(Lục độ vạn hạnh thể trung viên)

Hòa Thượng Tuyên Hóa

Trích Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca Thiển Thích

Sáu độ gồm có bố thí, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định, bát nhã (trí huệ). Bố thí thì độ được nết keo kiệt, trì giới độ làm việc quấy, nhẫn nhục độ lòng tức giận, tinh tấn độ sự lười biếng, thiền định độ tán loạn, bát-nhã độ ngu si. 

Bố thí là để trị lòng tham, tính keo kiệt. Chúng ta tu học Phật pháp nên hiểu rõ thế nào là bố thí. Bố thí không phải là kêu gọi người khác bố thí cho mình, mà chính ta phải luôn luôn bố thí cho người. Chẳng phải bảo người khác “quí vị bố thí đi! Bố thí đi!” Quí vị bố thí cho tôi mà tôi chẳng bố thí cho quí vị, chẳng phải vậy. Cho nên làm việc bố thí là chẳng phải nhất định người ta hóa duyên cho mình, thì mình mới bố thí cho người ta. Ta thấy ai cùng khổ thì ta giúp đỡ, đó là tài thí; ai không hiểu Phật pháp, mà ham tu học như người đói ham ăn, thì ta nói Phật pháp cho họ nghe khiến họ được hiểu rõ, đó là pháp thí; hoặc thấy ai đương sợ hãi, không biết nương tựa vào đâu, ta bèn giúp đỡ, giải trừ cho họ mọi điều sợ hãi, đó là vô úy thí.

Ðiều nên biết là bố thí độ lòng keo kiệt. Phàm cái gì của ta, chúng ta đều không muốn bỏ ra cho người khác, chỉ muốn người khác cho mình mà thôi, đó là tánh keo kiệt. Nếu không chịu làm việc bố thí, thì tánh keo kiệt không bao giờ phá bỏ được, mà lại trở thành keo kiệt thêm. Phải xả bỏ cái của mình ra, phá bỏ tánh keo kiệt độ cho nó, thì con quỷ keo kiệt mới xấu hổ mà bỏ chạy.

Trì giới độ làm việc quấy. Trì giới là biết giữ quy củ, đúng theo quy củ, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành (chẳng làm điều ác, làm mọi điều thiện). Bố thí là làm việc cho người, thuộc về ý nghĩa chúng thiện phụng hành. Trì giới thì thuộc về nghĩa chư ác mạc tác. Nếu quí vị làm bố thí rồi sau đó đi giết người, đốt nhà, ăn cướp, thì cũng là vô dụng. Nếu quí vị nói rằng tôi lấy của nhà giàu cho nhà nghèo, cướp của người có tiền để giúp người cùng khổ, là điều không thể làm được! Phải nhớ “chư ác mạc tác,” không làm một điều ác nào, làm hết thảy việc thiện, chấm dứt điều ác, đề phòng điều sai, cải sửa những việc lỗi lầm, những điều nào đúng thì phát triển thêm, lúc nào cũng giữ chánh niệm, đó là đại lược ý nghĩa của trì giới. Trì giới là biết giữ quy củ, theo đúng luật pháp, trong gia đình không có chuyện cãi nhau, ngoài quốc gia xã hội thì giữ phép nước, trên thế giới không làm phương hại đến chuyện của người. Như vậy là trì giới.

Nhẫn nại độ tức giận. Tức giận thuộc hỏa, nhẫn nại thuộc thủy. Tánh chất của thủy là nhu hòa, tánh chất của hỏa là táo tợn. Chúng ta lên cơn tức giận, ngọn lửa vô minh vút lên cả ba ngàn trượng, tầng trời sơ thiền cũng chịu không nổi, cho nên ta phải tu hạnh nhẫn nại. Nói về nhẫn nại thì những điều nào nhẫn được không kể làm gì. Những điều nào chịu không nổi mà ta cũng cố nhẫn cho được, cái đó mới kể là nhẫn; chịu không nổi mà cũng ráng chịu, đấy mới thực sự tu hạnh nhẫn nhục. Chúng ta phải bắt chước ngài Di-lặc. Trông ngài, thân thì mập, bụng phệ, mà trong lòng chẳng chứa một chuyện gì, đúng là “bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?” Cho nên Ngài lúc nào cũng tươi cười, hoan hỷ, Ngài tượng trưng cho công phu tu nhẫn nhục. Tu nhẫn nhục phải học Ngài Di-lặc. Chẳng phải giả dạng tươi cười, vì cười như vậy là gian, chẳng phải cười thực. Trong lòng có điều tức giận mà lại giảo hoạt làm ra bộ mặt khác để che dấu! Che dấu như vậy, đối với tín đồ Phật giáo là điều không nên. Bất luận vào lúc nào, trong trường hợp nào, bộ mặt của ta cũng phải chân thực chớ không thể giả dạng che dấu, đó mới là bộ mặt thực của tín đồ Phật giáo. Nếu che dấu bộ mặt thực của mình để lừa người khác, kết quả chính mình sẽ gặp điều không hay.

Ngoài xã hội thường thấy những chuyện như vậy. Lừa dối lẫn nhau, quí vị không thực lòng nói với tôi, tôi cũng không thực lòng nói với quí vị. Trong Phật giáo ta nên ngay thẳng thực thà, nói một là một, hai là hai; cái gì đúng thì bảo là đúng, cái gì không đúng thì bảo không đúng, chớ không thể biết rõ không đúng mà cứ cố biện bạch, đem cái lầm lỗi đẩy về phía người khác, như vậy là sai rồi. Quí vị không ngay thẳng, không chân thành, Bồ-tát sẽ không hoan hỷ, do đó chúng ta là người học Phật nhất định phải mang hết tấm lòng thực thà, thành tâm, từng giờ, từng khắc, cư xử sao cho chân thực, một chút xíu hư dối cũng không có. Ðành rằng tu nhẫn nhục là biểu thị một thái độ hoan hỷ, nhưng nếu trong lòng đương sục sôi giậ�n dữ, như muốn đánh giết người ta mà bề ngoài thì giả dạng tươi cười, làm ra vẻ hiền lành dễ thương, cũng là sai rồi. Ðấy chẳng phải là nhẫn nhục, đó là giảo hạt, gian trá.

Tinh tấn độ sự lười biếng. Tinh tấn chẳng phải là nói ra rằng tôi tu hành đây, tôi tinh tấn đây, tôi đọc kinh, niệm Phật, lễ Phật, hay đăng tin trên báo chí tu như thế này, thế kia, chẳng phải như vậy. Tinh tấn là nói chính bản thân mình phải tinh tấn, thân tinh tấn, tâm tinh tấn, luôn luôn siêng năng, không lười biếng, từng giờ, từng khắc, không dối lòng, một niềm cung kính như khi đứng trước trời, Phật, đứng trước tôn sư, không dối mình, đó mới là tinh tấn. Lúc nào cũng canh cánh bên lòng một niềm tu học Phật pháp, nghĩ sao làm vậy, chớ không phải vừa lễ Phật xong miệng đã chửi mắng, tay đã cầm dao giết người, đó chẳng phải là tinh tấn, tu như vậy chỉ là giả bộ mà thôi.

Thiền định độ tâm tán loạn. Tại sao chúng ta phải tu thiền định? Bởi chúng ta bị tán loạn quá nhiều, làm cho tinh thần bị tiêu hao, lãng phí biết bao khí lực. Mắt của chúng ta thì nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân thì xúc chạm, ý thì duyên với các pháp, tất cả giác quan đều quay ra ngoài, khiến cho tinh thần phân tán ra ngoài thành tán loạn. Vậy ta phải làm sao? Phải tu thiền định. Thiền định chính là ngồi lại một nơi, mang tâm ý chìm lắng xuống, tình trạng giống như mang một bát nước đục, để tại một chỗ nhất định, chẳng đụng chạm tới, để bùn đục lắng dần xuống đáy bát, nước thành trong, trông thấy tận đáy. Nước trong suốt dụ cho trí huệ được hiển bày; khi nước còn đục là dụ cho tình trạng ngu si, bị vô minh làm vẩn đục, che mờ tất cả. 

Do đó chúng ta tu thiền định khiến cho trí huệ tăng trưởng dần; nếu có được định, tức trí huệ phát sanh; trí huệ phát sanh là có bát-nhã; bát-nhã chính là trí huệ, giúp chúng ta không hành động ngu si.

Tại sao người ta cứ làm những chuyện phi pháp? Bởi lý do quá ngu si, không biết con đường chánh đáng. Không ngu si, chính là có trí huệ.

Nói đơn giản về lục độ là như vậy, còn muốn nói cho đủ thì nói đến hết kiếp tương lai cũng không hết.

Bây giờ giảng về vạn hạnh. Các hạnh tu thật là nhiều, vô lượng vô biên, giảng không thể hết. Vạn hạnh nói về sự thực hành pháp môn. Ðây là những pháp môn thiện, không phải pháp môn ác. Số lượng các pháp môn thiện rất nhiều, kể không hết, nói tổng quát có thể gom lại trong câu “vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi” – chẳng vì điều thiện nhỏ mà bỏ qua không làm, chẳng vì điều ác nhỏ mà làm – tức là hết thảy mọi điều thiện nên làm, hết thảy điều ác phải tránh, giống như là trì giới, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành.” Chúng thiện là các điều thiện, không nói rõ số mục là bao nhiêu, là rất nhiều, nên gọi là vạn hạnh. 

 

Thể tròn nguyên: Gọi là lục độ vạn hạnh, chẳng phải đi kiếm ở đâu bên ngoài, mà là thực hiện ở bên trong từ tự tánh mà ra, mà dụng công phu.

Lấy thí dụ về bố thí. Mắt của chúng ta nhìn mọi vật, không nên nhìn một cách tham lam mà không chán, như vậy là bố thí rồi, là đã cứu độ cho “giặc con mắt” rồi.

Về mũi thì ta không nên tham luyến mùi hương. Như quí vị nói quí vị giữ giới không trộm cắp, nhưng mũi của quí vị thì rất dễ phạm tội này. Như khi thấy có mùi thơm, quí vị chẳng hỏi ai mà đã hít hà. Thấy có dầu thơm, chẳng kịp hỏi người ta một tiếng: “quí vị có dầu thơm, cho tôi ngửi một cái được không?” Ðã vội vàng đưa lên mũi ngửi, đó là giặc mũi, đã ngửi lén. Như vậy tức là quí vị không giữ giới, quí vị đã phạm giới trộm cắp.

Tai thì ưa nghe âm nhạc, thích những âm thanh hay, âm thanh hay thì lòng vui sướng, thanh âm không hay thì sanh bực tức. Nghe người ta mắng mình một câu lòng đã nổi sân hận, quên cả công phu nhẫn nhục, vậy là chưa độ được giặc tai.

Tinh tấn độ lười biếng. Như khi ăn uống thì dùng tới lưỡi, còn khi giảng pháp thì lại muốn lưõi nghỉ ngơi; ăn uống thì tinh tấn, nói chuyện thị phi thì tinh tấn, còn chuyện đứng đắn thì không thích nói, đó gọi là lười biếng, hay là tà tinh tấn, chẳng phải chánh tinh tấn. Nếu quả là chánh tinh tấn thì đã độ cho giặc lưỡi rồi.

Thân chúng ta, chính là phải an tĩnh, không nên vọng động, nhưng quí vị lại làm cho nó chạy lung tung, chạy tới chạy lui. Công phu thiền định chân chánh là thâu hồi cái lăng xăng của thân thể và mang lại sự an tĩnh cho thân này.

Còn về ý, nếu như có trí huệ, chúng ta sẽ không ngu si, vì trí huệ độ được ngu si.

Bởi các lý do trên, ta có thể nói rằng pháp lục độ là để độ cho sáu tên giặc của chúng ta, sáu giặc mắt, tai, mũi lưỡi, thân, ý. Sáu giặc đã tuân phục thì ta không còn vọng tưởng nữa, mà không vọng tưởng tức là tất cả lục độ vạn hạnh thảy đều viên mãn, cho nên mới nói câu “thể tròn nguyên.” Nếu quả thực chúng ta không còn vọng tưởng, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thế chẳng phải là “sáu độ vạn hạnh thể tròn nguyên” hay sao?