một câu này, niệm niệm chớ để gián đoạn, luôn luôn tham cứu trong lòng. Bấy giờ, dù khát quý vị chẳng biết khát, đói cũng chẳng biết đói; nóng cũng không biết là nóng, lạnh cũng chẳng hay là lạnh. Vì sao không biết? Vì tâm chuyên nhất vậy. Lưng đau cũng quên đau, chân nhức cũng không biết nhức, mọi ý niệm đều tiêu vong cả. Chỉ còn có một niệm: “Ai niệm Phật?” Luôn đề khởi nó, rồi buông bỏ. Buông bỏ xong lại đề khởi. Lúc nào cũng miên mật, dụng công liên tục, không gián đoạn. Dụng công tới chỗ cực độ, thì bất kỳ một va chạm ngẫu nhiên nào cũng có thể làm quý vị hốt nhiên khai ngộ.

Tại sao quý vị không hốt nhiên khai ngộ? Vì quý vị chưa chuyên tâm trì chí, chưa hiểu đạo lý minh tâm kiến tánh, không biết cảnh giới phản bổn hoàn nguyên, cũng chẳng biết cố hương ở nơi đâu nên lưu lạc nơi đất khách như tên ăn mày.

Cuối cùng tôi nói với quý vị câu này: Hãy tham cứu câu “Niệm Phật là ai?” cho tới chỗ “núi cùng nước cạn, nghi hết đường”; bấy giờ, quý vị sẽ thấy cảnh giới “bóng liễu, hoa xinh hiện một thôn.”

(Thiền thất 12/1980)

 

Tham Thiền Phải Hồi Quang Phản Chiếu

 

Ði đứng nằm ngồi
Không lìa bỏ
Lìa bỏ cái đó
Tức thành lầm lỗi.

 

Cái đó là cái gì? Chính là câu thoại đầu để chúng ta dụng công tham thiền. Lấy chân tâm mà tu Ðạo, đề khởi câu thoại đầu rồi tham cứu một cách miên mật, không dứt đoạn. Hàng giờ, hàng khắc, hàng phút, hàng giây, không một tạp niệm nào, một vọng tưởng nào xen vào, tóm lại trong tâm tư, niệm trước niệm sau, chỉ rặt một câu thoại đầu là đề mục tham cứu. Vậy thì đâu còn thời gian nào khác để nói chuyện với nhau, làm rộn người khác? Cũng không có cơ hội để lười biếng nghỉ ngơi, càng không có dịp để nói chuyện thị phi, chuyên một lòng giữ câu thoại đầu để tham ngộ. Có câu kệ rằng:

Mọi sự qua suông sẻ
Khó xả duy nổi nóng
Nếu quả không tức giận
Ðó là hòn ngọc quý
Lại không biết hận người
Sự việc đều trôi chẩy
Phiền não chẳng hề sanh
Lấy đâu tạo oan nghiệt?
Thường chỉ rặt trách người
Khổ đau chuốc mãi mãi.

Người tham Thiền nếu có được thái độ như vậy mới mong có ngày “nhập môn”. Tại Thiền đường ai ai cũng phải hồi quang phản chiếu, quay về nơi mình, tự hỏi mình, có phải ta đương dụng công, hay ta đương phóng tâm theo vọng tưởng? Hãy nhìn chính mình, phải chăng ta đương rọi sáng để soi chính ta? Chớ không phải soi ra ngoài? Ðó là điều chúng ta phải rất mực chú ý.

Dụng công nơi Thiền đường, ta phải ghi nhớ hai câu sau:

Ma-ha-tát, chẳng lý tới kẻ khác
Di-đà Phật, ai nấy tự lo lấy!

Từng thời từng khắc, tự quản lý mình, khỏi cần để ý tới ai, càng không nên làm phiền hà người khác, như vậy là chướng ngại sự dụng công của mọi người, khiến họ có thể lỡ cơ hội khai ngộ, một việc không thể chấp nhận được. Như tôi thường nói với quý vị:

Thành thực nhận lỗi mình
Không bàn lỗi người khác
Lỗi người tức lỗi ta
Ðồng thể gọi Ðại bi.

Ai ai cũng có tư tưởng đó thì tất cả đều một lòng một ý tu hành, không còn nghĩ gì khác, chẳng còn nhiều chuyện bàn tán, làm rộn mọi người.

Người tham thiền cốt yếu phải nhận định cho rõ rệt một vấn đề căn bản. Ðó là vấn đề gì? Cái đó là tập khí. Ngồi thiền là để loại trừ tập khí, những thói xấu, để thanh lọc tâm tư, để giải trừ những thói xấu đố kỵ những ai hơn mình. Hãy mang những tâm đố kỵ, những tâm phiền não vô minh, gạt bỏ hết. Có như vậy, Chân tâm sẽ tỏ lộ, trí huệ sẽ hiển bầy, và lúc đó thiền giả mới có hy vọng nhận được tin vui.

Bởi đâu mà mọi người ưa những chuyện thị phi? Chính vì lý do ngu si. Bởi đâu mà sanh tâm tật đố? Cũng là do ngu si. Bởi đâu mà có tâm hại người? Là ngu si hết. Phàm làm những chuyện không hợp lý đều do ngu si mà phát sanh ra. Vậy bởi đâu mà có ngu si? Chính vì không chịu tu tập thiền định, nên không có trí huệ, cho nên chúng ta cứ luẩn quẩn trong vòng nhân ngã thị phi, không ra khỏi được. Do đó, chúng ta phải hồi quang phản chiếu, nhìn nhận lỗi mình trong quá khứ, dốc lòng hối cải, thay vì khư khư giữ mãi những tập khí xấu xa mà không chịu buông bỏ.

Tại sao khi ngồi thiền lại buồn ngủ? Bởi cầu Pháp mà lòng không chân thực. Nếu như thành tâm cầu Ðạo thì tuyệt đối không bao giờ buồn ngủ. Quý vị hãy thử kinh nghiệm coi, tôi nói lẽ đó có đúng hay không?

Thiền thất khai thị, tháng 12, 1980

 

Thiền Ðường Là Ðạo Tràng Tuyển Phật

 

Mọi người đến Thiền đường dụng công có thể coi như dự một cuộc khảo thí, khảo thử ai là người được quả vị Phật. Làm sao để có thể được trúng tuyển? Cốt yếu họ phải đạt được trạng thái “bên trong không thân tâm, bên ngoài không thế giới”, hay nói cách khác đây là cảnh giới:

Nhìn mà không thấy,
Nghe mà không hay
Ngửi không có mùi.

Ai có được công phu này sẽ có hy vọng trúng tuyển.

Tại sao nhìn mà không thấy? Bởi có sự “hồi quang phản chiếu”. Tại sao nghe mà không hay? Bởi “phản văn văn tự kỷ” tức quay cái nghe để nghe chính mình. Tại sao ngửi mà không có mùi? Bởi vì thâu nhiếp thân tâm, nên mùi vị không làm cho dính mắc. Ðây là trạng thái khi mắt nhìn sắc mà không thấy sắc, tai nghe tiếng mà coi như không âm thanh, mũi ngửi mùi hương mà không thấy hương, lưỡi nếm mà vô vị, thân xúc chạm mà không cảm giác, ý có pháp mà không dính pháp. Tới được cảnh giới này mới có hy vọng trúng tuyển thành Phật. Chỉ khi nào “trong lò lửa mà sắc vẫn xanh tươi” (lô hỏa thuần thanh), chân đứng trên “đỉnh cao chóp núi”, tại “đầu sào trăm thước” mà nhảy tới, chừng đó mới có hy vọng. Bởi vậy, trong chốn Thiền đường, chúng ta không thể bỏ phí thời gian. Cổ nhân đã từng nói:

Một tấc quang âm một tấc vàng
Tấc vàng khôn đổi tấc quang âm
Vàng mất rồi ra còn kiếm được
Quang âm để mất biết tìm đâu.

Chúng ta phải nắm lấy thời cơ, cố gắng dụng công tu hành. Pháp tu thì có nhiều, duy có pháp “tham thiền” là cao siêu hơn cả. Trong pháp môn này, nếu dụng công cho tới mức độ chín mùi thì có thể làm một cuộc xoay chuyển hoàn toàn, có thể “bội trần hiệp giác”, và được trúng tuyển thành Phật.

Người tu Ðạo Bồ-tát có thể bỏ cả nước, cả nhà, cả vợ con. Bên trong thân thể còn có thẻ bỏ cả đầu, mắt, não tủy, chỉ một lòng lo cho chúng sanh, bố thí mọi thứ mà không tiếc. Nếu được trang bị một trạng thái tinh thần như vậy, thì tại “trường tuyển Phật” mới có hy vọng được trúng tuyển. Quý vị nên biết rằng đây là sự tuyển chọn của chư Phật, tuyệt đối công minh, không thể nhờ cậy vào sự cầu may mà phải nhờ vào công phu chân thực của chính mình mới được.

Phật tuyển lựa Phật, chẳng phải ma tuyển lựa Phật, nhưng ma giúp Phật. Phật thì trực diện giáo hóa chúng sanh, còn ma thì giáo hóa gián tiếp, giáo hóa bằng mặt trái, thúc đẩy chúng ta phát đại nguyện lực, giúp chúng ta nỗ lực tu hành. Cho nên ma chính là khuôn mặt khác của Thiện tri thức. Tôi thường nói:

Ma mài dũa đường Ðạo
Chân Ðạo mới có ma
Càng mài thì càng sáng
Càng sáng càng thêm mài
Mài như trăng trong sáng
Giữa trời chiếu quần ma
Ánh sáng chiếu tan ma
Bổn lai Phật xuất hiện.

Cho nên chúng ta không nên đối xử với ma như một kẻ thù mà coi ma cũng như một Thiện tri thức. Quán tưởng cách đó, chúng ta sẽ an tâm mà tránh được phiền não. Tỷ dụ có người nói xấu ta, người đó là Thiện tri thức của ta. Một việc ta làm đúng, nhưng có người bảo ta làm không đúng, ta lại càng cố làm cho đúng thêm một mức nữa, như câu nói: “Tới đầu sào trăm thước, còn dấn thêm bước nữa”. “Thấy được lỗi của ta, người đó là thầy ta”, chúng ta phải coi người nào kiếm ra lỗi lầm của mình chính là thầy của mình, chúng ta phải tạ ơn người đó, chớ không phải coi người đó là kẻ thù.

Chư Phật không phải hồ đồ như chúng ta, do đó nếu chúng ta cứ mang mãi cái diện mạo giả dối, thì không bao giờ có thể được tuyển lựa thành Phật. Chúng ta phải chân thành cầu cái chân thực, đã chân thực còn cần phải chân thực hơn, phải “chân, chân, chân, chân, chân, chân, chân!” bẩy lần chân mới mong được tuyển chọn. Ðó là “thất chân bát chánh”, trong thiền thất 7 ngày phải chân thực tu hành, đến ngày thứ 8 là cải tà quy chánh. Tới lúc đó bao nhiêu tập khí xấu cùng một lượt quét sạch để tới chỗ tịnh khiết hoàn toàn!

Thiền thất khai thị tháng 12 năm 1980

 

Tham Thiền Là Thực Tập Lục Ðộ Ba-La-Mật 

 

Làm nhiệm vụ Duy-na phải chú ý điều này: Ðến giờ khai tịnh, vị Duy-na phải gõ một tiếng khánh báo hiệu, để mọi người chuẩn bị đứng dậy; khi thấy tất cả đã chuẩn bị xong bèn gõ thêm một tiếng khánh nữa, tức thì tất cả đồng loạt đứng lên, tiếp theo là hai tiếng mõ báo hiệu bắt đầu bước đi. Khi chạy hương thì phải chia ra làm hai vòng, vòng ngoài dành cho người chạy mau, vòng trong cho những ai chạy chậm. Ðây là một cách thức điều hợp, cốt sao cho tất cả cùng theo được dễ dàng, người chạy mau hay chạy chậm đều thích nghi. Người ta nói: “Xiết quá thì chặt, lơi tay thì lỏng; chẳng chặt chẳng lỏng mới nên công”, ý nói không chấp vào một pháp nào nhất định, mà phải linh động.

Trong Kinh Kim Cang có câu: “Không có pháp nào nhất định có tên là A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề”. Muốn một cái gì cố định tức là tạo thành vấn đề.

Kinh Kim Cang còn có câu: “Các pháp là bình đẳng, không có cao thấp”. Do đó người tu cũng phải bình đẳng. Tuy rằng Phật có Tam Thân, Tứ Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông, nhưng Phật vẫn tự coi như không có gì khác với chúng sanh, do đó có câu nói: “Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không có sai biệt”, tâm là Phật, Phật là chúng sanh; chúng sanh là Phật, Phật là tâm.

Chạy mau cũng tham thiền, chạy chậm cũng tham thiền, tự liệu sức của mình mà theo. Cốt ở chỗ tự nhiên, không kiểu cách, không có chút gì miễn cưỡng, cứ như thế dụng công, kiên nhẫn. Sống lưng thấy khó chịu, chân có đau, cũng đừng quan tâm. Thứ gì cũng không ham, cái đó gọi là bố thí. Thân không làm điều ác, tức là thân nghiệp thanh tịnh; miệng không nói chuyện thị phi, tức là khẩu nghiệp thanh tịnh; tâm không có vọng tưởng, tức là ý nghiệp thanh tịnh. Ba nghiệp thanh tịnh gọi là trì giới. Có thể chịu đựng sự đau, gọi là nhẫn nhục; có thể dụng công liên tục, bất chấp các khó khăn, mà không thối chí, gọi là tinh tấn. Có thể ngồi an ổn chẳng động, mà thường biết rõ ràng, gọi là thiền định. Do định mà phát sanh trí huệ, tức là Bát-nhã. Cả lục độ thành tựu viên mãn vậy là đáo bỉ ngạn, tới bờ giác ngộ.

Ðến khi chỉ tịnh, Thầy Duy-na phải xem chừng khi nào vị ban thủ đi tới đúng chỗ ngồi của người đó thì gõ một tiếng mõ. Khi tất cả đều đến đúng chỗ của họ rồi thì gõ thêm tiếng mõ nữa. Ai nấy ngồi xuống ngay ngắn, sống lưng thẳng, đầu không gục xuống, lưng không cong. Người ta nói “tọa như chung”, nghĩa là ngồi như hình cái chuông, đầu ngay, lưng thẳng, tư thế an ổn và vững vàng.

Tham câu “Niệm Phật là ai” không có nghĩa là niệm (recite) câu thoại đầu này. Ðây là tham tức là nghiên cứu cái chữ “ai”. Có người bảo: “Tôi biết rồi, niệm Phật là tôi”. Như vậy là không đúng! Câu thoại đầu này nếu ta thực sự giải đáp được rõ ràng, tức là ta đã thấy tánh, tìm được cội nguồn của Pháp, nhờ đó mà ta đã về được quê nhà. Thực tế không phải đơn giản và dễ dàng theo như kiểu chúng ta nghĩ: “Chính là tôi đó mà! Tôi đang niệm Phật”. Quý vị niệm Phật ư? Vậy khi con người quý vị chết thì còn niệm Phật được không? Quý vị sẽ bảo là “không”. Nếu không thì sao lại nói là người niệm Phật là quý vị? Nên nhớ rằng người niệm Phật là không chết, nếu quý vị phải chết thì người niệm Phật không phải là quý vị. Niệm Phật thành Phật, nhưng ai thành Phật? Ai tới quả vị Phật? Quý vị đã chết rồi kia mà!

Bởi vậy, chính tại nơi này quý vị phải tham cứu, tham không buông lơi, cho tới lúc “biển cạn đá tan”, cuối cùng sẽ tới ngày “nước chảy, đá hiện”, và, trong khoảnh khắc quý vị bừng ngộ: “A! Nguyên lai là như vậy!”

Thiền thất khai thị tháng 12, 1980

 

 

Phải Thực Tập Công Ðức Vô Tướng

 

Thiền Ðường là chỗ tuyển Phật, nơi đây là phước điền để gieo trồng công đức. Có câu nói:

Chỉ trong giây lát ngồi tĩnh tọa
Hơn xây hằng sa tháp bẩy báu

Tại sao có thể nói như vậy? Bởi việc xây dựng chùa tháp chỉ là công đức có hình có tướng.

Trong Kinh Kim Cang có câu:

 

Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như lai.

Tạm dịch:

Phàm có tướng đều là hư vọng
Nếu thấy mọi tướng không tướng, tức thấy Như lai.

Công đức do ngồi tĩnh tọa dù trong chốc lát cũng không bao giờ mất. Có người nói: “Vậy tôi khỏi làm những công đức ở bên ngoài, tôi chỉ làm công đức bên trong”. Nghĩ như vậy là sai. Phải làm cả hai loại, vừa tu công vừa tu đức, cho tới lúc công đức được tròn đầy, phước và huệ đều đầy đủ, mới thành “Lưỡng Túc Tôn” được.

Nên nhớ rằng xây dựng chùa miếu, thì chùa miếu lâu ngày cũng sẽ bị biến hoại theo thời gian; tạo được tháp, tháp cũng bị cháy tiêu khi có hỏa hoạn. Duy ngồi tĩnh tọa là có thể mang tự tánh của Tam bảo Phật Pháp Tăng đi đến chỗ thành tựu, đó là công đức vô lậu, bất chấp mọi thứ gió mưa, hỏa hoạn, muôn đời không mất, do đó công đức vô tướng có giá trị gấp muôn vạn lần hơn công đức hữu tướng.

Ngồi tham trong chốn Thiền đường, xả bỏ mọi vọng tưởng, lấy tâm chân thật để tu tập, thì công đức ấy là vô lượng. Ngược lại không được như vậy thì chẳng có ích lợi gì, cho nên có câu nói: “Công đức tĩnh tọa dù trong giây lát còn giá trị hơn là công xây tháp nhiều như cát sông Hằng”.

Quý vị đến đây tham dự Thiền thất, đều là những người có sẵn căn lành nên mới gặp được nhân duyên này, để cùng tham thiền chung với nhau. Nay, chúng ta hãy giữ lòng thanh tịnh, đừng theo lối “tâm viên ý mã” để cho tư tưởng chạy ra bên ngoài. Như vậy là không đúng với Ðạo, bỏ uổng thời gian bẩy ngày trôi qua, không có ích lợi gì, để phụ chính lòng mình khi mới tới. Phải tìm cách chế ngự vọng niệm cho tâm được an tịnh. Có câu rằng:

Tâm thanh, trăng hiện đáy nước
Ý định, trời không vẩn mây

Nhằm mục đích này, sang năm (năm 1982), một khóa thiền kéo dài mười tuần Thiền Thất sẽ được cử hành, thời gian tĩnh tọa là bảy mươi ngày. Hiện nay trên toàn thế giới, không thể kiếm ở đâu ra một Ðạo tràng mà người ta tham thiền trong bảy mươi ngày liên tục như vậy.

Vạn Phật Thánh Thành muốn sửa đổi thời Mạt Pháp thành thời Chánh Pháp nên mới xả thân mạng lo việc tu hành, dụng công cho Ðạo. Nếu như có ai thực lòng tu, thì chỉ có thể tới Vạn Phật Thánh Thành họ mới có được cơ hội này. Các nơi khác thì tu hời hợt, công phu chỉ là làm cho qua chuyện. Theo danh nghĩa thì cũng là Thiền Thất, nhưng trên thực tế thời gian biểu không giống nhau. Tại Vạn Phật Thành mỗi buổi từ 2 giờ rưỡi sáng đã bắt đầu đi hương, cho tới 12 giờ đêm mới nghỉ, và trong khoảng thời gian này chỉ có một tiếng đồng hồ là gián đoạn mà thôi. Ðây là quy lệ của chúng ta về Thiền Thất.

Thiền thất khai thị tháng 12 năm 1980

 

Sáu Ðại Tông Chỉ Của Người Tu Ðạo

 

Kẻ tu hành phải có con mắt trạch pháp (“Trạch Pháp nhãn” hay “Dharma-selecting vision”), mới có thể chọn lựa thứ gì là chánh pháp, thứ gì là tà pháp. Chánh pháp la?hông tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Ðây là sáu đại tông chỉ, người tu Ðạo noi theo sẽ có được chánh tri và chánh kiến. Ngược lại, tà pháp chính là tranh, tham, cầu, ích kỷ, tự lợi, nói dối. Nếu có sáu thứ đó thì sẽ có tà tri tà kiến. Ðây là điểm then chốt, là đường phân ranh giữa hai phía, hướng tới phía trước là Chánh pháp, về phía sau là tà pháp. Chúng ta phải nhận cho rõ điểm này.

Giả như không có tà tri tà kiến thì chỉ cần giữ định lực kiên cố, ma vương sẽ không có cách gì quấy phá ta, không thể làm cho tâm ta lay động. Có câu rằng: “Phật đến giết Phật, ma đến giết ma”. Câu này là nghĩa thế nào? Ðây chỉ là lời khuyên ta không nên quá chấp vào cảnh giới. Thấy Phật đến mà cũng không tiếp nhận hình ảnh này, huống chi là thấy ma! Tuy rằng trong nhiều trường hợp các cảnh giới đó là những tin báo trước, rất linh ứng, nhưng chúng ta cũng không nên tin vào. Ðiều mà chúng ta cần tin tưởng chính là sáu đại tông chỉ, chẳng tranh, chẳng tham, chẳng cầu, chẳng ích kỷ, chẳng tự lợi, chẳng nói dối. Ðó chính là lưỡi gươm chém ma, cái chầy hàng phục ma vậy.

Như có đủ chánh tri chánh kiến thì dầu có được chư thiên hiện thân đến cúng dường, và cung kính khấu đầu, người tu cũng không động tâm. Rủi có sự động tâm hay sanh tâm hoan hỷ, thì loại ma hoan hỷ sẽ thừa cơ đến phá, làm người tu phát cuồng. Rủi có tâm u sầu thì loại ma u sầu sẽ đến làm cho tâm nhiễm phiền não, hoặc có khi sanh tâm chấp trước, tâm ngã mạn. Tất cả những thứ đó đều do ma quấy phá, khiến cho tâm mất sự thanh tịnh.

Bởi vậy cho nên hễ gặp bất cứ loại cảnh giới kỳ quặc nào, người tu cũng không nên tin, không để cho tâm động. Chỉ nên tin vào trí huệ của mình, tin rằng tự tánh có thể sanh ra vạn pháp, tự tánh bổn lai là thanh tịnh, bổn lai không bị nhiễm ô, bổn lai không điên đảo. Như vậy thì còn cái gì để mong cầu nữa? Phàm có sự cầu mong là có sự nhiễm ô; có tranh, có tham, có ích kỷ, có tự lợi, có nói dối tức là có nhiễm ô. Gặp bất cứ pháp nào chúng ta đều có thể lấy sáu tông chỉ lớn đó làm thước đo, để quan sát, thứ nào hợp là Chánh pháp, thứ nào không hợp là tà pháp.

Sáu đại tông chỉ có thể phá tà tri tà kiến của thiên ma ngoại đạo. Tất cả những hành vi tạo tác của thiên ma ngoại đạo đều có tính cách sở cầu, chủ ý để tranh, tham, cầu, ích kỷ, tự lợi, nói dối, cho chính mình chẳng phải cho tha nhân. Ðó là những tư tưởng thuộc về hàng bàng môn tả đạo.

Người tu Ðạo phải tích lũy công, bồi đắp đức hạnh, nhưng không được chấp trước những điều đã thực hiện, như câu thường nói: “quét sách mọi pháp, ly hết mọi tướng”, chớ không thể nói rằng: “Tôi làm công đức này, tôi tu hành như thế kia” hay nói: “Tôi đã đạt tới cảnh giới này, tôi có pháp thần thông kia”. Cho rằng có những thứ đó, nhưng xét kỹ chúng đều là hư dối, không nên tin, không thể bị mắc vào. Nếu tin vào nhưng điều kỳ dị, những pháp thần thông thì người tu không thể vào được chánh định, chánh thọ (tức Tam-muội). Nên hiểu rằng chánh định, chánh thọ không phải từ bên ngoài mà có được, nó phải từ trong tự tánh mà sanh ra. Bằng cách nào người tu đạt được? Ðó là do công phu hồi quang phản chiếu, quay lại nơi mình (phản cầu chư kỷ), chánh định chánh thọ mới thành tựu được.

Vạn Phật Thánh Thành là nơi tụ hội của muôn vạn bậc thánh. Tuy nhiên bốn phía xung quang Thành lại có những ma vương đương chờ cơ hội để nhập vào. Nếu như người tu mà tâm không thanh tịnh, trong đầu chỉ toàn là vọng tưởng thì ma vương sẽ thừa cơ lẻn đến xúi bẩy, tỷ dụ như chúng làm cho người tu tiên đoán chuyện này chuyện nọ. Nếu người tu lại tin rằng đó là thần thông mình đạt được, thì chính người đó đã bị cho vào tròng, thành kẻ quyến thuộc của Ma vương.

Cũng như khi nghe được một thanh âm nào, quý vị đã vội cho rằng đó là lời trong hư không. Thật ra hư không chẳng có tiếng nói, mà phải biết rằng: “lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm theo duyên”. Giả tỷ nghe thấy thanh âm của hư không, đó chỉ là cảnh giới ma chớ không phải do “Ðại Viên Kính Trí” mang lại. Có xá gì một chút tin tức nhỏ nhoi không đáng kể!

Tâm tư của người tu phải thanh tịnh. Chớ tham cầu khả năng dự tri. Dự tri chẳng mang lại điều gì hay mà ngược lại chỉ gây thêm phiền phức, khiến cho chúng ta phân tâm, không tập trung được tinh thần, do đó vọng tưởng sẽ rối bời và phiền não thêm chồng chất. Nếu chẳng có dự tri, quý vị sẽ không có phiền não, tâm không bị chướng ngại. Tâm Kinh có nói: “Bởi không chướng ngại, nên không sợ hãi, ly hết mọi mộng tưởng điên đảo, Niết-bàn cứu cánh”. Ðây mới chính là mục tiêu của hành giả trên con đường tu Ðạo.

 

 

Tham Miết Sẽ Tự Nhiên Khai Ngộ 

 

Phép tắc ngồi tham thiền là mắt trông xuống mũi, mũi quán miệng, miệng quán tâm; cách đó dùng để chế ngự tình trạng tâm ý lăng xăng như câu người ta nói “tâm viên ý mã”, và cốt giữ cho tâm khỏi hướng ra ngoài tìm kiếm. Trong Thiền đường, hành giả không được nghiêng ngó đông tây, vì nếu cứ như vậy thì tâm sẽ bắt theo cảnh bên ngoài mà không thể nào tham được. Ðiểm này là chỗ quý vị phải đặc biệt chú ý! Thời gian của thiền thất là vô cùng quý giá, một phút một giây cũng không thể bỏ phí, quý vị phải nắm lấy cơ hội đó mới có thể phát triển trí huệ.

Người tu hành chớ nên trân quý cái túi da hôi thối này. Phải lìa ý nghĩ đó mới có thể dụng công tu hành; Nếu không lìa được nó, người tu sẽ biến thành nô lệ của nó và từ sớm đến tối chỉ phục vụ nó mà thôi. Do đó người tu hành chân chánh phải coi nó như một túi da hôi thối, nghĩa là tránh sự coi trọng nó. Coi nó là quan trọng thì sẽ có chướng ngại trên đường tu. Chúng ta phải “mượn cái giả, tu cái thiệt”, tức chỉ coi nó là một phương tiện.

Trong lúc tham, điều tối kỵ là ngủ gục. Có hai loại bệnh mà đa số thiền sinh thường mắc phải, một thứ là trạo cử, một thứ là hôn trầm; nếu như tâm không bị vọng tưởng, thì lại bị cảnh hôn trầm. Bởi vậy khi dụng công phải vận dụng hết tinh thần để tham, tuyệt đối không để cho ngủ gục. Nếu đã vào định rồi thì đó là chuyện khác.

Công phu tham thiền sẽ dẫn tới chánh định chánh thọ, cái đó cũng gọi là tam-muội. Nếu như chứng được thì đây là cảnh giới “như như bất động, liễu liễu thường minh”. Làm sao đạt được? Tất phải một phen khổ công, tinh tấn vượt mực, trong tâm không một vọng tưởng, cho đến lúc “một niệm chẳng sanh, toàn thể hiện”, cuối cùng thấy được “bổn lai diện mục, bổn địa phong quang”.

Chìa khóa của tham thiền là thoại đầu. Niệm trước niệm sau là tham thoại đầu. Tham miết sẽ tự nhiên khai ngộ, tham cho đến lúc “sơn cùng thủy tận”, tự nhiên sẽ có tin vui, cảnh giới “hoa tươi dưới liễu” sẽ xuất hiện trước mắt. Có người nói: “Tôi đã tham dự bao nhiêu lần thiền thất, chẳng biết tại sao tôi không khai ngộ?”. Nguyên do vì bạn chẳng chịu khổ công mà lại cứ mong cầu sự khai ngộ. Nên hiểu rằng khai ngộ là kết quả của sự tích lũy công phu. Lâu dần công đức viên mãn, thời gian tới nơi, tự nhiên bạn được khai ngộ. Bạn không có công phu gì, mà lại muốn khai ngộ thì đó là một vọng tưởng si mê, chẳng khác gì “ếch nhái mà muốn thưởng thức thịt thiên nga”, một chuyện không thể thực hiện được.

 

 

 Tu Ðạo Không Nên Tranh Hơn 

 

Hiện nay trong Thiền Thất, các hành giả dụng công nhưng là loại công phu hời hợt. Người ta coi thiền như là một cuộc đua, để tranh nhau về nhất. Anh có thể ngồi trong ba tiếng đồng hồ thời tôi sẽ ngồi trong năm tiếng, hơn anh một bậc. Nếu thiền mà còn mang tâm lý đó thì quý vị ngộ làm sao được? Cho dù quý vị ngồi tới tám vạn đại kiếp cũng không thể nào minh tâm kiến tánh được. Tại sao vậy? Chỉ vì quý vị có tâm hơn thua. Có câu rằng:

Tranh, do tâm hơn thua
Là đi ngược với Ðạo
Trong tâm sanh bốn tướng
Làm sao đạt tam muội?

Bốn câu kệ trên dùng để cảnh giác người tu không được sanh tâm tranh. Khi công phu đầy đủ, trí huệ hiển bày, tự nhiên sẽ có người khác phẩm bình đưa ta lên hạng nhất. Như vậy mới là hạng nhất thật sự. Còn như trong tâm quý vị tham đứng hạng nhất, thì đây là tâm hơn thua, đi ngược với Ðạo.

Người tu hành phải giống như nước. Tánh của nước là khiêm nhượng, không tranh công, không tham đức, cái gì tốt thì để cho người, cái gì xấu thì giữ lấy cho mình. Lão tử nói: Cái thiện tột cùng giống như nước. Nước đem lợi ích cho vạn vật mà không tranh. Nước ở nơi mà mọi người khinh rẻ, do đó nước hợp với Ðạo”.

Thiện tột cùng chỉ những hành giả ưu hạng. Họ được ví như nước. Nước chảy tới những chỗ thấp, nước đem lại lợi ích cho muôn vật mà không tranh công tranh đức. Bất kể đối với loài nào, chim chóc, cá tôm, động vật hay thực vật, bất kể sanh ra do thai, do trứng, do khí ẩm, hay là hóa sanh, nước đều đối xử ngang nhau và cho đều tất cả. Người tu hành cũng vậy, đối với tất cả chúng sanh đều coi như cha mẹ của mình trong quá khứ, như các vị Phật trong tương lai. Người tu phải rải tâm từ bi, tìm các phương tiện để cứu chúng sanh ra khỏi bể khổ; trú ở những nơi mà chúng sanh không muốn trú. Có được những tư tưởng đó thì hành giả đã gần tới Ðạo. Còn như tâm hơn thua là không hợp với tông chỉ của kẻ tu hành, ngược lại với Ðạo vậy.

Người tu hành không nên có bốn tướng.

– Ai tu đó? Như tự cảm thấy là không có ai tu, tức là không có tướng ngã (vô ngã tướng).

– Tự mình không cảm thấy hơn thua với ai, tức là không có tướng của người (vô nhân tướng).

– Không thấy tướng mình, không thấy tướng người, tự nhiên tướng chúng sanh cũng không (vô chúng sanh tướng).

– Như đã không có tướng chúng sanh thì lấy đâu ra tướng của thọ mạng? Vậy là vô thọ giả tướng.

Như nếu còn tư tưởng muốn tranh hơn kém, tất nhiên sẽ có bốn tướng; có bốn tướng thì không sao đạt được tam-muội. Nghĩa lý đó chúng ta phải thực tập, mài dũa cho nhiều. Tóm lại, ai còn bốn tướng là phàm phu, ai không có bốn tướng là Bồ-tát.

Người tu phải ghi nhớ bốn câu kệ trong Kinh Kim Cang:

Hết thảy các pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, hình
Như sương, như điện chớp
Nên quán chúng như vậy.

Phàm cái gì có hình có tướng đều là pháp hữu vi. Pháp hữu vi cũng giống như một giấc mộng, một thứ huyễn hóa, một cái bọt nước, một cái bóng hình, một tia điện chớp, toàn là những thứ hư vọng không có thực chất. Hết thảy mọi thứ đều phải quán như vậy, mới có thể hiểu minh bạch lẽ chân thật, để chúng ta không chấp trước, không bị vọng tưởng quấy nhiễu.

Kinh Kim Cang còn nói: “Tâm quá khứ chẳng có được, tâm hiện tại chẳng có được, tâm vị lai chẳng có được”. Tại sao tâm quá khứ chẳng có được (bất khả đắc)? Bởi quá khứ đã qua rồi, quan tâm tới nó làm gì nữa? Tâm hiện tại cũng chẳng có được, bởi cớ gì? Bởi trong hiện tại các niệm nối tiếp không ngừng. Quý vị bảo đây là hiện tại, nhưng khi nói xong thì cái hiện tại đó cũng qua rồi, thời gian chẳng chịu ngưng lại. Tại sao tâm vị lai chẳng có được? Bởi vị lai là chưa có tới. Cho nên quá khứ, hiện tại, vị lai, ba tâm này chẳng có được. Nếu quý vị theo đúng Pháp mà Phật chỉ dạy để tu hành thì ngay đó có thể đạt được cảnh giới Niết-bàn.

Người tu Ðạo phải y theo chánh tri chánh kiến, coi đó là mẫu mực để tinh tấn thực tập. Lúc tu là lúc “lìa tướng ngôn thuyết”, bởi không còn gì để nói ra nữa; cũng là lúc “lìa tướng tâm duyên”, vì không còn duyên nào để tâm theo đuổi; “lìa tướng văn tự”, vì không còn chữ nghĩa gì để tả ra. Nếu đã không nói được ra, thì có gì để ghi nhớ? Còn cái gì mà chúng ta không buông bỏ được? Còn gì nữa để chúng ta quan tâm? Quý vị! Hãy dụng công ngay tại chỗ đó, thay vì dụng công hời hợt ở cái vỏ ngoài!

Có người nghĩ rằng: “Hôm nay tham thiền, chân mình không bị đau, lưng không bị mỏi, đến giờ khai tịnh mà cũng không hay”. Nói như vậy tức là người đó đã ngủ quên, tất nhiên chẳng còn hay biết gì hết. Ðừng ngộ nhận cảnh giới đó, kẻo lại bị tẩu hỏa nhập ma!

Quý vị nên chú ý! Khi tham thiền gặp cảnh lạ, quý vị cũng đừng quan tâm, đừng chú ý, cứ để tự nhiên, đừng cho cảnh lạ lay chuyển. Kinh Lăng Nghgiêm giảng về điểm này rất rõ. Mong các hành giả tìm nghiên cứu phần “Ngũ Thập Ấm Ma” cho tường tận. Kinh Lăng Nghiêm là một tấm gương quý báu cho người tham thiền, do đó tất cả những ai tu phải nghiền ngẫm bộ Kinh đó.

 

 

Mục Ðích Của Người Tu Hành Là Thành Phật 

Vì lẽ gì mà tu hành? Tu hành để thành Phật. Thành Phật bằng cách nào? Bước đầu là “chẳng làm điều ác, nguyện làm các việc thiện”. Bước kế tiếp là “chuyên cần tu Giới Ðịnh Huệ, dập tắt tham sân si”. Tiến lên bước nữa “phát tâm Bồ đề, hành đạo Bồ-tát” . Vì các lẽ ấy, khi chưa thành Phật, người tu phải chọn con đường sáng sủa quang đãng mà đi. Chớ nên mưu đồ quanh co, tìm con đường tắt gập ghềnh, mà bị lạc hướng. Xin hãy lưu ý! Hãy cẩn thận!

Người tu hành chân chánh cứ y theo pháp mà tu tập, không ngại khổ, không sợ khó, mạnh dạn dấn thân, tới thẳng Phật quả. Có câu nói như sau:

Mài chầy thép thành kim khâu
Công đức vẹn tự nhiên thành

Dụng công cho đến chỗ tận cùng, tự nhiên Phật quả thành tựu. Còn như tự khoe mình tài giỏi, có công đức thì chẳng bao giờ thành Phật được.

Khi nào Ngũ nhãn khai mở, quý vị sẽ thấy chư Phật mười phương tu hành như thế nào mà thành Phật quả; quý vị có thể thấy chư Bồ-tát mười phương tu hành cách nào mà được quả Bồ-tát; quý vị có thể thấy mười phương A-la-hán đã dụng công ra sao để tới quả A-la-hán. Trong một thoáng, quý vị nhận được ngay các cảnh giới đó.

Người có thần thông Ngũ nhãn chỉ cần thời gian một niệm là đã thông đạt rõ ràng tất cả lời Phật dạy ghi trong Tam Tạng Giáo Ðiển, cũng như thấu hết Thực tướng các pháp.

Trong lời nguyện tam quy có những câu:

– Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại Ðạo, phát vô thượng tâm.
– Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như hải.
– Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.

Nếu như có thể “thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như hải”, thì lúc đó không chỗ nào là không thông, không chỗ nào không rõ, không chỗ nào không biết, không chỗ nào không thấy, đó là lúc khai ngộ triệt để. Chớ giữ cái nhỏ, để mất cái lớn; chớ tham những cảnh giới nhỏ nhoi làm che mờ trí huệ Ðại Viên Kính. Theo lối đó là không thể thâm nhập Kinh tạng, không thể có trí huệ như hải.

Người có đại trí huệ thì tuyệt đối không tham những cảnh giới nhỏ, bởi những ai ham những cảnh đó tức họ không biết phân biệt chân giả. Họ lẫn lộn vàng thau, coi thau là vàng ròng, thậm chí pha lê cũng giống như loài đá vậy. Tại sao vậy? Họ không phân biệt được đâu là thiệt, đâu là giả.

Người tu Ðạo phải có chánh tri chánh kiến, không đảo lộn phải trái và đen trắng phải phân minh, chớ không thể lấy mắt cá làm hạt châu, chẳng thể nhập nhằng che mắt người khác Nếu không vậy là có tà tri tà kiến, muôn đời không thành Phật.

Như thế nào là chánh tri chánh kiến? Nói một cách đơn giản, chúng ta phải gạt ba cái độc là tham sân si, giữ cho thân tâm thanh tịnh, trí huệ sẽ hiển bày và chiếu sáng, khiến cho sự đen tối của vô minh tan biến, phiền não được diệt trừ. Tới được cảnh giới này thì chứng quả, mong quý vị hướng tới mục tiêu đó tinh tấn tu hành. 

 

 

Hãy Chấm Dứt Vọng Tưởng! 

 

Quý vị ngồi trong Thiền đường, trông bề ngoài có vẻ như đương tham thiền nhưng bên trong chính là đương đuổi theo vọng tưởng. Các vọng tưởng này dẫn chúng ta lúc thì lên trời, lúc xuống đất, lúc làm quỷ đói, lúc làm súc sanh. Những loại đó đều sanh ra từ gốc trong tham sân si. Bảo rằng siêng năng tu giới định huệ, nhưng kỳ thực không tu giới định huệ; nói là diệt tham sân si, nhưng kỳ thực không diệt tham sân si. Kỳ quặc như vậy đó! Chẳng cứ riêng đời này mới như vậy, mà đời đời kiếp kiếp mình theo lối đó, cho nên mới có chuyện đi lên đi xuống, quẩn quanh trong sáu nẻo luân hồi, không bao giờ ngừng lại. Làm kiếp con chó, cảm thấy mình là nhất; làm kiếp con mèo, cũng cảm thấy mình là nhất; nói tóm lại bất luận trong kiếp chúng sanh nào cũng tự coi mình là hạng nhất. Tại sao vậy? Tại có chấp trước bởi vô minh. Nếu như thực lòng tu Ðạo, cố gắng tham thiền thì mới có thể giải thoát khỏi cảnh luân hồi và chứng được Niết-bàn an lạc.

Có một số tu hành thiếu nghiêm túc đã để cho thời gian trôi qua uổng phí. Thấy mọi người ngồi, mình cũng ngồi; mọi người đi ta cũng đi; ai làm sao thì mình làm vậy. Những người đó đem vấn đề sanh tử của chính mình ném lên tận chín tầng mây xanh, không coi nó là quan trọng tí nào, nên không quyết tâm tu, không chịu dập tắt vọng tưởng. Họ ngồi ở đấy, nhưng đầu óc thì hết tâm tưởng này đến tâm tưởng khác, một ngày có đến tám vạn bốn ngàn vọng tưởng mà còn thấy chưa đủ. Vọng tưởng! Lại vọng tưởng! Vọng tưởng làm cho tâm nhiễu loạn tơi bời, thần hồn điên đảo, quả thật đáng xót thương!

Vậy thì làm sao cho hết vọng tưởng? Hãy tham thoại đầu, không có cách gì khác. Tuy thoại đầu cũng là vọng tưởng, nhưng nó có tác dụng làm cho tinh thần của quý vị tập trung lại, không cho tâm đi ra ngoài rong ruổi. Ðây chính là cách lấy độc trị độc, dùng một vọng tưởng để khống chế các vọng tưởng khác, lấy một vọng tưởng làm đề mục để tham, tham đi tham lại, nên không còn vọng tưởng khác. Khi hành giả tới được trình độ không còn vọng tưởng nữa đó chính là thời cơ khai ngộ. Khi đó, một lời, một cử chỉ, một hành động cũng có thể mở cho quý vị cánh cửa khai ngộ.

 

 

Nhập Ðịnh Không Phải Là Ngủ

 

Có người hỏi tôi: ” Nhập định và ngủ khác nhau ở chỗ nào?” Nói sơ qua thì khi nhập định, hành giả ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, hô hấp có thể ngừng, mạch có khi không đập, trông bề ngoài như là người chết, nhưng tri giác thì vẫn có đủ. Nhập định thì ngồi yên không động, có khi trong một ngày, hay mười ngày, cho đến cả tháng. Còn như nếu là người ngủ, thì thân xiêu vẹo. đầu nghiêng ngả, hơi thở ra vào phì phò, có khi còn phát ra tiếng ngáy như sấm. Ðó là chỗ khác nhau.

Thực tập thiền cũng ví như người đi học, từ tiểu học, qua trung học, đại học, rồi tới giai đoạn nghiên cứu, sau mới được cấp bằng Tiến sĩ. Pháp môn tham thiền cũng giống như vậy, chia là bốn nấc, gọi là tứ thiền. Xin giảng sơ lược như sau:

Sơ thiền, còn gọi là “Ly sanh hỷ lạc địa”. Ðây là trạng thái đưa hành giả lìa hẳn cảnh giới chúng sanh, nên đạt được một trạng thái khoái lạc. Khoái lạc này không giống khoái lạc của phàm phu, bởi nó là công phu do tự tánh mang lại. Khi nhập sơ thiền, hơi thở ngưng lại. Ðây là nói ngoại hô hấp đình chỉ, nhưng nộihô hấp bất đầu hoạt động, giống như hiện tượng đông miên của các loài vật. Khi ấy, tâm thì trong suốt như nước, sáng như gương, soi chiếu tới bổn thể của tự tánh, nhưng vẫn hay biết là mình đương ngồi thiền.

Nhị thiền, gọi là “Ðịnh sanh hỷ lạc địa”. Vào trong định này, hành giả kinh nghiệm một thứ khoái lạc không gì sánh được, chính là “thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn”, bởi trong cảnh giới này hành giả thấy khoái lạc quên luôn cả đói, có thể nhịn ăn, nhịn uống trong nhiều ngày mà không có vấn đề gì. Tuy nhiên, chớ chấp trước vào thành tựu đó. Như quả có ý như vậy, công trình có thể tiêu tan, dễ đi vào cảnh giới ma, nên chúng ta phải cẩn thận. Trong định này, không những hô hấp đình chỉ mà mạch cũng ngưng đập. Khi nào ra khỏi định, cơ thể lại trở lại hoạt động bình thường.

Tam thiền gọi là “Ly hỷ diệu lạc địa”. Hành giả lìa sự hoan hỷ trong nhị thiền, đạt tới một thứ khoái lạc kỳ diệu không thể nói ra được, đồng thời cảm thấy hết thảy mọi thứ đều là Phật Pháp, mọi thứ đều là khoái lạc. Trong cảnh giới tam thiền, cả hô hấp và mạch đều đình chỉ, ý niệm cũng dừng lại. Khi ấy, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chẳng nghĩ phải, chẳng nghĩ quấy, một niệm cũng chẳng sanh. Tuy nhiên, hành giả cũng đừng tự hào, vì đó chỉ là một chặng trên đường tu mà thôi. Ðến được chỗ liễu thoát sanh tử hãy còn xa lắm, còn cách cả tám vạn bốn ngàn dặm đường nữa.

Tứ thiền gọi là “Xả niệm thanh tịnh địa”. Trong cảnh giới này, ngay cả niệm khoái lạc cũng không còn, tất cả đều bị xả bỏ và hành giả đạt tới một trạng thái thanh tịnh, không còn gì phải tạo tác. Ðây cũng gọi là cảnh giới “vô vi vô sở bất vi.” Giai đoạn tứ thiền cũng chỉ là một chặng trên đường dụng công tham thiền, đừng nhận lầm tự cho mình đã chứng quả, kẻo có thể phạm vào lỗi lầm của Tỳ kheo Vô Văn, mà đọa địa ngục.

Tứ thiền vẫn còn trong phạm vi phàm phu. Phải tinh tấn dấn bước nữa, tới cảnh giới “ngũ bất hoàn thiên” mới gọi là chứng quả thánh. Vậy mà tới đây vẫn chưa giải quyết xong vấn đề sanh tử bởi chưa vượt khỏi vòng Tam giới. Ðiểm này phải nhận cho rõ, không thể mơ hồ được.

 

 

Phải Thực Tập Bát Nhã Ba La Mật Ða

 

“Bồ-tát Quán Tự Tại, khi thực hành pháp thâm sâu Bát Nhã Ba La mật Ða, soi thấy năm uẩn là không, vượt hết mọi khổ ách.”

Bốn câu trên chính là tinh yếu của Tâm Kinh. Nay lược giảng như sau:

Quán Tự Tại nghĩa là hồi quang phản chiếu, tự quán sát mình tự tại hay không tự tại? Nói khác là có ở đây hay là không ở đây? Nếu như tự tại, có ở đây, tức tâm không chạy đi đâu để rong ruổi, không đuổi theo các thứ duyên. Nếu như không tự tại, không ở đây, tức tâm tán loạn, vọng tưởng rối bời, nếu quá đáng có thể đưa tới tình trạng khủng hoảng thần kinh, tâm lúc nào cũng tìm cơ hội, mong mọi người đến cúng dường. Nếu có những vọng tưởng như vậy quý vị sẽ không tự tại.

Còn như “Bồ-tát” thì mọi hành vi đều hướng tới lợi ích của chúng sanh, coi đó là mục tiêu duy nhất, tuyệt đối chẳng vì lợi ích của chính mình. Ý hướng của kẻ phàm phu chúng ta thì ngược hẳn lại, tất cả đều nghĩ tới lợi ích của chính ta, mà không phải vì lợi ích cho người. Bất cứ làm một công chuyện gì, trước tiên phải tính thử xem có lợi cho mình hay không và khi thấy có lợi mới hành động. Ðó chính là sự biểu hiện của lòng ích kỷ tự lợi. Bởi đâu mà thế giới chẳng được hòa bình? Chính vì nguyên do đó. Quý vị tranh thì tôi đoạt lại, không có sự tương nhượng lẫn nhau, từ đó mới có chiến tranh, gây nên những cảnh nước mất nhà tan.

Vị Bồ-tát này “thực hành pháp thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Ða”, từ thời vô thủy đến nay, đời đời kiếp kiếp đều thực tập pháp thâm sâu này, không có lúc nào gián đoạn. Tu pháp Bát Nhã thâm sâu, tức là:

  1. Không có tâm kiêu ngạo, bởi kiêu ngạo là ngu si.
  2. Không có tâm tự mãn, bởi tự mãn là ngu si.
  3. Thường có tâm hổ thẹn (tàm quý); không có tâm hổ thẹn, tức là ngu si.
  4. Không sanh tâm đuổi theo các duyên (tâm phan duyên), bởi nếu để tâm rong ruổi theo duyên, tức là ngu si.
  5. Không sanh tâm sân hận, bởi có sân hận là ngu si.
  6. Không sanh tâm điên đảo, bởi tâm điên đảo là tâm ngu si.

Chúng ta là những người tu hành phải coi sáu loại tâm đó như là những tiêu chuẩn, hầu có thể xét đoán những hành động của chúng ta có đúng với pháp hay không? Nếu đúng thì hành động của ta là trí huệ, nếu sai thì là ngu si. Cũng có thể nói rằng siêng năng tu giới định huệ, dập tắt tham sân si tức là trí huệ; không tu giới định huệ, không diệt tham sân si là ngu si. Trí huệ và ngu si khác nhau là ở những điểm đó.

Phải thực hành pháp Bát Nhã thâm sâu, mới có thể soi thấu năm mươi loại cảnh giới ấm ma trong năm uẩn. Trong sắc uẩn có mười loại ấm ma, trong thọ uẩn có mười loại, trong tưởng uẩn có mười loại, trong tưởng uẩn có mười loại, trong hành uẩn có mười loại, trong thức uẩn cũng có mười loại, cộng tất cả có năm mươi loại ấm ma. Tách ra từng phần thì còn có vô số vô lượng, nếu người tu không cẩn thận sẽ dễ dàng đi vào cảnh giới ma. Nói chung, hễ có tà tri tà kiến là thuộc về họ của ma, nếu là chánh tri chánh kiến thì thuộc về họ của Phật.

Khi thực hành pháp thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Ða thì sẽ nhận ra được minh bạch cảnh giới ma, không còn bị ma lay chuyển. Tới lúc đó, ngoài khả năng soi thấu năm uẩn là không mà ta còn vượt được hết mọi khổ ách. Năm uẩn là không, có nghĩa là Chân Không. Có câu nói:

Chân Không vô nhân ngã
Ðại Ðạo vô hình tướng.

Dịch là:

Chân không, không người không ta
Ðạo lớn, không hình không tướng.

“Hết mọi khổ ách” tức là nói các khổ trong ba thứ tai, tám thứ nạn (tam tai bát nạn).

Nếu như theo đúng pháp trong bốn câu Kinh nói trên để tu tập, tu cho đến rốt ráo thì hành giả đã đạt tới trình độ chế ngự được bát phong. Thế nào là bát phong? Ðó là tám món gồm khen, chê, khổ, vui, lợi, suy, phỉ báng và vinh dự. Những thứ này coi như tám ngọn gió có thể làm lay chuyển và quay cuồng những ai không đủ định lực. Nay giảng sơ qua như sau:

Khen: Khen hay xưng tán. Nếu có người xưng tán mình một câu, mình nhận được một cảm giác rất ngọt ngào, còn hơn là mật nữa và mình thấy thoải mái.

Chê: Chê là chê bai. Như có người chê bai mình, mình không thích, trong lòng không thoải mái.

Khổ: Ðây là khổ não. Gặp chuyện gì phiền hà mình cảm thấy khổ sở. Khi gặp phiền não, mình hãy thử xem ta chịu được không?

Vui: Vui hay khoái lạc. Gặp điều vui sướng không nên lấy làm đắc ý. Mọi điều khoái lạc đến thì chúng ta hãy coi đó là một sự khảo nghiệm, để thử xem tâm ý của mình ra sao.

Lợi: Ðây là lợi ích. Ðược lợi ích mình cảm thấy vui, bị thiệt hại mình cảm thấy buồn, đó là sự biểu hiện của sự yếu kém định lực.

Suy: Suy nghĩa là suy bại. Gặp bất cứ sự gian nan đến đâu, chúng ta không nao núng, có thất bại cũng không động tâm.

Phỉ báng; Ví dụ có người nói xấu mình, mình không quan ngại! Mình coi chuyện đó như không có gì, tự nhiên sóng gió sẽ hết.

Vinh dự: Như có người xưng tán mình, vinh danh mình, mình cũng không nên cảm động. Chỉ nên coi các thứ công danh như phù vân.

Tám loại gió này chính là một pháp môn dùng để khảo nghiệm tâm của người tu. Gặp thuận cảnh hay nghịch cảnh tâm đều không động. Nếu động tức là tu trì chưa đúng, định lực yếu kém; nếu không động thì người tu đã có công phu. Tuy nhiên, không nên tự mãn, như đại khái tự khoe rằng: “Bát phong thì cũng chẳng lay động ta, định lực của ta kiên cố ví như kim cương “. Thái độ này là sai rồi.

Thuở xưa, vào đời nhà Tống có vị cư sĩ là Tô Ðông Pha, đã từng nghiên cứu ít nhiều về Phật Pháp. nhưng công phu thiền định thì còn yếu kém. Tuy nhiên, ông cho rằng định lực của ông cũng đã khá. Có một hôm, nhân nguồn cảm hứng dạt dào, ông làm bốn câu kệ sau:

Khể thủ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong xuy bất động
Ðoan tọa tử kim liên.

Tạm dịch:

Khấu đầu lạy chư thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Tám gió lay chẳng động
Sen vàng ngồi ngay ngắn.

 

Lúc đó ông tự nghĩ rằng mình đã khai ngộ, nên muốn có sự ấn chứng của Thiền sư Phật Ấn. Ông sai người qua sông mang bài kệ tới chùa Kim Sơn.

Thiền sư xem qua liền đề bốn chữ: “Ðánh giắm! Ðánh giắm!”, ngay trên tờ giấy có bài kệ, rồi đưa cho thị giả mang về. Tô Ðông Pha xem xong, lửa vô minh bốc cao lên ngùn ngụt. Ông giận dữ: “Sao lại có chuyện này? Ðây là bài khai ngộ! Bảo là đánh giắm là nghĩa gì?” Nói rồi, ông đi qua sông kiếm Thiền sư Phật Ấn để chất vấn.

Chẳng dè khi đến cổng chùa, Thiền sư Phật Ấn đã đứng chờ sẵn, thấy ông đi tới thì cười lớn: “Ồ! Xin chào mừng Ðại Học Sĩ họ Tô, bát phong không lay chuyển, nhưng lại bị cái giắm đẩy qua sông tới đây! Xin chào mừng!” ( Hai ông chính là bạn thân, thường vui đùa với nhau). Tô Ðông Pha đương lúc cơn giận tràn hông, sắp sửa bùng ra, nghe Thiền sư nói mấy câu, xét lại thấy có lý, bèn nhìn nhận công phu mình còn non nớt, nên hướng tới Thiền sư lễ tạ. Kể từ đó ông bỏ thói “khẩu đầu thiền”.

Thiền là thực hành, chẳng phải nói suông. Chỉ nói mà không làm được, điều đó vô nghĩa.

 

 

Người Tu Hành Không Ðược Nói Dối

 

Tại Thiền đường, chúng ta phải tuân theo quy củ của Thiền đường, không thể lập dị để hành động theo ý riêng của mình. Phải nhớ rằng Thiền đường là nơi đào tạo thánh nhân, nên không thể phá hoại Ðạo tràng, làm mất cơ hội khai ngộ của người khác. Về điểm này những người tham dự thiền thất phải đặc biệt chú ý, phải giữ giới luật một cách nghiêm cẩn, chớ không thể coi nhẹ.

Dự thiền thất cũng là một cơ duyên khó gặp, ngàn vạn lần không thể bỏ phí. Nay chúng ta đến đây tham thiền cùng với nhau, đó là do những căn lành từ các kiếp trước tạo nên, mới dẫn đến cơ duyên của ngày hôm nay. Người dụng công tu Ðạo, gặp được cơ may này phải nắm vững thời cơ khai ngộ, không để lãng phí thời gian, dù một giây một phút. Chẳng nên do nhất thời vui thú mà tìm cách an thân trong sự lười biếng, bởi như vậy sẽ uổng mất cơ hội được khai ngộ và còn có thể bị đọa vào ba đường ác. Lúc ấy có hối cũng không kịp. Vì lẽ đó tôi có hai câu như sau:

Mạc đãi khổ thời phương học Ðạo
Tam đồ đô thị lãn nọa nhân

Hai câu này có nghĩa là đừng chờ tới khi gặp cảnh khổ mới tìm đường học Ðạo. Chúng sanh trong ba ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) đều là kẻ lười biếng.

Như vậy, thiền giả phải dụng công từng giờ từng khắc, lúc nào cũng tinh tấn. Thoại đầu phải luôn luôn ở trong tâm, đi cũng tham, ngồi cũng tham, tham tới tham lui, tham cho thật thấu đáo thì bổn lai diện mục sẽ hiển bày. Tại sao? Bởi thoại đầu có thể phá vọng tưởng. Phải tham cho tới trạng thái ở trên thì không biết có trời, dưới không biết có đất, giữa không biết có người, như vậy thì còn lúc nào có vọng tưởng nữa? Phải nên hiểu rằng vọng tưởng chính là vọng ngữ, tức là chúng ta không giữ năm giới căn bản, vì tranh đua nên ta nói dối, vì tham nên nói dối, vì cầu nên nói dối, vì ích kỷ nên nói dối, vì tự lợi nên nói dối. Nói dối để lừa bịp người, làm việc lỗi lầm mà không tự nhận, còn tìm lời biện bác cho mình, nếu có tư tưởng và hành vi như vậy, làm sao có thể tu Ðạo được?

Tại sao chúng ta dụng công mà không thấy tiến bộ? Chính vì chúng ta đã dối trá quá nhiều. Một câu dối trá phát sanh ra cả trăm thứ vọng tưởng. Khi ấy, ngồi nhưng ngồi không yên chỗ, đứng mà đứng không ổn, đó là bệnh trạo cử, không biết cư xử ra sao, tiến hay thoái? Cái nào là đúng? Cái nào là sai? Không sao tìm thấy an ổn, cái đó hoàn toàn nghịch với Pháp.

Kẻ tu hành chân chánh, ở đâu cũng theo đúng quy củ, lúc nào cũng tinh tấn, tuyệt đối không nói lời dối trá, không phải bạ thứ gì theo thứ đó. Mong rằng chúng ta không bắt chước những người dối trá, cũng không theo gót những ai không tuân thủ phép tắc, bởi theo họ không những chẳng có lợi ích gì mà còn có hại nữa. Ðiều này chúng ta nên cẩn thận, nên chú ý, kẻo có thể bị truyền nhiễm rồi mang họa lớn.

Người tu hành chân chánh không sợ khổ, không ngại khó, từng giờ từng phút nghiêm cẩn tu hành, không để cho ngoại cảnh lay chuyển.

Hãy Tham! Tham! Tham! Tham cho đến nước cạn đá hiện, thấy rõ bản mặt gốc gác.

 

 

Người Tu Hành Phải Chịu Khổ 

 

Có câu nói rằng: “Chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì tiêu phước”. Chúng ta tu Ðạo phải tu khổ hạnh là vì lẽ gì? Mỗi ngày chúng ta chỉ ăn một bữa vì chúng ta muốn hết khổ. Khổ mà hết thì sẽ có vui.

Nói về phước thì có loại nên hưởng và có loại không nên hưởng. Phước nên hưởng là phước do tay ta tạo tác ra, như có nhà đẹp, mặc quần áo đẹp, ăn thứ ngon, đi xe hơi tốt. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhớ rằng sau khi hưởng thọ hết những thứ đó thì phước cũng tiêu luôn, và trong trương mục của ngân hàng phước báo thì ngạch số tồn khoản cũng không còn.

Loại phước không nên hưởng là loại không do chính ta tạo dựng. Chúng đến với ta do mánh lới, như tiền của trộm cắp của người khác chẳng hạn. Chúng ta tiêu xài thứ đó một cách trái phép, tất sẽ bị pháp luật trừng trị. Vậy là ta đã thiếu nợ vì rút tiền quá lạm tại trương mục của ngân hàng phước báo.

Thọ hưởng phước thì khi hưởng hết, phước sẽ không còn, huống chi lại cố tình hưởng những loại phước không nên hưởng. Như vậy, không những tiêu mất phước mà lại còn bị vỡ nợ. Vì lẽ đó mà phước chẳng thể hưởng hết, hưởng hết thì hết phước; khổ có thể chịu hết, chịu hết thì hết khổ. Làm người phải ghi nhớ điều này. Gặp hoàn cảnh gian nan khốn khổ, ta vui lòng tiếp nhận nghịch cảnh. Vậy là không có sự oán hận, ta không mang tâm bất mãn.

Ðối với kẻ đã từng nghiên cứu Phật Pháp, tư tưởng và hành động của họ khác với người thế tục. Một đàng thì thuận theo giòng sanh tử và tạo nghiệp, còn người tu hành thì đi ngược giòng sanh tử và làm tiêu nghiệp. Trong mọi cảnh ngộ, những người này vẫn giữ tâm an nhiên, nên không cảm thấy khổ. Có câu nói: “Có nếm được cái khổ cùng cực, mới thành bậc thượng nhân”. Thật là một câu chí lý.

Nay tôi kể một công án để quý vị tham khảo. Vị vua cuối cùng đời nhà Minh là vua Sùng Trinh. Là một vị quân vương, ông có đủ trí huệ, nhưng phước báo dành cho ngôi vị này lại không có. Bởi cớ gì? Bởi lý do gặp khổ nạn mà không lãnh thọ cho đến khi hết khổ. Nguyên kiếp trước ông là một Sa-di, nhưng lại chết trước khi thọ giới Cụ túc, thành thử thân phận ông vẫn là tiểu Sa-di. Trong thời gian làm Sa-di, ông phải nhận hết những công việc nặng nhọc như gánh nước, bổ củi. Ông ráng chịu đựng, nén sự oán giận và ngày ngày khổ công trong công tác hộ trì Ðạo tràng. Một hôm, ông leo lên nóc nhà để sửa mái, nhưng chẳng may trật chân rớt xuống đất chết. Các bạn tu vội báo cho Phương trượng hay. Hòa Thượng viện chủ vốn biết rõ nghiệp quả của vị tiểu Sa-di này, muốn tìm cách giúp cho đệ tử lãnh thọ cho hết khổ nạn, nên đối trước các chúng tuyên bố rằng: “Tiểu Sa-di này làm việc thiếu cẩn thận, sẩy chân ngã chết, làm thiệt hại cho Ðạo tràng. Y đã phạm vào tội xâm tổn thường trú, đáng bị trừng phạt. Các ngươi hãy buộc thi thể của nó vào đoàn ngựa, bắt ngựa kéo đi cho đến khi tan xác. Khỏi cần phải dùng quan tài mai táng nữa”. Các bạn tu nghe Phương trượng nói xong, thấy không đang tâm, nghĩ tới tình bạn tu mà động lòng trắc ẩn. Họ không nghe lệnh của Phương trượng rồi bàn bạc với nhau: “Chúng ta là sư huynh sư đệ, cùng tu chung một Ðạo tràng, lý nào để cho y bị ngựa kéo thây như vậy, chúng ta phải chôn cất mới phải”. Bàn xong, tất cả chung tiền mua quan tài, rồi đem chôn xác trong núi.

Bởi đã khổ công làm việc chùa, tiểu Sa-di đã từng tích lũy công đức, nên kiếp sau được làm vua, tức vua Sùng Trinh. Có điều, ông chỉ tại vị trong thời gian 16 năm, lại gặp lúc thiên hạ đại loạn, trong nước thì Lý Tự Thành làm phản, bên ngoài thì nhà Thanh mang quân xâm lấn. Trong bao năm, ông chưa từng được hưởng một ngày an ổn, liên miên bị bức bách ưu phiền. Chính vì lòng tốt của các vị sư huynh sư đệ của ông đã làm hại ông, không để cho ông thọ lãnh cho hết khổ nạn. Nếu như các bạn đó sớm nghe lời Phương trượng, dùng ngựa kéo thây thì nạn khổ của ông đã hết và ngày sau đâu còn xẩy ra cảnh Sùng Trinh tự ải ở Môi Sơn, vì nước mà tử vong.

 

 

Trừ Vọng Tâm, Giữ Chân Tâm

 

Kinh Hoa Nghiêm có câu:

 

Ai muốn hiểu biết tận cùng
Hết thảy ba đời chư Phật.
Phải quán tánh của Pháp giới
Hết thảy là do tâm tạo.
(Nhược nhân dục liễu tri,
Tam thế nhất thiết Phật,
Ưng quán Pháp giới tánh,
Nhất thiết duy tâm tạo).

Quý vị hành động với tâm Phật thì quý vị là Phật; hành động với tâm Bồ-tát, quý vị là Bồ-tát; hành động với tâm Duyên giác, quý vị là Duyên giác; hành động với tâm Thanh Văn, quý vị là Thanh Văn; hành động với tâm Trời quý vị là Trời; hành động với tâm người, quý vị là người; hành động với tâm A-tu-la, quý vị là A-tu-la; hành động với tâm súc sanh, quý vị là súc sanh; hành động với tâm ngạ quỷ, quý vị là ngạ quỷ; hành động với tâm địa ngục, quý vị là quỷ địa ngục.

Bởi vậy có câu: “Mười pháp giới chẳng lìa khỏi một niệm hiện tiền của tâm”. Như vậy mới biết rằng hết thảy mọi thứ đều do tâm tạo. Có bài kệ nói về tâm đầy ý nghĩa như sau:

Tam điểm như tinh bố
Loan câu tự nguyệt nha
Phi mao tòng tư khởi
Tác Phật dã do tha.

Tạm dịch:

Ba chấm như chòm sao
Móc cong như hình trăng mới
Mang lông từ đây ra
Thành Phật cũng do đấy.

 

Cứ suy nghĩ kỹ, bài kệ thật chí lý.

Người ta ở đời phải giữ lấy Chánh tâm, đừng có mang tà tâm. Thế nào gọi là Chánh tâm? Ðó là tâm Bồ-đề, tâm bình đẳng, tâm từ bi, tâm thương xót, tâm bố thí, tâm hổ thẹn. Thế nào là tà tâm? Ðó là những tâm ích kỷ, tự lợi, đố kỵ, oán hận, kiêu ngạo, vọng tưởng. Chúng ta tu hành phải nhằm mục tiêu trừ khử vọng tâm và giữ lấy Chân tâm, đó cũng là nghĩa trừ tà tâm sanh Chánh tâm.

Nếu mỗi hành động của chúng ta có chánh niệm, tức đó là chánh tri chánh kiến; nếu có tà niệm thì thành tà tri tà kiến. Người có tà niệm thấy điều trái coi là phải, thấy điều phải coi là trái, lấy trắng làm đen, lấy đen làm trắng, có nghĩa là điên đảo thị phi, đen trắng không phân biệt. Bất cứ hành động nào y cũng tự cho là đúng, nhưng kết quả lại gây nên tội, xuống địa ngục vẫn không hiểu tại sao. Bởi sự thể đó mà chư Phật đã khổ tâm khuyên bảo, đã không ngại khó nhọc đinh ninh dặn dò: “Chớ đi lầm đường! Chớ đi vào chỗ bế tắc!” Ðây cũng là lời nhắc những ai tu như chúng ta là không được tạo nghiệp ác tại chốn Ðạo tràng. Có câu nói như sau:

Chớ vì điều lành nhỏ mà không làm
Chớ vì điều ác nhỏ mà tạo tác.

Chúng ta phải từng giờ từng khắc cảnh giác, tự xét mình, nơm nớp e dè như đứng bên bờ vực sâu, như dẫm chân trên băng mỏng, để từ từ cởi bỏ những thói hư, tự cải thiện những hạnh xấu, những tập khí ranh ma, những lối tinh khôn quỷ quái. Phải tự xét mình mọi thứ cho minh bạch, chớ không phải sống qua ngày một cách hồ đồ, như kẻ mù dẫn người mù, dối trá lẫn nhau, khiến cho thế giới càng ngày càng lâm cảnh nguy cơ, dẫn tới ngày mạt thế để tất cả đi đến chỗ diệt vong.

Những ai có chánh niệm thì có thể dẫn dắt nhân loại đi trên con đường chánh đại quang minh. Ai ai cũng một lòng, cùng giúp đỡ nhau, quý vị giúp tôi, tôi giúp quý vị, tất cả đều có tinh thần tương trợ. Có câu: “Giúp người là nguồn khoái lạc” hoặc có câu: “làm điều lành thì vui sướng nhất”. Quý vị phát tâm làm điều lành thì sự vui sướng không bút nào tả hết, chỉ những ai đã làm việc lành mới biết được hết ý vị của nó. Quý vị thử nếm mùi làm việc thiện coi nó như thế nào? Cái lạc thú đó thật là kỳ diệu. Chúng ta phải tránh bằng mọi giá những con đường quanh co, không những khiến ta sẩy chân, mà còn đưa những người khác lâm vào nơi bế tắc. Bởi những lẽ đó, tâm của ta phải chánh đại quang minh mới có thể chiếu soi và phá hết hắc ám.

 

 

Khi Mê Thầy Ðộ, Khi Ngộ Tự Ðộ 

 

Bây giờ là thời gian của thiền thất (ngày 15 tháng 12 năm 1977), Quý vị hãy đề khởi thoại đầu lên để tham, để dụng công trong từng giờ từng khắc. Người tu hành phải tự mình tu, không ỷ lại vào người khác, càng không thể ỷ lại vào thầy của mình. Tại thiền thất chúng ta tu chớ không phải thầy của ta tu, điểm này phải nhận cho rõ. Có người nghĩ rằng: “Thời gian Thầy ở Vạn Phật Thánh Thành thì ta dụng công tu; Thầy đi vắng thì ta khỏi cần tu tinh tấn nữa”. Nghĩ như vậy là không thể được. Bất luận thầy có mặt ở Vạn Phật Thánh Thành hay không, chúng ta vẫn cố gắng tu hành tinh tấn, trước sau phải tu rốr áo, thì mới có cơ thành tựu. nếu chẳng phải vậy thì quý vị chỉ là tu bên ngoài, tự dối mình và dối người, vĩnh viễn không thể nào giải thoát được.

Tham thoại đầu là tham câu “niệm Phật là ai?”, tự hỏi ai đương niệm Phật? Nếu nói: “Tôi đương niệm Phật” vậy khi tôi chết đi thì cái “tôi” này chạy đi đàng nào vậy? Rõ ràng không phải cái “tôi”. Tham cứu như vậy thì không kiếm ra cái “tôi”. Nếu cái “tôi” không có thì đương lúc còn sống ta khỏi cần tu hành nữa chăng? Nghĩ như vậy cũng không đúng. Vậy làm sao mới đúng? Tức là phải tham cứu cái mặt mũi gốc của ta (bổn lai diện mục), cái đó như thế nào trước khi cha mẹ sanh ra ta? Tham cho thấu đáo, tức sẽ khai ngộ.

Niệm Phật là ai đó? Phải truy cứu từng giờ từng khắc, từng giây từng phút không lơ là. Thật ra đây là cách dụng công lấy độc trị độc. Niệm Phật là ai? Tuy nó cũng là một niệm, nhưng lấy một niệm để khống chế hết thảy các niệm khác, lấy một vọng tưởng để đình chỉ hết thảy mọi vọng tưởng. Khi đình chỉ tới độ tột cùng sẽ tới lúc nước rút đá hiện, chân tướng hiển bày và được khai ngộ.

Thế nào là khai ngộ? Là nhận rõ một cách chân thực chính ta như thế nào, chứng được lý không, hiểu rõ hết thảy đều là hư vọng và đó mới là sự hiểu biết chân thực. Lúc đó quý vị biết được “Bổn lai không một vật, chỗ nào vướng bụi bậm?” là loại cảnh giới nào. Ðó cũng là cảnh giới của minh tâm kiến tánh. Có câu “minh tâm vô nan sự, kiến tánh bất tri sầu”, ngụ ý rằng khi đã đạt tới chỗ minh tâm, thì gặp cảnh ngộ nào cũng không ưu sầu. Còn có câu như sau:

Tự cổ thần tiên vô biệt pháp
Quảng sanh hoan hỷ bất sanh sầu.

Câu trên có nghĩa là thần tiên thuở trước chẳng có gì khác lạ, bởi sanh tâm hoan hỷ rộng lớn nên không có ưu sầu. Ðó là đặc điểm của những vị tu Ðạo.

Ai tu Ðạo rồi thì gặp nghịch cảnh hay thuận cảnh trong tâm cũng không động. Nếu định lực tới trình độ đó, thì sẽ không còn bị cảnh lay chuyển, mà ngược lại có thể chuyển cảnh. Ðó mới là công phu chân chánh của người tu Ðạo. Lại có câu:

Thái sơn băng tiền nhi bất kinh
Mỹ sắc đương tiền nhi bất động.

Tạm dịch:

Thái Sơn sụp đổ mà không sợ
Sắc đẹp trước mắt tâm không động.

Người con trai đứng trước người đẹp như Tây Thi chẳng hạn, nếu theo phép quán “sọ đầu lâu”, tự nhiên sẽ hết động tâm.Người con gái khi gặp một chàng trai anh tuấn như Phan An năm xưa, nếu theo phép quán “xương trắng”, cũng chẳng động tâm. Nếu không có pháp đó thì mỗi khi gặp gái đẹp, trai anh tuấn, cái tâm liền chạy lăng xăng, như vượn leo, như ngựa chạy, không biết như thế nào mới đúng. Chỉ vì không đủ định lực, thành thử uổng phí mất Ðạo nghiệp, thật đáng tiếc biết bao!

Ngày hôm nay tôi nhận được thư của hai vị đương trên đường hành hương “tam bộ nhất bái” và tôi hiểu những điều chẳng thể nghĩ bàn mà họ vừa trải qua, khi được các vị long thần hộ pháp che chở. “Cảm ứng Ðạo giao” là như vậy. Hai vị đó đã thành tâm lễ lạy, thực tâm niệm tụng, làm cảm động tới các vi thiên long bát bộ nên họ luôn luôn có mặt ở bên cạnh để hộ trì. Bởi vậy đi tới chỗ nào hai vị này cũng gặp may mắn, gặp dữ hóa thành lành. Chúng ta nên lấy các vị này làm gương sáng, soi lại chính mình, coi mình có thanh tịnh như vậy hay không? Có sáng suốt, có trí huệ, có bặt các vọng tưởng hay không?

Này quý vị! Quý vị nghe Kinh nghe pháp, cần phải ngộ tự tánh, tự ngộ và tự độ cho mình. Không thể ý lại vào sư phụ! Phải trông cậy nơi chính mình. Người ta nói “dẫn tới cửa là vị thầy, tu là đương sự”. Phải tin nơi trí huệ của mình, không thể tin vào ngu si của mình, đó là một điểm vô cùng trọng yếu. Chúng ta dự thiền thất với mục đích tự tánh tự độ. Xưa Lục Tổ đã từng nói: “Khi mê thầy độ, khi ngộ tự độ”.

Nay chúng ta tham thiền, phải lợi dụng từng giây phút, chớ để uổng phí thời gian. Bởi vậy trong thời gian tham thiền chúng ta không lạy Phật, không quá đường hay cúng ngọ, là vì cớ gì? Như vậy là muốn giúp quý vị chuyên chú vào sự dụng công. Thêm một phút tham, thì cơ hội khai ngộ gần hơn một phút, đâu có dư thời gian nào để làm việc khác, để tán chuyện, để tụ hội nhau? Nếu như túm năm tụm ba, nói chuyện thị phi, toàn những điều vô nghĩa, thì quả là phí hoài cơ hội khai ngộ. Dầu có tham trong tám vạn đại kiếp cũng không có hy vọng gì. Trong thiền thất, phải thực thà mà tham! Hãy tham “niệm Phật là ai?” tham “bổn lai diện mục truớc khi cha mẹ sanh ta là gì?” Ðó là chìa khóa khai mở trí huệ.

 

 

Tham Thiền Phải Khắc Phục “Cửa Ðau” 

 

Hôm nay, năm mới, tôi xin chúc quý vị “Năm mới hạnh phúc”. Tục lệ của thế gian là như vậy. Chúng ta là những kẻ xuất thế, lẽ ra không theo lề thói đó, nhưng chúng ta hãy còn là người trong thế gian, nếu như quá xa cách thế gian thì chúng ta sẽ xa lìa mọi người. Bởi vậy, tôi vẫn y theo lễ tục, chúc mọi người một câu “năm mới hạnh phúc”. Tôi lại nói thêm bài kệ này:

Kim phùng nhất cửu bát nhị niên
Thập phương tụ hội lai tham thiền
Hồi quang phản chiếu Quán Tự Tại
Vạn Phật Thành trung tuyển thánh hiền.

Tạm dịch:

Năm nay một chín tám mươi hai
Tham thiền hội tụ Vạn Phật này
Hồi quang phản chiếu Quán tự Tại
Thánh hiền tuyển lựa chính nơi đây.

Năm mới chúc hạnh phúc! Ðối với chúng ta những người tham thiền, cần đạt tới “thiền duyệt vi thực”, tức lấy sự tham thiền làm thực phẩm. Ngưòi tham thiền chân chánh dầu đã ăn hay chưa ăn cũng không nhớ; mặc đồ vào hay chưa mặc, ngủ rồi hay chưa ngủ, cũng không nhớ. Tham tới rốt ráo, thì trên không biết có trời, dưới không biết có đất, chặng giữa không thấy có người, hòa với hư không làm một, sống trong một cảnh giới vô nhân, vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả. Trong cảnh huống đó thì dầu có đau chân cũng đâu ngại gì, đau lưng, cũng không sợ vì sự nhẫn nại dụng công đã giúp cho thiền giả vượt qua hết thảy mọi thứ. Bởi không thấy có người, có ta, có chúng sanh, có thọ giả, thì ai là người đương đau? Hơn nữa, khi đã qua cái “cửa đau” thì cái đau cũng qua luôn, còn nếu chưa qua thì đau vẫn còn. Qua được cửa đau thì không những thiền giả hết đau mà còn được tự tại, vui sướng vô cùng.

Không có gì kỳ diệu bằng pháp môn tham thiền, bởi tham thiền mới đưa tới trạng thái thiền duyệt vi thực và pháp hỷ sung mãn. Cũng vì vậy mà xưa nay các thiền gia có thể ngồi luôn nhiều ngày mà không đứng dậy. Chân họ có bị đau không? Ðương nhiên là có đau! Nhưng họ chịu đau được, họ có thể chịu đựng những gì mà người khác không chịu nổi. họ có sức tinh tấn dũng mãnh, chỉ biết dấn bước tới trước, chớ không biết lùi, do đó họ mới thành công.

Tham thiền phải có đủ nhẫn nại vì nhẫn nại là vốn của sự khai ngộ. Tỷ như người làm ăn buôn bán, phải có vốn liếng thì việc kinh doanh mới phát triển và được lời nhiều. Chúng ta tham thiền phải khắc phục cái cửa đau; vượt qua được cửa đau rồi thì con đường sáng sủa rộng mở, dẫn thẳng tới cảnh giới minh tâm kiến tánh. Khi chưa qua cửa quan này thì vẫn còn trong tình trạng “sơn cùng thủy tận, đường tắc nghẽn”, vượt qua được thì là cảnh giới “dưới liễu hoa tươi, lại một thôn”. Có các câu nói như sau:

Không xả được tử, không đổi được sanh
Không xả được giả, không thành được chân
Không xả được khổ, không đạt được lạc.

Chúng ta tham thiền phải có một tinh thần như vậy mới có hy vọng thành công. Phải phá cánh cửa gian nan khốn khổ, mới thấy được cảnh giới (thực tại) khác. Bởi lý do đó mà chúng ta phải chuyên nhất trong việc tham thiền. Quý vị hãy chú ý! Chúng ta đến chỗ này là để tham thiền, không phải để tiêu thời gian, phải mang hết chí nguyện chân chánh ra dụng công, với tất cả sự nhẫn nại chân chánh để ngồi thiền. Phải nhớ một điều rằng trên thế gian không có thứ gì gặt hái được mà chẳng do công lao mang lại. Không bỏ công làm nhưng lại muốn hưởng, đâu có chuyện dễ dàng như vậy? Ðó là mơ tưởng hão huyền, chẳng hề có thật. Chỉ có sức lực của mình bỏ ra thì mới mong ngày thành tựu. Nay, qua năm mới, quý vị có sự mong mỏi mới, mong mỏi năm nay khai ngộ. Hy vọng tất cả chúng ta hướng tới mục tiêu này mà gắng sức tiến tới, nếu chưa khai ngộ thì chưa ngừng bước.

 

Khai thị tại Vạn Phật Ðiện, Vạn Phật Thánh Thành

Thiền thất từ ngày 1 đến ngày 8, tháng 1 năm 1982

 

 

Thế Nào Là Ðủ Tư Cách Tham Thiền 

 

Phàm làm bất cứ một công trình gì, cũng phải trải qua một giai đoạn tôi luyện mới tới được thành công. Pháp môn tham thiền còn khó hơn nữa. Thiền giả phải nếm đủ loại tân khổ và tôi luyện, mới tiến bước được. Hễ tham gia thiền thất điều quan trọng nhất là phải có tâm nhẫn nại; nhẫn nại làm những công việc mình không ưa thích; nhẫn nại chịu đựng những gì không chịu đựng nổi. Phải có tinh thần như vậy mới đủ tư cách tham thiền, bằng không thì miễn bàn. Thân ở tại Thiền đường mà tâm thì ở nơi khác, dầu tham đến đâu cũng là uổng công, không thành tựu được gì hết.

Tham thiền là tôi luyện thân này thành chất kim cương, chẳng khi nào bị hoại diệt. Nếu đã nguyện ý tôi luyện thân này thì gặp khổ phải ráng hết sức chịu đựng, bởi có câu: “Chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì tiêu phước”.

Ðối với những gì ta hoan hỷ làm thì ta lại càng phải gắng sức hơn nữa, kẻo phụ lại tấm lòng lúc ban sơ đưa ta tới tham gia thiền thất. Về điểm này xin quý vị đặc biệt chú ý!

 

 

Tham Ðắm Cảnh Giới Thì Chiêu Cảm Ma Chướng 

 

Trong pháp tham thiền, người tu phải dấn bước thực sự, khổ công miệt mài, dũng mãnh tiến tới, tuyệt dối không lùi bước. Có hằng tâm như vậy mới là người tu thiền chân chánh.

Trong lúc tham, phải lấy sự nhẫn nại khắc phục mọi thứ đau, chân đau hay lưng đau cũng mặc. Muốn tới được khai ngộ thì phải nhẫn nại, bằng không thì không thể khai ngộ. Nhẫn nại ở đây bao gồm mọi thứ nhẫn, chịu đói, chịu khát, chịu đau, chịu hết thảy mọi thứ. Nhẫn được thì phá trừ được chấp ngã. Như không có ngã chấp thì khi quán sát tâm cũng không thấy tâm nữa; quán hình sắc bên ngoài thì hình cũng chẳng có; hướng xa hơn nữa thì vạn hữu cũng mất. Ðó là lúc, trong không có thân tâm, ngoài chẳng có thế giới, tất cả là không,

Cái “không” này cũng không thể chấp trước nó, bởi nếu còn tham đắm vào “không” thì cũng là một thứ chấp trước. Do đó, “không” cũng phải xả bỏ, mới có thể cùng thế giới hợp nhất, ta và hư không chẳng còn gì phân biệt. Nếu đưa cảnh giới này tới chỗ rốt ráo thì sẽ có định. Ðịnh chẳng phải là một trạng thái mơ hồ, mà ngược lại rất sáng suốt, như câu nói: như như bất động, liễu liễu thường tri, nghĩa là bất động nhưng không lúc nào là không biết hết mọi sự. Tham thiền chẳng phải là một dịp ngồi để suy tính, hay vì ham kiếm một cảnh giới nào. Có những loại vọng tưởng đó thì ma sẽ tới phá.

Trong Kinh Kim Cang có câu:

Hết thảy mọi tướng đều là hư vọng
Nếu thấy các tướng là chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai.

Bởi vậy, người tham thiền không thể tham đắm vào cảnh giới, cũng không được cầu thần thông. Tham như vậy có thể bị tẩu hỏa nhập ma. Cũng không nên tham đắm danh lợi, kẻo có thể mắc vào vòng tà đạo, làm kẻ quyến thuộc của ma vương. Ðiều này quả là đáng sợ! Người tham thiền phải là vô chấp, vô tham, cho nên có câu nói: “Phật đến chém Phật, ma đến chém ma”, và phải dùng kiếm báu của vua kim cương (trí huệ) để chém đứt mọi thứ. Cảnh giới tốt chẳng ham mà cảnh giới xấu cũng mặc. Ngàn vạn lần đừng ham những thành tựu nhỏ nhoi, đó chỉ là hiệu quả của công phu tu tập; sinh tâm tham đắm sẽ đi vào đường tà, chúng ta phải hết sức cảnh giác!

Trong lúc nhập thất, cái “ta” phải quên đi, người cũng quên đi, quên cả thời gian và không gian. Có câu nói: “Quét hết mọi pháp, ly hết mọi tướng”, hết thảy đều không chấp, tất cả buông bỏ, tới lúc đó có thể đi vào cảnh giới Tứ thiền thiên.

 

 

Cảnh Giới Tứ Thiền Thiên 

 

Người tham thiền khi nào tới được tình trạng vô ngã vô nhân tức là vào được cảnh giới Sơ thiền, còn gọi là “Ly sanh hỷ lạc địa”. Tới giai đoạn này, thiền giả phá sự chấp trước về chúng sanh, chứng được “thiền duyệt vi thực” và cảm thấy một niềm hỷ lạc với pháp một cách sung mãn. Trong cảnh định này, hô hấp chấm dứt, nghĩa là không thở ra, không thở vào, thiền giả vui sướng một cách đặc biệt. Loại khoái lạc này rất kỳ diệu không thể tả ra được, tóm lại người thường không có được khoái lạc đó.

Trong cảnh Nhị thiền, còn gọi là “Ðịnh sinh hỷ lạc địa” thiền giả cảm thấy một niềm hỷ lạc tột cùng. Thiền giả ngồi tại chỗ, chẳng ăn, chẳng uống, mạch không còn đập nữa, giống như người đã chết, nhưng ý niệm vẫn còn, biết là mình đương tĩnh tọa.

Trong cảnh định của Tam thiền, hay còn gọi là “Ly hỷ diệu lạc địa”, thiền giả lìa bỏ thiền duyệt vi thực, lìa cả sự khoái lạc sung mãn về pháp hỷ, chứng được một sự khoái lạc vi diệu, không có gì tả được, hoàn toàn chẳng thể nghĩ bàn. Trong cảnh giới này, các niệm đều dừng lại, một niệm cũng chẳng dấy lên. Có câu nói:

Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện
Lục căn hốt động bị vân già.

Tạm dịch:

Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện
Sáu căn chợt động, bị mây che.

Tứ thiền còn gọi là “Xả niệm thanh tịnh địa” là một cảnh giới trong đó không những các niệm dừng lại mà chúng còn bị buông xả hết. Lúc ấy thiền giả đạt tới một trạng thái thanh tịnh phi thường, và sự khoái lạc cũng phi thường vi diệu. Tuy nhiên, cảnh giới của Tứ thiền vẫn là cảnh giới phàm phu, chưa phải là chứng quả, thiền giả chớ quá tự hào. Giai đoạn chứng quả thì hãy còn xa lắm, thiền giả phãi cố gắng tham, tiếp tục tham, dấn bước thêm nữa mới tới được cảnh giới của”Năm Cõi Trời Bất Hoàn hay Ngũ Bất Hoàn Thiên”, ở đây mới là nhập vào dòng Thánh.

Xưa, Tỳ kheo Vô Văn (Tỳ kheo Vô Văn tức là vị Tỳ kheo không hiểu biết, không có học hỏi – Unlearned Bikshu), tới được cảnh giới Tứ thiền này, lầm tưởng mình đã chứng quả, nên đi tới đâu cũng tự khoe như vậy. Bởi chưa thấu triệt Phật Pháp nên mới nói lời vọng ngữ, thành kết quả bị đọa địa ngục Vô gián.

 

 

Bí Quyết Của Tham Thiền

 

Chữ “thiền” dịch nghĩa là “tĩnh lự”, cũng dịch là “tư duy tu”. Tư duy chính là tham; tĩnh lự là nghĩa “thời thời cần phất thức, vật sử nhạ trần ai”. Thực tập tư duy tu có nghĩa là chúng ta phải đề khởi thoại đầu, luôn luôn tâm niệm, không giây phút nào rời. Có câu nói: “Sớm như thế ấy, chiều như thế ấy”. Phải bằng vào tự tánh mà dụng công, không tìm cầu ở bên ngoài. Nếu gặp cảnh rồi chạy theo cảnh, sẽ đi lầm đường. Cảnh giới từ tự tánh sanh ra mới là cảnh giới chân thật. Mong rằng quý vị phải thật hiểu rõ điểm này, bằng không sẽ lọt vào vòng của ma vương, làm quyến thuộc của chúng.

Pháp môn tĩnh lự đòi hỏi một sự dụng công triền miên rằng rịt, không lúc nào gián đoạn. Dụng công kiểu này có thể ví như phương cách gà mẹ chuyên tâm ấp trứng, như rồng thận trọng nuôi dưỡng hạt châu, cũng như thái độ mèo rình chuột một cách nhẫn nại. Tham thiền phải có kiên tâm, thành tâm và hằng tâm. Không thể có tâm kiêu ngạo, thấy mình cao hơn hoặc hay hơn người khác. Như có những tư tưởng đó, thì loại ma cuồng điên sẽ nhập vào khiến cho công phu không có hiệu quả.

Khi tham thiền không nên sanh vọng tưởng. Có vọng tưởng thì chẳng có lợi ích gì, chỉ uổng phí thời gian công phu. Tham thiền phải có tâm nhẫn nại, tâm trường viễn, tức nghĩ về lâu về dài. Bí quyết tham thiền là chữ nhẫn; cái gì nhẫn không được cũng phải nhẫn; nhẫn đến cực điểm, thì bỗng nhiền thấu suốt, bừng sáng khai ngộ. Nếu không nhẫn nại, không chịu đựng khổ, không chịu khó nhọc, khi gặp trở ngại tất sẽ đầu hàng. Những cung cách đó không thể chấp nhận và rất kỵ đối với tham thiền.

 

 

Kiếm Báu Của Kim Cương Vương Chặt Ðứt Vọng Tưởng 

 

Vọng tưởng chính là hòn đá vướng chân trên đường khai ngộ. Tham câu “niệm Phật là ai?” tức là dùng kiếm báu của Kim Cương vương, chặt đứt hết mọi vọng tưởng. Khi Ðức Phật Thích Ca vừa chứng được quả chánh giác dưới gốc cây bồ đề, ngài liền nói: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh, chẳng trừ ai, đều có đầy đủ đức tướng và trí huệ Như Lai, nhưng hiềm vì vọng tưởng chấp trước, nên không chứng được.” Như vậy, Phật đã nói với chúng ta một cách rõ ràng lý do gì chúng ta không thành Phật. Chẳng qua là do vọng tưởng và chấp trước, do đó chúng ta phải phá bỏ những thứ này. Phá bằng cách nào? Chính là dùng chữ “ai”, coi như cái đục để đục xuống, đục cho tới nước rút đá hiện thì sẽ thành công.

Tham thiền tức là tham câu “niệm Phật là ai?”, trong từng thời khắc tham cứu cứu vấn đề này, không được gián đoạn. Lâu ngày, tự nhiên sẽ có tin vui, nên có câu: “Cửu tọa hữu thiền, cửu trú hữu duyên”.

Ngồi trong một thời gian dài tự nhiên sẽ có thiền. Trú ngụ lâu ngày ở một nơi nào tự nhiên sẽ có duyên qua lại với láng giềng, ta cùng với mọi người dung hòa tình cảm, nên tất cả sống với nhau trong sự an bình.

Tham thiền khi tới trình độ tinh diệu, không những vọng tưởng tiêu tan, mà tính khí dịu hòa, bớt phiền não, nhân phẩm cao, khí độ cũng rộng lớn. Lúc đó trí huệ hiển bày, biết rõ phải trái, phân biệt thiện ác, tham sân si cũng được thanh lọc sạch, chỉ còn lại là ánh sáng của Giới Ðịnh Huệ chiếu rọi và soi thấu năm uẩn đều không.