Nhân Dịp Lễ Kỹ Niệm Lão Hòa Thượng Tuyên Hoá Nhập Niết Bàn

Nhớ Lại Nhân Duyên “Như Thị” Với Hư Công

BDH xin kính đăng một đoạn Cố Lão Hòa Thượng hồi ức nhân duyên “như thị” của Ngài với Tổ, để tưởng niệm đến Sư Phụ, đến Cố Lão Hòa Thượng trong dịp lễ giỗ này.

Tôi (Hòa Thượng Tuyên Hóa) là một sơn tăng ở vùng núi Trường Bạch, thuộc một Thiền đường ở Mặc Thủy. Từ nhỏ, tôi đã có lòng thiết tha tu đạo giải thoát. Khi được nghe về đức hiếu nghĩa của Ðại Sư Thường Nhân (người đời tôn xưng là Vương Hiếu Tử) ở Song Thành, tôi hằng ước nguyện sẽ có ngày được theo Ngài học tập giáo pháp. Cứ mỗi sáng, mỗi chiều, sau khi lạy Phật xong, tôi đều lạy Cha Mẹ. Thoạt đầu, Cha Mẹ tôi rất lấy làm lạ, nhưng sau một thời gian thì ông bà hiểu ra. Ít lâu sau tôi quy y Tam Bảo và tin sâu vào Phật Pháp. Ðược một thời gian, tôi đến Song Thành thọ học với Ðại Sư Thường Nhân. Ngài dạy tôi luôn luôn nuôi dưỡng nguyện lực phát tâm xuất gia tu đạo. Sau khi Mẹ tôi qua đời, tôi lạy Hòa Thượng Thường Trí xin xuất gia, rồi dựng một cái chòi nhỏ thủ hiếu bên mộ Mẹ.

Từ lâu, được nghe tiếng Lão Hòa Thượng Hư Vân là bậc Thiện Tri Thức trong Thiền Tông, đang độ chúng ở chùa Nam Hoa, vùng Tào Khê. Tôi phát nguyện được đến đó tu tập. Tuy nhiên, đường đi khó khăn, phải vượt qua một vùng núi non hiểm trở, nên chưa thể đạt được sở nguyện. Sau, đến thời kỳ Nhật chiếm đóng (1945 – Dân quốc năm 34), đường đi có phần dễ dàng hơn. Mùa thu năm 1946, vào giữa tháng 08, tôi lên đường cùng với hai môn đệ là Quả Năng và Quả Thuấn. (Về sau Quả Năng tham phương hành cước không biết tin tức; còn Quả Thuấn tự thiêu thân cúng dường Chư Phật).

Chúng tôi hướng về Tào Khê, ước nguyện được thân cận Hòa Thượng Hư Vân. Cuộc hành trình quá gian khổ, ngày đi đêm nghỉ; có khi lại đi suốt cả đêm, cho đến khi đến được chùa Bát Nhã ở Trường Xuân. Hai vị đệ tử lưu lại chùa nầy, đợi xin thọ giới Cụ túc vào Giới đàn năm sau sẽ mở ở đây. Tôi tiếp tục đi một mình, chẳng cần mang thêm áo quần, hành lý gì cả.

Khi đến Thiên tân, tôi lưu trú ở Ðại Bi Viện, nghe Lão Pháp Sư Thái Hư giảng kinh Lăng Nghiêm. Tôi gặp pháp Sư Thể Kính và cùng đi thuyền với Ngài đến chùa Chánh Giác ở Hồ Bắc. Cùng đi với chúng tôi có các Pháp Sư Thánh Chiếu, Thánh Diệu, Chiếu Ðịnh, Nguyên Tường, Nhuận Tuệ, Bổn Tri, Giác tri, Duy Linh, Linh Quán và Tịnh Giới. Nhân đó, có làm bài kệ rằng :

Ðồng chu cọng độ thập tứ tăng,
Chúng giai tôn quý ngã độc bần.
Nạp y nhất thực vô tha vật,
Phàm nhân hủy báng dữ ha sân.

Tạm dịch :

Mười bốn vị tăng cùng đi chung chuyến đò,
Thảy đều tôn quý, chỉ riêng mình thật nghèo.
Ăn một bữa, chỉ một nạp y, chẳng thêm vật gì khác nữa,
Mặc cho người khinh chê, trách cười.

Tại chùa Chánh Giác, tôi theo chúng chấp lao phục dịch, như chùi rửa phòng tăng, rửa chén bát, nấu nước, dọn vườn, quét dọn chánh điện … Chỉ riêng thấy trong công phu hành trì thiền quán có nhiều tiến bộ.

Năm 1947, sau khi đến núi Phổ Ðà xin thọ giới Tỳ Kheo, vào mùa thu tôi đến chùa Linh Nham Sơn ở Tô Châu xin vào Phật Học Viện. Cũng trong mùa thu ấy, tôi lại đến núi Hư Thanh tham dự thiền thất suốt qua mùa đông. Tại đây tôi có duyên được tham lễ Hòa Thượng Minh Quan và Hòa thượng Liễu Thừa.

Tháng giêng năm 1948, tôi rời Thượng Hải đáp thuyền đến chùa Báo Thông ở Hồ Bắc. Khi ở trên thuyền, trong người chẳng có lấy một đồng bạc, lại gặp một người bị bại liệt. Suốt thời gian ấy, tôi trì Chú Ðại Bi, hướng sự chú nguyện gia trì cho người bệnh. Bệnh anh ta giảm thấy rõ và có thể đi lại được. Sự việc này đã đánh thức lòng tôn kính và niềm tin vào Ðạo Phật cho số hành khách ở trên thuyền. Trước khi rời thuyền, họ đã quyên góp tặng tôi 700.000 fabi. Nhờ số tiền này, tôi có thể mua vé xe lửa đi Khúc Giang. Lúc xuống ga, tôi gặp Ðại Sư Châu Dịch, người Hồ Bắc. Cùng trò chuyện với nhau mới biết ông ta cũng đang trên đường đến chùa Nam Hoa ở Quảng Ðông để theo học với Hòa Thượng Hư Vân. Tôi hỏi : ” Thầy có tiền để mua vé xe lửa không ?” Thầy trả lời ” Không”. Tôi mua vé cho thầy. Hai chúng tôi cùng đi xe lửa đến Mã Bá. Khi xuống ga, thầy nói : ” Tôi đói bụng quá !”. Sau khi mua vé xe, tôi còn lại 100.000 fabi, liền biếu hết cho ông, chẳng giữ lại đồng nào.

Ðến chùa Nam Hoa, đảnh lễ Hòa Thượng Hư Vân, tôi cảm thấy mình như đứa trẻ con gặp lại Mẹ hiền ; như gã cùng tử lang thang nay tở lại quê nhà. Sau bao nhiêu năm lòng cảm phục, ngưỡng mộ, ao ước được gặp, đến lúc này mới được toại nguyện. Ban đầu, tôi được phân công làm hương đăng ở Tổ đường. Khi Pháp Sư Trí Tham đến thăm, tôi cùng Ngài bàn bạc, tâm đắc nhiều quan điểm về tinh thần tu tập. Pháp Sư lại giới thiệu với Hòa Thượng Hư Vân rằng tôi là người có năng lực, là bậc pháp khí. Lão Hòa Thượng gọi tôi lên phương trượng, khuyến khích tôi đảm nhiệm vai trò Giám học của Học Viện Giới Luật. Tôi không dám nhận. Ngài khuyến khích tôi đến ba lần. Tôi thưa: “Con đi ngàn dặm đến đây để gặp Hòa Thượng là vị Thiện Tri Thức, chỉ cầu liễu thoát sinh tử. Nếu Hòa Thượng có thể đoan chắc cho một lời thì dẫu Ngài bảo con phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, con quyết cũng không từ chối.” Lão Hòa Thượng đáp: “Mọi người tự tu tập để giải quyết việc sinh tử của riêng mình, như người ăn tự thấy no. Nếu nói rằng tôi có thể đảm bảo cho ông thoát được sinh tử, đó là đánh lừa ông. Tôi không bao giờ làm điều đó. Tuy vậy, đối với việc tu tập, trong thì nên tập trung vào công phu quán chiếu ; ngoài thì nên làm công quả. Nhờ công phu trên cả hai phương diện Phước và Trí thì ai ai cũng sẽ được thành tựu. Không nên tu tập để mong thành một vị A-la-hán, chỉ lợi lạc cho riêng mình ; mà nên thực hành hạnh Bồ tát, tu tập vì lợi ích cho muôn loài. Hãy siêng năng làm việc phục vụ cho tăng chúng, cho Thường Trụ, và phát nguyện phụng sự cho lợi ích chúng sanh. Bằng cách đó mới có thể thánh tựu Phước Trí ; việc sinh tử cũng nhân đó mà tự liễu thoát” . Tôi lại khước từ. Lão Hòa Thượng liền bảo : ” Ông từ Ðông Bắc Trung Hoa, lặn lội đến tìm tôi. Nếu không muốn nghe lời chỉ dạy thì bận tâm đến đây làm gì?” Nghe vậy, tôi bèn nhận việc.

Hàng ngày tôi thầm quan sát từng lời nói, việc làm ; từng oai nghi tế hạnh của Lão Hòa Thượng để học hỏi. Nhận thấy Ngài hoàn toàn thanh thản tự tại. Ðiều làm cho Ngài khác với mọi người là Ngài có năng lực tạo nên một mẫu mực phép tắc cho người khác bằng vào sự thực hành và ý nguyện chuyển hóa nỗi đau khổ cho mọi người ; cũng như bằng vào sự nghiêm túc trong giới luật của chính Ngài.

Một hôm, trong kỳ truyền giới vào mùa xuân, khi tiếng bảng báo thức vừa vang lên, bỗng nghe có tiếng cọp gầm ; ban đầu rất gần, sau rồi xa dần. Một người bạn đồng tu bảo tôi ” Ðó là tiếng gầm của con cọp đã quy y với Lão Hòa Thượng. Hiện nay nó sống trong một cái hang phía sau núi. Mỗi khi có giới đàn, nó luôn luôn đến để bảo vẹâ đạo tràng.”

Sau kỳ truyền giới, Lão Hòa Thượng lặng lẽ một mình đến chùa Vân Môn, nơi Ngài đang coi sóc việc kiến thiết trùng tu.

Mùa hạ năm đó, tôi đến quận nam Thành ở Giang Tây để giảng kinh A-di-đà theo lời mời của Lão Cư Sĩ Hoàng Chú Tai. Tôi trở lại chùa Nam Hoa vào giữa tháng 8. Ðến giữa tháng 9, có một nhóm thổ phỉ vào cướp phá chùa. Họ phá cổng chùa, xông vào Học Viện Giới Luật. Tôi ra gặp họ. Họ chỉa súng vào ngực tôi muốn bắn. Tôi hỏi : ” Sao các ông muốn bắn tôi?” Họ đáp : “Vì ông không chịu mở cổng chùa” Tôi đáp : ” Tôi không mở cổng chùa vì các ông vào đây để cướp bóc, không phải vào cho tôi quà. Nếu ông ở vào vị thế của tôi, ông cũng chẳng dám mở. ” Tên cướp bảo: ” Ðưa tiền bạc ra đây ” . Tôi chỉ vào nạp y, đáp: “Nhìn đây, người mặc những chiếc áo may bằng từng mảnh vải như thế này,thì lấy tiền ở đâu ra mà đưa cho bọn các ông?” . Tên thổ phỉ hỏi: “Thế thì ai có?” Tôi đáp : ” Tôi là Pháp Sư ở đây, còn lại đều là học tăng. Tôi đã không có tiền thì các học tăng chắc còn nghèo hơn. Các ông có quyền lục soát phòng này và lấy bất cứ gì tùy ý.”

Nghe tôi đối đáp với bọn cướp như chẳng có việc gì nghiêm trọng, Pháp Sư Hoài Nhất ở phòng bên cạnh bước ra xem tôi nói chuyện với ai. Bọn cướp liền nắm ngay lấy thầy, vặn hỏi thầy những điều như chúng đã hỏi tôi. Thầy Hoài Nhất chợt rơi nước mắt, cúi đầu xuống không dám nhìn chúng. Bọn cướp bảo: “Ðưa tiền ra đây” . Thầy Hoài Nhất nói: “Hãy đến phòng tôi mà lấy”. Bọn chúng liền đến phòng thầy lấy sạch mọi thứ, để lại căn phòng trống không.

Sáng hôm sau khi vào lớp học, thấy Hoài Nhất nói với mọi người : ” Trong hơn một trăm tăng sinh ở Thiền Viện Nam Hoa này, chỉ có một người thể hiện được tinh thần Vô-úy. Ðó là Pháp Sư Ðộ Luân.”

Ðến giờ tôi lên lớp giảng, tôi nói: “Thầy Hoài Nhất nói chỉ có tôi là người có tinh thần Vô-úy trong chùa nam Hoa, tôi nghĩ là chưa chính xác lắm. Theo tôi biết thì ít nhất cũng có đến bốn người có tinh thần Vô-úy. Trước hết là Lục Tổ Huệ Năng. Ngài ngồi bất động trong Chánh định, chẳng bận tâm để ý điều gì, như chẳng thấy có việc gì xảy ra trong chùa cả. Người thứ hai là Tổ Sư Hám Sơn, ngồi đoan nhiên trong Thiền định với đôi mắt khép kín, hàm dưỡng nội tâm, trong ngoài đều như không lặng, nhân ngã đều như tiêu trầm. Người thứ ba là Ðan Ðiền Tổ Sư, như đang nhìn quanh dò xét mọi việc mà không nói một lời. Người thứ tư mới đến tôi, sơn tăng Ðộ Luân này, chẳng những nhìn thấy mà còn nói nữa. Tôi nói chuyện với bọn cướp làm chúng sửng sốt, nhưng tôi chẳng thấy sợ hãi chút nào.” Tôi nói xong cả lớp đều bật cười.

Chẳng bao lâu, tin chùa bị cướp đến chỗ Lão Hòa Thượng Hư Vân. Ngài vội vã từ Vân Môn về ngay nam Hoa. Ngài cho triệu tập toàn thể học tăng lại. Lão Hòa Thượng, Pháp Sư Hoài Nhất và tôi làm chủ tọa buổi họp. Có hơn 30 học tăng, như : Tổ Ấn, Vân Diệu, Ngộ Vân, Tuyên Dương, Hằng Ðịnh, Ðề Huy, Ðề Quảng, Pháp Lương, Hải Long, Pháp Huệ, Vạn tâm, Chỉ Không, Pháp minh, Pháp Khai …… Sau sự kiện tu viện bị cướp, học tăng ai cũng bối rối bất an, muốn ra đi. Lão Hòa Thượng khuyến khích Pháp Sư Hoài Nhất ở lại nhưng ông cũng từ chối. Lão Hòa Thượng muốn thuyết phục học tăng ở lại, nhưng họ không nghe. Ngài thất vọng, lòng buồn bã nói rằng: “Từ nay về sau tôi chẳng bao giờ điều hành một Phật Học Viện nào nữa cả” . Nói xong Ngài phất tay áo, đứng dậy trở về phương trượng.

Tôi rất xúc động và nguyện sẽ nhận nhiệm vụ điều hành Phật Học Viện. Sau khi thầy Hoài Nhất đi Quảng Tây, tôi trở thành người độc nhất chịu trách nhiệm về mọi khóa học ở Học Viện Giới Luật chùa Nam Hoa. Vào ngày đầu năm 1949, tôi viết một bức thư cho Lão Hòa Thượng, xin thôi nhiệm vụ Chủ nhiệm Giáo vụ của Phật Học Viện, rồi sang ở tại Tàng Kinh Các để nghiên cứu các tạng kinh. Giới đàn năm đó tôi được thỉnh làm A-xà-lê trong hàng Tam sư. Giới đàn xong, tôi cùng Lão Hòa Thượng đến chùa Ðại giám ở Thiều Quan. Rồi Hòa Thượng đề nghị tôi cùng đi với Ngài về vân Môn. Tôi thuận theo Ngài, chỉ xin được trở về Nam Hoa trước, rồi sẽ đến Vân Môn sau.

Vào thượng tuần tháng 05, tôi khởi hành đi đến chùa Ðại Giám. Ðường vùng núi quanh co, khúc khuỷu và chật hẹp, chỉ có một đường. Ðêm xuống, tôi còn cách Vân Môn khoảng 20 dặm. Vì tôi đi một mình nên khó mà đi nhanh được trên đoạn đường xa lạ đầy chướng ngại này. Bỗng dưng có ánh lửa lập lòe phía trước, tôi liền đi theo. Ðốm sáng ấy cứ giữ một khoảng cách với tôi chừng trăm bước chân. Cuối cùng khi tôi đến được chùa vân Môn thì đốm sáng tự biến mất. Nhìn quanh, tôi biết mình đã đến cổng tam quan Thiền Viện Ðại Giác. Tăng chúng đang lúc chỉ tịnh. Tôi gõ cửa bước vào, gặp ngay Hòa Thượng Hư Vân. Ngài hỏi: “Sao thầy đến trễ vậy?” . Tôi kể cho Ngài chuyện đóm lửa dẫn đường. Hòa Thượng nói: “Thật lạ kỳ! Ði qua đoạn đường núi đầy gian nan hiểm trở mà không người dẫn đường. Thật khó tưởng tượng nổi khi thầy đã tìm được lối đi trong màn đêm dày đặc. Thật là lạ!”

Sau khi xếp phòng cho tôi nghỉ xong, Lão Hòa Thượng nói: “Thầy đã là Ban Thủ (quản chúng) tại chùa nam Hoa, nay thầy hãy nhận làm Ban Thủ ở chùa vân Môn này luôn. Thầy hãy hướng dẫn tăng chúng công phu, tụng niệm, quá đường và tọa thiền.”

Nhưng tôi không trụ ở Vân Môn được lâu. Tôi bị bệnh do thời khí ẩm thấp, khiến trong người rất khó chịu, tôi liền thỉnh ý Lão Hòa Thượng xin được về Quảng châu trị liệu. Ngài từ chối, bảo tôi: “Thầy chẳng nên đi. Nếu thầy đi chắc là khó trở về” .

Tôi thưa: ” Ðệ tử của Lão Hòa Thượng đã quyết chí. Con nhất định xin đi chữa bệnh”.

Nghe tôi thưa, Lão Hòa Thượng không ngăn được dòng nước mắt. Ngài nắm tay tôi, nói: “Nếu ông đi, chúng ta khó lòng gặp lại”. Tôi nói: ” Con sẽ trở về ngay khi khỏi bệnh. Xin Hòa Thượng đừng bận tâm về con.”

Lão Hòa Thượng nói: “Thầy đi lần này, hãy phát tâm thừa sự Ðức Phật và Chư Lịch Ðại tổ Sư mà kiến lập Ðạo Tràng. Cơ duyên trước mắt rất xán lạn. Hãy cố gắng nỗ lực tinh thần. Tự bảo nhậm lấy mình, đừng phụ lòng mong mỏi của tôi. Xin bái biệt!”

Tôi đến Quảng Châu, rồi qua Hương Cảng, trú tại chùa Ðông Phổ Ðà, Vào tháng 7, tôi về lại Quảng Châu, ở chùa Lục Dong, Hòa Thượng Minh Quan trụ trì yêu cầu tôi làm Ðường Chủ kiêm Phó Trụ trì. Vì đã có dự tính trở về Vân Môn sau tiết Trung thu, nên tôi chỉ thuận nhận việc đến rằm tháng 8 mà thôi. Nhưng đầu tháng 8, Thiều Quan lại bị chiếm đóng, nên đường giao thông bị gián đoạn, tôi không trở về được như dự tính. Vào đêm 18 tháng 8, nhân có 2 vị cư sĩ là Tạ Khoan Huy và trần Khoan Mãn, giúp cho tôi chút tiền đi thuyền, tôi liền trở về Hồng Kông. Sau đó, tôi sang Thái Lan để nghiên cứu Phật Giáo Nam Truyền. Năm 1950, tôi trở lại Hồng Kông, ẩn cư tại Ðộng Quan Âm, sống như người câm điếc. Mỗi khi nhớ đến lời của Hòa Thương Hư Vân lúc chia tay, tôi lại hối hận. Tôi muốn quay trở về để gặp Lão Hòa Thượng, nhưng không thể nào được nữa. Thật đau lòng! Than ôi, làm sao có thể nói được?

Mùa đông năm 1951, trùng tu chùa Tây Lạc Viên. Theo lời thỉnh cầu của các vị cư sĩ La Quả Minh, Trần Quả Phát, Dương Quả Thiện, Mạch Quả Liên … tôi giảng kinh Ðịa Tạng ở chùa Thông Thiện. Vào mùa thu năm sau, tôi lại giảng kinh Kim Cang cũng tại chùa này. Rồi lại giảng kinh A-Di-Ðà tại chùa Bảo Giác. Sau đó, tôi giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm ở chùa Tây Lạc Viên suốt 14 tháng. Rồi lại giảng kinh Ðịa Tạng tại một ngôi chùa khác.

Khi tôi kiến thiết trùng tu Từ Hưng Thiền Tự, đắp một bức tượng Lão Hòa Thượng để biểu hiện sự kính ngưỡng cao tột nhất đối với Ngài. Tôi nhận được từ Ngài bản chứng minh truyền thừa – “Chánh Pháp Nhãn Tạng – Nguồn gốc truyền thừa của Chư Phật Tổ, là pháp từ tâm ấn tâm, truyền riêng ngoài giáo điển; là Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, là pháp Chân không mà chẳng không, trên thuận ý Chư Tổ, dưới hóa độ quần sanh”. Tôi được tiếp nhận ân huệ sâu thẳm ngọt ngào của Pháp nhũ, lòng càng cảm động.

Lão Hòa Thượng viết thư khuyến khích tôi siêng năng tu tạo phước đức. Tôi phát nguyện quyên góp vài ngàn đô-la để đúc tượng Phật cho Ðại Hùng Bửu Ðiện ở Chân Như Thiền Tự, núi Vân Cư. Tôi sang tận Miến Ðiện để mua vàng mạ về thếp vào tượng Phật. Lão Hòa Thượng rất hoan hỷ, viết thư tán thán. Ðiều này biểu hiện sự quan tâm sâu sắc của Ngài đối với thế hệ tương lai.

Ngài rất khiêm tốn và không hề làm phiền lòng ai. Ngài sống khắc kỷ với bản thân, tỏa lòng khoan dung độ lượng với mọi người. Ðạo hạnh tinh nghiêm cao vời và lòng từ bi, bình đẳng vô lượng của Ngài đã tác động đến khắp mọi người. Ai ai cũng tin yêu và kính phục Ngài.

Trong một lá thư sau nữa, Ngài dạy tôi nên trở về núi Vân Cư. Trong lúc thiền quán, biết được Ngài đang muốn giao trách nhiệm điều hành Thiền Viện Chân Như cho tôi, nhưng do nhiều nhân duyên, tôi không thể nào làm theo lời dạy của Ngài được. Ðến bây giờ, sự ân hận trong lòng tôi vẫn chưa dứt.

Giảng Ðường Phật Giáo đươc thành lập, hàng ngày tôi bận rộn với việc giảng dạy Phật Pháp. Do vậy, không thể phân thân để làm việc ở cả hai nơi trong cùng một lúc. Tôi dự tính sẽ trở về với Lão Hòa Thượng sau khi sắp xếp công việc thỏa đáng và tìm được người giao phó công việc ở Hồng Kông.

Vào tháng 07 năm 1959, tôi nghe tin Lão Hòa Thượng bệnh nặng, ngày đêm lòng tôi vô cùng lo lắng. Tôi biết đó là điềm chẳng lành. Tôi đã lưu ý đến bức ảnh chân dung của Ngài chụp hồi năm 1958, với đôi mắt bình thản như nhìn vào chân trời xa xăm ; lông mi dài như rủ che xuống mắt Ngài. Khi tôi thấy bức chân dung này, tôi cảm động, đảnh lễ nói rằng : ” Mọi khi mắt Hòa Thượng đều nhắm lúc chụp hình; nhưng lần này, đôi mắt từ ái ấy lại mở rộng nhìn mọi loài hữu tình. Ðiều này quá lạ lùng! Chắc chắn đây phải là biểu hiện của một sự thay đổi lớn lao.”

Nay thì mọi việc dường như đã rõ ràng. Tôi liền thỉnh Chư Tôn Ðức Tăng đồng khai lễ tụng kinh Sám Dược Sư liên tục trong mấy ngày. Tôi cũng nhắn tin trên báo chí cho các môn đệ của Lão Hòa Thượng được biết để cùng nhau chú nguyện, mong có được sự cảm ứng nhiệm mầu.

Lúc ấy, tôi thưa trước Ðại Chúng: ” Tôi e rằng đây là dịp cuối cùng chúng ta vì sức khỏe của Lão Hòa Thượng mà đảnh lễ Chư Phật, đảnh lễ Ðức Dược Sư Quang Nhu Lai.” Giọng tôi trầm nặng vì quá buồn, chư Tăng Ni đều khóc thầm khi nghe những lời nói ấy.

Rồi có một bức thư từ Vân Cư báo tin: “Bệnh của Lão Hòa Thượng đã có phần thuyên giảm.” Chúng tôi đều vui mừng. Khi đó, tôi liền tìm một họa sĩ để vẽ lại tiểu sử của Lão Hòa Thượng bằng tranh. Bộ tiểu sử gồm hơn 200 bức tranh bằng mực tàu, kèm theo đến vài vạn lời, trình bày đạo đức siêu tuyệt của Ngài; những hạnh nguyện, những gian khổ ngài đã trải qua, cùng năng lực ý chí tinh thần của Ngài. Công hạnh của Lão Hòa Thượng là biểu tượng mô phạm cho muôn đời ; cho những bậc phát tâm tu hạnh Thánh Hiền noi theo. Suốt cả ngàn năm mới có một mẫu mực sáng chói như Ngài.

Bất hạnh thay, vào ngày 16 tháng 10, tôi nhận được điện tín báo tin Ngài đã an tường viên tịch vào lúc 1 giờ 45 phút ngày 12 tháng 10 tại Chân Như Thiền Tự, núi Vân Cư. Ngài dặn dò chúng đệ tử hãy siêng năng tu tập Giới Ðịnh Tuệ, chuyển hóa sạch tham sân si ; vì Pháp quên thân ; thương yêu, kính trọng nhau, hỗ trợ nhau trong việc truyền bá Chánh Pháp…

Khi tôi nghe tin này, không những thấy núi non sụp đổ, lòng đất chấn động, mà còn thấy cả thế giới và mọi người như biến mất; như kiếp hỏa thổi qua muôn vật. Tôi chẳng thể nói được là mình đang mơ hay tỉnh, vạn vật là ảo hay thật… Tôi thấy mình như đứa trẻ ngây ngô, như tượng đá vô tri. Sau một lúc, khi tôi hồi phục lại tri giác, mới biết là mình vừa trải qua một cơn xúc động vì đau buồn ngập tràn.

Hôm sau, 17 tháng 10, tôi mời tất cả Phật Tử, thiện tín lại để tổ chức nghi lễ truy niệm. Chúng tôi quyết định cử hành khóa lễ 21 ngày chuyên tâm niệm Phật ; tiếp theo là khóa lễ 120 ngày niệm Phật Ðại Bát Nhã. Chúng tôi hy vọng, bằng cách này, vừa truy niệm công đức Ngài, vừa phần nào báo đáp được Pháp nhũ từ bi mà Ngài đã ban cho chúng tôi.

Tôi cũng đánh điện tín báo tin cho Pháp hữu trên khắp thế giới : Phật Giáo Giảng Ðường ở San Francisco, Hội Phật Giáo ở Honololu, Hội Phật Giáo Tân-Gia-Ba, Hội Cư Sĩ Zhan Li Vu ở Canada ; và các đệ tử ở Ðài Loan, Miến Ðiện, Thái Lan, Ấn Ðộ, Tích Lan… và nhiều quốc gia khác ; trong đó có cả cư sĩ Vu Chấn Ðông, Chủ Tịch Hội Phật Giáo Hữu Nghị Thế Giới. Hơn 100 bức điện tín được gửi đi. Ðệ tử kháép nơi trên thế giới đều có điện phúc đáp, tổ chức lễ Truy niệm Hòa Thượng. Phật Giáo Hương Cảng cũng liên lạc phúc đáp bằng điện thoại. Vào ngày 18 tháng 10, các nhật báo Hương Cảng đều đưa tin rộng rãi.

Vào ngày 24 tháng 10, tôi phái hai cư sĩ đến Vân Cư để thỉnh xá lợi của Lão Hòa Thượng. Ngày 27, hai vị cư sĩ đến Chân Như Thiền Tự thỉnh được 10 viên xá lợi sáng ngời, tỏa chiếu rực rỡ ánh sáng năm màu. Về đến Giảng Ðường vào trưa ngày 28, tôi hướng dẫn Ðại chúng cúng dường hương hoa, đảnh lễ xá lợi. Ðại chúng thảy đều hoan hỷ. Tôi có cảm giác như cả gánh nặng đã cất khỏi vai mình.

Xin nguyện cho những lời này nêu lên được một chuẩn mực về đức hạnh, để người người cùng noi theo mà tiến bước về cõi Phật, nguyện không bao giờ thối chuyển trong việc phát tâm cầu Vô thượng Bồ đề.