Tam Bộ Nhất Bái

Nguyên Bản: Three Steps One Bow

Heng Ju & Heng Yo

Buddhist Text Translation Society

! over page-R.jpg (7165 bytes)

Lời tựa

Lời Giới Thiệu Của Hằng Cụ

Lời Giới Thiệu Của Hằng Do

Chương I: Từ San Francisco đến Garberville

Chương II:Từ  GARBERVILLE đến COOS BAY

Chương III: Từ Coos Bay đến Marblemount

  Một số hình ảnh

!P483-Three Steps One bow.jpg (105527 bytes)

 

Chương III

Từ Coos Bay đến Marblemount

!P347-SF.jpg (102592 bytes)

 

Ngày 1 tháng 5 năm 1974. Hằng Cụ viết:

Sau một tháng ở Kim Sơn, hôm nay chúng tôi trở về vịnh Coos Bay. Trong thời gian qua, chúng tôi đã tham gia các tuần thiền thất, thuyết pháp nhân dịp lễ Phật Ðản và những buổi nói chuyện tại trường đại học San Francisco State University. Ðồng thời tu bổ lại chiếc xe kéo và cũng có đủ thời gian để chúng tôi chuẩn bị cho phần nhì còn lại của chuyến bái hương. Với phân nửa đoạn đường nầy, chúng tôi quyết định là sẽ theo sát lộ trình xa lộ chớ không đi quanh co vớ vẩn nữa. Trong khóa thiền vừa qua, khó khăn lắm mới kiềm giữ tâm lại, không thì đầu óc cứ mãi nghĩ đến xa lộ. Sau khi lấy lại tinh thần, không còn những mối lo âu, thân thể trở nên khỏe mạnh, tôi cảm thấy phấn khởi và náo nức về phân nửa cuộc hành trình còn lại.

Kệ thiền thất

Tánh thanh tịnh, tâm tự tại:

Vạn hạnh tu, chẳng được mất.

Tin Thầy Tổ, nguyện ban đàu,

Tiến bước cho đến viên mãn.

Ngàn lần gọi như nhắc nhở.

Ai chẳng chịu theo tâm mình?

Hãy đứng thẳng, không tham cầu,

Vượt khỏi tranh chấp, si mê.

Người, cảnh, ý tưởng, cảm thọ,

Bao đường dẫn đến giải thoát,

Bao ngả dẫn sa địa ngục,

Tất cả từ tâm niệm khởi.

 

Ngày 2 Tháng 5 năm 1974. Hằng Cụ viết:

Trong tuần qua có hai Giáo sĩ truyền đạo người Mỹ vừa từ Trung Hoa về, đã đến chuyển hóa chúng tôi. Cả hai đều tỏ vẻ ngạc nhiên khi biết Thầy Hằng Do rất rành tiếng Quan Thoại (Mandarin). Một trong hai vị nầy là cựu hải quân, mời chúng tôi đến nhà ở Reedsport, nếu có đi ngang. Nghe qua cũng lý thú thật.

Hôm nay tôi lạy dọc trên đụn cát chạy dài theo bờ biển khoảng nửa dặm, rồi tiến lên vùng đất rắn chắc bảy dặm. Vừa lúc định ngưng lạy, thì có một thanh niên thuộc giáo phái Nhân chứng Giê-ho-va (Jehovah’s Witness), khoảng mười chín tuổi, định làm một việc hào hiệp cứu rỗi tôi. Anh chàng mang theo những cuốn Thánh kinh nhỏ đã được truyền bá khắp thế giới, vớI nội dung nói về ngày “Phán xét” sẽ xảy ra trong bất cứ lúc nào. Rồi anh ta bắt đầu thao thao bất tuyệt với tốc độ như không thể nào gián đoạn được. Tôi kiên nhẫn đứng đó cả mấy phút, trong khi chàng ta vẫn tiếp tục nói huyên thuyên: “Những ai tin tưởng sẽ được ban ân huệ sống vĩnh viễn trên thiên đàng, còn những người không tin sẽ bị thiêu đốt mãi dưới địa ngục.” Nhưng sau đó, nhân lúc nghe tiếng anh ta bắt đầu như cuồn băng bị đứt, nên tôi cúi lượm nhánh cây khô bên đường, ra chiều ngắm nghía rất kỹ. Anh ta cũng vậy, bắt đầu nhìn vào cành cây và giọng nói càng lúc càng nhanh, trong khi cặp mắt như dán chặt vào nhánh cây. Ngay lúc đó, tôi biết là đã bắt dính được anh chàng. Rồi vừa lúc hắn ngừng để thở, tôi nói ngay: “Em có biết cái gì đây không?”

Chàng ta trả lời: “Là một khúc cây.”

Tôi nói: “Ðây là Chúa” và nhẹ nhàng ném tung lên không trung. Chàng ta há mồm trố mắt nhìn theo cành cây từ từ rơi vào bụi rậm. Tôi không nói thêm lời nào và lập tức bắt đầu lễ lạy. Ði xa được khoảng trăm bước, tôi ngoái nhìn lại, thì thấy anh chàng vẫn đứng trơ ra như mảnh kiếng bể. Nhưng cuối cùng anh ta cũng hoàn hồn lại và chạy theo, vừa nhảy lưng tưng như chú thỏ con đang lớn, vừa lấp bấp: “Nhưng, nhưng, nhưng Chúa còn sống, Ngài, Ngài, Ngài, Ngài có trí thông minh, ông phải tin như vậy.” Tôi mặc kệ, không thèm chú ý nữa, mà bỏ hắn lui mờ dần về phía sau một mình lảm nhảm vẩn vơ.

 

Ngày 3 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Chúng tôi đang tiến vào khu đụn cát biển Oregon Dunes National Recreation Area, khu nầy chiếm ít nhất cũng khoảng bốn mươi dặm gần tới ven biển. Các thú rừng trong phạm vi vùng nầy đều được bảo vệ. Lại có những lối đi dành riêng cho các loại xe chạy trên cát biển. Những bãi cát mênh mông nầy, nguyên trước đây là vùng trũng sâu đã được sóng thủy triều đưa đẩy cát biển vun bồi mà thành, rồi được đánh dấu với tên Salal, Manzanita, và Madrone. Chúng tôi bắt đầu thấy vô số những đoàn xe cắm trại chở gia đình đi nghỉ mát.

Hôm nay chúng tôi được hai viên cảnh sát quận đón chào, và hứa sẽ lưu ý dùm cho chúng tôi. Ðiều nầy có vẻ trái ngược với những lần chúng tôi bị ngồi trong xe cảnh sát để chờ họ điều tra, kiểm soát xem chúng tôi có phải là tội nhân không. Hình như càng đi xa, chuyến đi của chúng tôi càng được mọi người công nhận.

Sau khi lạy được bảy dặm, chúng tôi cắm trại ở một trong vô số công viên dọc theo bờ biển vùng Oregon. Theo như thường lệ, đến cuối ngày, sau khi chúng tôi ngưng lễ lạy, cũng là lúc tạm dừng tiếp xúc với công chúng. Bởi vì lúc tối đến, sau khi rời bỏ đường lộ để cắm trại thì sẽ không ai biết chúng tôi ở đâu. Nhưng đêm nay như có những lời đồn, nên từng đoàn người kéo đến để trò chuyện: tặng phẩm vật, chụp hình, mời nước chanh và cuối cùng là những câu hỏi. Quang cảnh thật ồn náo nhưng có vẻ toàn thiện tuyệt vời.

Giờ đây đêm đã về khuya, những chuyện xảy ra trong ngày cứ vang dội trong đầu tôi, chúng hiện đến rồi mất đi như những bọt sóng trên biển cả. Nhưng ai đang quan sát biển cả trong vũ trụ nầy? Có phải người đang ngắm nhìn chính là một phần tử trong đó không? Nó thật có cái gì khác biệt giữa chuyện xảy ra và chuyện tôi nghĩ sẽ xảy ra không?

 

Ngày 4 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Hôm nay khi chúng tôi dừng lại bên đường, có một số người đến trò chuyện. Hầu hết là họ không muốn rời khỏi xe, nên đã xếp thành hàng dài chờ đến phiên mình, rồi tuần tự chạy xe đến, quay cửa xe xuống để hỏi chuyện chúng tôi. Thật lạ lùng làm sao!

Sau bữa cơm trưa, chúng tôi tiếp tục lạy qua khu phố Reedsport, nơi đây cả hai tôi đều tiếp chuyện với nhiều người. Rồi có cả một tiểu đội con nít cởi xe đạp tụ tập bao quanh, chạy theo Thầy Hằng Cụ cho đến cuối đường Main. Chúng nó lượn tới lượn lui thành vòng tròn, cười nói vang rân. Còn mình tôi phải dừng lại từng hồi để đối đáp với nhiều người.

Ðến cuối ngày, lúc ngồi nghỉ, những hình ảnh xảy ra trong ngày cứ chập chờn trong tâm trí tôi. Chúng có vẻ hơn là những kỷ niệm, nhưng lại kém phần thực tế: Những hình ảnh nầy hơn là kỷ niệm vì chúng đang uốn nắn những gì sẽ xảy ra trong tương lai, cũng giống như hạt dưa sẽ cho ra những trái dưa chớ không phải cho ra trái đậu. Nhưng chúng thua kém thực tế vì tổng số các hình ảnh xảy ra không cân xứng với sự góp nhặt của các phần rời rạt. Cho dù tất cả những phần nầy có được chỉnh đốn xây dựng lại, nhưng nó vẫn như còn thiếu sót một cái gì huyền bí trong đó, ngầm gởi gấm chánh đáng cho lời ước nguyện, sự việc, hay tư tưởng. Có thể gọi đó là tia sáng của cuộc đời, gọi là Phật Ðà, tánh chân thật, hay là thần thánh gì đó. Nó có rất nhiều danh xưng để nhiều lần thử định nghĩa về nó. Như một lão Thiền sư có lần nhắc đến: “Bạn không thể nào hai lần đứng trên cùng một giòng suối.” Thử nghĩ về điều nầy đi! Bạn còn không thể đứng một lần trên cùng một giòng suối, huống chi là đến hai lần!

 

Ngày 5 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Ðêm hôm qua chúng tôi nhận lời mời về ngủ ở nhà của vị cựu hải quân, người vừa đi công tác truyền giáo ở Trung Hoa về. Thật là lầm lẫn, mặc dù được ông và gia đình tiếp đãi rất tốt, nhưng tất cả cũng chỉ với ẩn ý muốn chuyển hóa, và cứu rỗi chúng tôi. Mới đầu ông nói tiếng Anh, sau đó dùng tiếng Trung Hoa, không chịu buông tha, suốt cả đêm cứ mãi với luận điệu: Vì ông đã tìm được sự vĩnh cửu của cuộc đời, và sẽ không an vui cho đến khi nào cả hai chúng tôi cũng tìm được điều nầy như ông. Buổi nói chuyện tối hôm đó thật ra cũng chẳng có vấn đề gì, nhưng sáng hôm sau, lúc ông chở chúng tôi trở ra chỗ cũ, mới có chút xích mích xảy ra. Lúc đó ông tập trung hết sức lực, hầu như chỉ dồn về phía Thầy Hằng Do. Tôi nghĩ ổng đã bó tay chịu thua tôi rồi. Ông ngừng xe ở hướng bắc, phía cầu sông Smith, cuối ranh giới vùng Reedsport. Khi chúng tôi vừa bước ra khỏi xe, ông nói nhắn theo Thầy Hằng Do: “Tôi hy vọng hai chú em sẽ từ bỏ sự tôn sùng cái hình tượng tà giáo đó và chấp nhận Chúa, nhất là chú Hằng Do đã là người được Chúa chọn đó.”

Thầy Hằng Do trả lời ngay: “Tất cả chúng ta đều là những người được chọn.”

Cảnh nầy kết thúc trong lúc mọi người đều buồn phiền, la lối lẫn nhau cho đến khi ông ta nhảy lên xe rồ máy ầm ầm chạy mất. Ðáng tiếc thay! Tôi biết rằng dù sao ông cũng thật tình có thiện ý với chúng tôi đấy thôi.

Sáng nay thấy có túi trái cây tươi nằm trên lối chúng tôi đi, kèm theo tờ giấy ghi: “Cầu mong ánh Thái dương mãi chiếu rọi đến các anh, với tình thương bao bọc chung quanh và ánh sáng trong lành nội tâm sẽ dẫn đường các anh tiến bước.” (Trích từ một bài hát của ban nhạc: Dây đàn tuyệt diệu (Incredible String Band). Chiều đến ông phó cảnh sát trưởng Richard Knack mang đến cho chúng tôi một bình nước suối bốn lít, lại còn chỉ điểm chỗ khá tốt để dựng trại. Giờ đây chúng tôi ngồi bên lều, gần cạnh nồi đậu hầm trên ngọn lửa cho bữa trưa mai. Ngọn gió tươi mát từ biển thổi vào, tiếng nước chảy róc rách của con suối nhỏ từ xa vang lại. Ánh trăng tròn tỏa chiếu cùng với hàng ngàn ngôi sao lấp lánh trên trời.

 

Ngày 6 tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Có lần Hòa thượng Hư Vân thấy con cá mập bị sóng biển đánh dạt vào bờ và dân bản xứ mổ bụng nó ra, thấy bên trong có cả một chiếc xuồng nhỏ và vài thứ vật dụng của loài người. Tôi nhắc đến chuyện nầy là vì đêm nay đang lúc ngồi thiền, nghe văng vẳng tiếng mấy ông say đang đánh cá từ phía hồ Carter mờ mịt sương mù, cách không xa chỗ chúng tôi cắm trại. Tiếng mái chèo khua dưới nước, pha lẫn tiếng loạng choạng quây cuồng trên ghe thuyền, và những lời cười nói vang rền của họ đã lấp đầy vào tâm tôi một ấn tượng sâu xa.

Có ai biết không? Có thể đời nầy là người câu cá, nhưng kiếp sau sẽ là cá!

 

Ngày 7 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Xa Lộ Ven Biển

(Một cảnh nhìn gần)

 

Thông xanh cao vút viền quanh lộ,

Tùng bách, Sơn Lưu hoa thanh nhã,

Bông hoa, bụi bậm, gai nhọn, be-ri,

Hoa Tô cách lan, sa lal, che-ri ngọt.

Vạn cụm mây trang nghiêm thiên cảnh,

Bạch mao vân, hào quang kiêu mạn.

Không gian sống động đàn chim hót,

Ong mật từ tổ vù qua lại.

Bên lề la liệt lon sét mốp,

Ðống kiếng bể, quạt máy rã hư.

Ðàn kiến tíu tít quanh bánh vụn,

Xương động vật, quần áo cũ rách.

Ðường lộ hun hút vô số dặm,

Như mộng dài, bài ca chẳng dứt.

Người xe qua lại bận suốt ngày,

Trên những chiếc xe Pontiacs, Lincolns, Chevrolets.

Thanh niên kéo Baja Volks trượt nước,

Khuôn mặt rũ rượi mấy bạn già,

Tiếng khóc trẻ con trong xe cũ,

Lon không nước ngọt chất đầy xe.

Viên tuần cảnh hài hòa độc mã,

Thong dong dưới bãi đầy bọt biển tràn.

Ðây thế giới sanh tử phân hôi,

Lễ bái ven bờ xa lộ 101.

 

Ngày 8 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Sự ồn náo tăng dần khi chúng tôi vào tới khu phố Florence. Cha Maxwell ở nhà thờ Saint Mary vùng Dunes, ngừng lại thăm hỏi vài câu. Thoạt tiên ông ngỡ chúng tôi là những Ðạo sĩ lang thang có đời sống lao nhọc. Ông Harris giúp chúng tôi hàn nối lại mấy cọng kẽm bao quanh chiếc xe kéo. Sau mỗi lần tu sửa, nó trở nên nặng nề thêm chút ít. Vào tới giữa phố có nhóm người kinh doanh buôn bán trong vùng đến chào đón chúng tôi và chụp hình, thắc mắc thăm hỏi rất nhiều. Ðang trên đường ra khỏi phố, có viên cảnh sát cởi chiếc mô tô tấp vào, lên giọng khinh khỉnh hỏi: “Mấy ông đang lộn xộn cái gì đây?”

Thế là tôi phải giải thích lý do mục đích, nơi chốn xuất hành. Nghe xong, lòng ông rung động thấy rõ, nên nói: “Ồ! Thánh thiện quá, cẩn thận nhé!”

Vừa sau đó, có ông lái xe hàng ra dấu bảo Thầy Hằng Cụ đến gần. Nhưng thấy Thầy không đến, ông liền phát cáu, nhấn ga nghiến bánh xe dưới đường nghe điếc cả tai, rồi chạy tới phía Thầy đang lạy, hét to bảo Thầy nên đi chỗ khác mà cầu nguyện.

Chúng tôi cắm trại trên bãi cát gần bờ biển Hecata, bên cạnh lửa trại ấm cúng. Có hai đứa bé đem thức ăn đến cho chúng tôi, và hỏi về cách tập thiền. Một em tên Gary Jenkins hỏi Thầy Hằng Cụ sau chuyến nầy chúng tôi định sẽ làm gì?

Thầy đáp: “Có lẽ chúng tôi sẽ đi Viễn Ðông.”

Nghe vậy chú bé nhỏm người lên nói: “Ồ! Về tiểu bang Minnesota hả?”

 

Ngày 9 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Lạy được sáu dặm đường dưới ánh mặt trời nóng như thiêu đốt. Thầy Hằng Do tính nhẩm bảo rằng chúng tôi đã được khoảng nửa đường vùng Oregon. Hôm nay chúng tôi ăn cơm trưa ở gần một khu vườn thực vật, đây là vườn nhà của loại Darlingtonia California, cây thật cao, chuyên ăn sâu bọ. Các loại côn trùng một khi đã lọt vào những cánh hoa hình dáng như rắn hổ mang Ấn Ðộ nầy thì những cánh hoa sẽ khép chặt vào rồi tiêu hóa chúng. Tôi có nghe con người ăn rau, nhưng chưa bao giờ nghe rau lại ăn thịt như vậy!

Gary Jenkins mang táo đến

Nellie tặng một đồng tiền

Ông Ball tìm chỗ cắm trại,

Mọi người chúc may mắn.

Tuy nhiên, đến chiều tối thì ông chủ đất phát giận dữ bảo chúng tôi phải rời khỏi khu vực của ông ta ngay. Ðây chỉ là lần thứ hai trong suốt cuộc hành trình mà chúng tôi phải nhổ lều dọn đi chỗ khác vì đã xâm nhập đất người. Thật ra chúng tôi đâu có muốn xâm phạm đất người bất hợp pháp như vậy, chỉ vì đôi lúc không thể tìm được một nơi nào mà không có chủ cả.

 

Ngày 10 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Khi vừa qua trạm phòng vệ duyên hải củ ở Hecata Head, ông Harry Tammen mời chúng tôi nghỉ lại đêm. Hai vợ chồng ông vốn là nhân viên gác giữ ngọn hải đăng nầy và căn nhà cổ xưa. Căn nhà rộng lớn nầy do sự cất ráp từng phần mà thành, từ San Francisco được thả trôi đến đây cũng cả trăm năm rồi. Nơi đây như khoác lên vẻ gì trang nghiêm quá.

Sau buổi trà đàm đạo về Phật pháp với ông bà Tammen, tôi mang theo bồ đoàn, một mình đi ra ngoài khoảng nửa dặm, thẳng đến ngọn hải đăng to lớn. Tôi leo lên một ghềnh đá để tìm chỗ ngồi ngang bằng với ngọn đèn. Ðể bồ đoàn xuống rồi kéo chân ngồi với tư thế kiết già. Cơn gió từ biển thổi tạt vào lạnh cóng, phút chốc mặt trời khuất bóng, để lại một bầu trời tối đen. Ngồi được khoảng nửa tiếng, trong tư thế như vậy tôi cảm thấy đôi chân dù đau nhức vô cùng, nhưng vẫn nhất quyết không nhúc nhích, cho đến ít nhất một tiếng như thường lệ. Dường như tia sáng từ ngọn đèn đã giúp cho tôi tăng thêm nguồn sinh lực, vượt qua cơn đau nhức trong phúc chốc. Vả lại tôi cũng đã quên hẳn cả thân mình. Một tiếng trôi qua, tôi từ từ duỗi chân và chợt cảm nhận luồng gió thổi dữ dội, lạnh buốt vô cùng. Rồi vội vàng trở về ngôi nhà lớn, lúc đó sư huynh đang ngồi đọc sách.

Một trong những ngành khoa học cổ điển Trung Hoa vẫn còn lưu hành cho đến ngày nay là Ðịa lý học. Ngành nầy nghiên cứu, định rõ những nguồn năng lực của quả địa cầu. Tất cả mọi nghiệp vụ xây cất đều nên hòa hợp với những nguồn năng lực của trái đất. Nhiều người bác bỏ không tin vì cho đó là sự khảo cứu vô lý, nhưng sự hiện diện địa điểm tọa lạc của ngọn hải đăng nầy đã xác định rõ ràng mạnh mẽ. Nó như vượt hẳn ngoài tầm của sáu thức.

Từ cửa sổ tôi hướng nhìn về ngọn hải đăng, nơi đó đã cho tôi một cảm giác thật lạ kỳ.

 

Ngày 11 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Ngọn hải đăng ở Hecata Head chỉ đơn độc một bóng đèn 1000 watt, với lăng kính phản chiếu là 700. Nó có thể rọi chiếu sáng đến mãi tít chân trời trong phạm vi khoảng hai mươi mốt dặm. Phía sau ngọn đèn là một tấm màn bằng chất thạch miên bao trùm suốt cả vách núi. Phòng khi trong trường hợp ngọn đèn ngưng quay, tấm màn nầy với sự tập trung năng lực mãnh liệt giống như tấm kiếng phóng đại, có thể làm phát ra lửa dễ dàng.

Chúng tôi lạy được năm dặm, rồi cắm lều trên một dốc đá. Lại thêm một cơn bão khác đang kéo đến.

 

Ngày 12 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Trận giông đêm qua thật khủng khiếp vô cùng. Gió thổi như phong bão khiến mấy bên vách lều bị đập phình phịch như chiếc buồm. Phía dưới bãi biển, những lợn sóng không ngừng dội vang vào ghềnh đá như sấm sét. Cũng đở là tấm lều được may rất kỹ, nếu không nó sẽ bị banh rời thành từng mảnh rồi. Ðôi khi ở thế giới vô tình, lạnh lẽo như thế nầy, chiếc lều nặng năm cân lại là một nơi ấm cúng và an toàn biết bao.

Hôm nay chúng tôi dừng lại ở trung tâm du ngoạn Cape Perpetua. Những đồ vật chưng bày ở đây đã giải thích phần nào vô số hiện tượng mà chúng tôi đã chứng kiến ở rừng Suislaw National.

Gia đình họ Evan ở Eugene, tặng chúng tôi một túi trái cây có kèm theo mảnh giấy viết rằng: “Cả hai ông đều đáng được ân cần chú ý đến. Chúng tôi chắc chắn rằng những nhân vật tai mắt quan trọng vùng Oregon, các báo chí và đức Chúa đều tin tưởng các ông sẽ thành công.”

Thật ra điều tôi quan tâm chính là ý tưởng, là sự tỉnh thức. Bên cạnh đức hạnh cá nhân, nó là then chốt của sự tu hành. Ðiều thử thách thật sự là làm sao để không có những thành kiến vị kỷ, không bị bồn chồn, nôn nóng, không lo lắng về tương lai và cũng không hồi tưởng về quá khứ. Tâm tỉnh giác như đang cố gắng nhận lấy cảnh thế gian với trạng thái thanh tịnh, hoàn toàn không dính dáng đến các hình thức, hay bị chi phối bởi những kinh nghiệm về tốt, xấu, lớn, nhỏ và những sự đối lập tương phản khác.

Tâm không dễ gì được tỉnh giác, bởi vì chúng ta cứ duyên theo những thành kiến, nhận biết thế gian theo lối định hướng của bản ngã. Tâm chúng ta lúc nào cũng đầy ấp những tư tưởng, những kinh nghiệm giá trị của kẻ khác. Niềm vui của chúng ta lại tùy thuộc vào ngoại cảnh. Thế nên chúng ta không ngừng tìm kiếm cái được gọi là “tốt” và cố tránh xa cái “xấu.” Tâm chúng ta cứ chạy ra khỏi cửa năm giác quan: Mắt, tay, mũi, lưỡi, thân để tìm vui, thỏa mãn với những hiện tượng vô thường của cuộc đời. Bởi vậy thì làm sao tìm được cái vui hạnh phúc thật sự.

Hàng vạn năm qua, những bậc Thánh nhân đã từng chỉ dạy chúng ta con đường trực thẳng nhất để chấm dứt khổ đau, là phải đập tan những vướng mắc, tức phải dẹp bỏ tham muốn dục vọng. Mục tiêu của tâm tỉnh giác là sự thấy biết chân thật để không còn ham muốn. Nhưng nguồn năng lực của lòng dục vọng về: tài, sắc, danh, thực, thùy lại quá mạnh mẽ, nó biến hiện dưới hàng triệu hình thức khác nhau, đôi khi rất rõ rệt trực tiếp, nhưng có lúc rất khéo léo quỷ quyệt. Ngoài ra lòng dục vọng lại tinh tế bịnh hoạn hơn trong lãnh vực tôn giáo, là chúng ta tham muốn về tiếng tăm và quyền lực. Có người ham muốn được tôn kính, được quyền lực to tát và mong muốn trở thành những ông, bà Tổ Sư, nắm hết quyền hành, đến nổi không còn rõ đâu là phải trái. Dục vọng khiến chúng ta cố chấp những gì đến với ta và thâm tâm không ngừng quay cuồng với những mưu kế, để rồi tạo thêm những nghiệp mới, bồi đắp thêm những tập khí cũ. Cho nên bước đầu của sự giác tỉnh là phải trừ đi lòng dục vọng tham muốn.

Hôm nay chúng tôi qua vùng Yachats, lạy được sáu dặm rưỡi.

 

Ngày 13 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Bạn đồng hành chung thủy phía trái của chúng tôi với vẻ đẹp mênh mông là biển Thái Bình Dương. Nhưng dưới lớp mặt bao la vĩ đại của nó lại là một thế giới hỗn loạn và đau khổ. Hôm qua khi còn ở vùng Cape Perpetua, chúng tôi mới khám phá ra rằng tất cả những loài sinh vật dưới biển, ngoại trừ có lẽ một phần mười ngàn, thì đều làm mồi cho những con vật khác ăn nuốt. Theo giáo lý Phật pháp, chúng sanh bị sanh trong hoàn cảnh như vậy chỉ là vì đền bù quả báo sát sanh của bao đời trước.

Hôm nay ông bà Bernie và Eileen Bernstein chở chúng tôi về nhà dùng cơm trưa. Ông Bernie nói trước đây đã từng sống ở miền đông, nhưng vì chán ngán sự đua chen, lệ thuộc cuộc đời, nên đã nghỉ việc,và bán hết tất cả, để đến đây mở tiệm sửa chữa kiêm buôn bán đồ tặng phẩm. Bà vợ thì làm đèn cầy và nữ trang. Ông Bernie còn biết khắc chạm gỗ để làm thành những hình vật. Ông cầm một khúc cây hơ qua hơ lại trên ngọn lửa nhỏ, tiếp chà bằng một bàn chải sắt, rồi cũng làm thành hình dạng trông giống như thật vậy.

Nhiều lúc chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi, có những người trong công viên gần bên làm bộ ra vẻ như đang ngắm biển. Nhưng rồi tưởng rằng chúng tôi không thấy biết, thì họ trố mắt ngạc nhiên nhìn chăm bẩm. Cũng khó mà trách họ được, vì nếu là tôi khi nhìn thấy hai Tăng sĩ đầu trọc, xâm mình lễ lạy trong bộ đồ thời nhà Ðường, đang có bữa tiệc chay trên mặt đường tráng nhựa của bãi đậu xe, thì có lẽ tôi cũng sửng sốt như họ thôi!

 

Ngày 14 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Tối qua cơn bão lại kéo đến và hiện chúng tôi lạy vào vùng Waldport, có dân số khoảng tám trăm người. Nhận lời mời dùng cơm trưa tại nhà họ Perola gồm: Mike, Julia và Christie. Bà Julia bảo là mấy ngày trước đã mơ thấy chúng tôi và bà luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Bà nói với phương pháp nầy giúp bà bình tỉnh, định tâm hơn, rất có hiệu quả, nhất là khi gặp những tình cảnh khó khăn. Thí dụ như những lúc bà cuống cuồng bận rộn với công việc ở nhà hàng.

Sau bữa cơm trưa, chúng tôi lạy suốt vùng Waldport và qua cầu Alsca. Khi tới bên kia cầu, có nhóm người thân thiện đón chào cho rau cải tươi và trà, có cả bánh mì do họ tự tay làm lấy. Có ông tên Mark, đệ tử của vị Sư Tây Tạng, luôn miệng nói: “Thật là một sadhana phi thường! Thật là một sadhana phi thường!” Sadhana là tiếng Phạn có nghĩa là phương pháp tu hành hay là sự thanh lọc.

Lại có ông khác bày tỏ lo lắng rằng người Mỹ với cách ăn uống hằng ngày tiêu thụ quá nhiều chất đường. Ông nghĩ rằng đường là chất độc và làm cho người ta bị ghiền, nên hy vọng mọi người sẽ thức tỉnh, bỏ đi thói quen đó. Ðiều nầy nhắc lại có lần trong bọn chúng tôi đã học được về tánh chất của đường, và lòng tham của mình.

Chuyện xảy ra mấy năm trước ở Chùa Kim Sơn, lúc thời buổi khó khăn, nên chúng tôi nhiều khi phải lục thùng rác để lượm lặt rau cải còn tốt và những thức ăn khác mà người ta đã giạt bỏ ra. Sau khi đem về, rửa sạch nấu chín đàng hoàng, thì không cách gì biết đó là thứ nhặt được từ thùng rác ở siêu thị Safeway. Lúc đó sư huynh lớn người Hằng Cụ vốn đều đặn với những chuyến đi bươi móc, vì Thầy hình như có tài thích hợp với việc lượm lặt, nên biết rõ thùng rác nào là có nhiều sản phẩm nhất. Không hiểu Thầy có dùng thần thông hay không, hay chỉ vì đói bụng, nhưng sao cũng chẳng thành vấn đề. Nguyên là gần chùa có một hãng kẹo và là trạm rác hàng tuần quen thuộc để huynh tôi thăm viếng. Lại thường mang về khoảng mười hay mười hai miếng kẹo lớn – là thứ kẹo đậu phộng dính cứng còng như xi măng, bảo đảm ăn hết một miếng thế nào cũng gãy ít nhất một cái răng hay phải đi trám răng lại. Nhưng dầu sao kẹo nầy cũng không đến nổi tệ lắm. Thế là một hôm, tôi đi ngang qua nhà bếp thấy có một khối kẹo to tướng khoảng bảy mươi lăm pound (34 kg), nằm chình ình trên tấm thớt. Ôi thôi! Mọi người nhốn nháo vây quanh giống như đám ruồi.

Có bài kệ Sư phụ viết lúc xa xưa như sau:

Nhất thiết thị khảo nghiệm

Khán nhĩ chẩm ma biện

Ðối cảnh nhược bất thức

Tu tái tùng đầu luyện.

Nghĩa là:

Mọi sự là thử thách

Xem bạn làm thế nào

Ðối cảnh nhận không ra

Phải luyện lại từ đầu.

Quả nhiên đây mới đúng là thử thách: việc chính yếu là giữ được lòng không rung động bởi dục vọng. Nhưng thực tế thử thách không phải chỉ làm ngơ cho qua lòng ham muốn, mà là làm cách nào để ĂN được khối đường nầy. Có mấy vị đập bể được một miếng khá lớn rồi bỏ vô nồi nấu chảy ra. Nhưng đến khi nguội thì nó đóng cứng lại, chất kẹo và chất kim loại ở đáy nồi quến chặt nhau, rốt cuộc cái nồi cũng bị tiêu luôn. Rồi mấy vị khác tấn công khối kẹo nầy bằng búa, bằng đục và dùng cả cưa sắt nữa. Nhưng sau mấy ngày ăn những món toàn nấu với nó, chẳng hạn như món măng xào có nước sốt bằng chất kẹo nầy, nên không biết ai đó đã khiêng khúc kẹo còn lại quăng trả về thùng rác. Hàm răng bị ê ẩm đã nhắc cho chúng tôi bài học, vì qua sự thử thách nầy một vài chúng tôi đã rớt đài. Như bài kệ đã nói: Chúng ta phải dụng công luyện tập lại từ đầu để có thể nhận ra sự tình trước mắt, nên giữ vững lòng không bị lay chuyển bởi tâm tham.

Cuối ngày hôm nay, lúc hai huynh đệ tôi ngồi bên lề đường, đắn đo không biết nên dựng lều ở đâu, thì ông bà Ed Thayer ngừng lại chở chúng tôi về nhà họ. Ông Ed trước đây ở New York, nhưng đã dọn về đây cất lên một căn nhà khang trang ở vùng Alsea Bay khoảng mười lăm năm rồi. Ông là người đã “không còn mê muội” trước những lễ nghi tập tục của các tôn giáo.

 

Ngày 15 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Tối qua ông Ed Thayer nói cho chúng tôi lý do vì sao ông không còn mê lầm về những tôn giáo Tây Phương. Trong lúc đọc một bản dịch về sự khám phá đương thời của quyển Tử Hải (Dead Sea Scrolls), ông mới biết rằng những giáo lý của chúa Giê-su vốn từng được một vị giáo chủ tên Appolonius giảng dạy ở tu viện cho nhóm người Essene, trước khi đức chúa Giê-su ra đời cả trăm năm. Nhưng trong Thánh kinh đã bỏ qua giai đoạn nói về cuộc đời của ngài Giê-su đã đi học với nhóm người nầy trong khoảng thời gian mười lăm hay hai mươi năm. Sau đó Ngài bỏ đi và bắt đầu đưa ra lý thuyết giảng dạy riêng, gồm sự kết hợp giáo lý tương tợ như tông Tịnh Ðộ của Phật giáo: là thuyết vãng sanh về cõi Cực lạc. Thật ra đức Giê-su đã là một vị Thầy cao thâm nhất, nhưng chính vì những ban Hội Ðồng Giáo Hội và Hoàng đế Constantine, đã đưa đẩy khiến Ngài trở thành một vị Thần Thánh. Lúc bấy giờ người dân đang bị khủng hoảng nên rất khao khát được một vị lãnh đạo tinh thần, đồng thời cũng vì Hoàng đế Constantine muốn thống nhất lãnh thổ, nên đã tập trung dân chúng lại qua giáo lý tinh thông và quyền năng của Thượng Ðế. Từ đó hàng triệu người kính ngưỡng đến vị Trời nầy và xem như ý Ngài muốn gởi gấm qua chúa Giê-su. Ông Ed Thayer nói là ông rất buồn khi thấy những giáo lý tồn tại như ngày nay đã bị sai lệch quá xa cội nguồn của nó. Ông tin rằng mặc dầu đạo Thiên chúa đã làm vô số việc thiện cho thế giới, nhưng con người cũng phải biết chuyển hướng tìm cho mình những phương pháp khác để được một đấng hoàn toàn tối cao hợp nhất.

Hôm nay mưa thật lớn, thật nặng nề. Có hai bà cụ mời chúng tôi vào uống trà và hỏi rằng trong thời gian tập tu ở tu viện, chúng tôi có bị ông Thầy quăng ném giáo mác vào người không. Rõ ràng là họ đã coi quá nhiều tuồng phim đánh đấm công phu trên truyền hình. Lúc chiều tối, có chiếc xe chạy đâm thẳng từ phía sau như muốn cán lên tôi vậy. Hai người đàn ông tuổi trung niên ngồi trong xe vừa chưởi thề thô tục, vừa bóp kèn inh ỏi, lại rồ máy ầm ầm. Tôi vẫn tiếp tục lễ lạy theo nhịp độ bình thường, chẳng thèm ngó ngoái lại phía sau làm gì. Vài phút sau họ bỏ chạy mất.

 

Ngày 16 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Hôm nay chúng tôi lạy được bảy dặm rưỡi với thời tiết thật kỳ khôi. Mỗi khoảng nửa giờ, hết nắng chói chan rồi lại đổ mưa, cứ như vậy mà thay đổi luân phiên luôn. Khi lạy qua bãi biển Seal, có vài người đến hỏi chuyện, gồm một anh ký giả tên Joe Frazier của Associated Press; một anh tài xế lái xe giao mối sữa đã cho chúng một ít sữa tươi; một bà cụ kể rằng ngày xưa nơi đây từng có con đường chạy dài ra tới bờ biển, dành cho xe ngựa chở du khách; một anh buôn bán làm nghề diễn tả những kinh nghiệm tọa thiền của anh; và một cô gái lên tiếng dạy đời khi sư huynh đang lễ lạy bên đường.

Cô ta nóng nảy gằn hỏi: “Bộ ông không tin Giê-su là con của Thượng Ðế hả?”

Khi chúng tôi đến cây cầu bắt ngang qua vịnh Yaquina, trước khi vào khu phố Newport, có hai phóng viên là Jim Newman và Roland Chase của đài truyền hình ở Portland đến phỏng vấn và chụp hình liên tục.

Hồi còn ở tiểu học, tôi rất ghét khi phải một mình đứng trước lớp. Ðến lúc phải làm bài tường thuật, tôi sợ hãi và quên sạch những gì mình muốn nói, để cuối cùng chỉ có thể luống cuống đọc từ tờ giấy đã ghi sẵn thôi. Có lần chúng tôi phải làm thơ, và Thầy giáo lần lượt kêu tên từng người đứng trước lớp đọc. Khi tới phiên, tôi đọc thật lẹ cho xong, rồi chạy trở về chỗ ngồi. Bài thơ quá ngắn đến nỗi ông thầy lên tiếng mỉa mai: “Ðừng có đụng vào tay nó, thiệt tình nó bị mỏi nhừ vì đã viết bài thơ dài quá xá như vậy.” Ông thầy cũng chịu thua luôn. Lên đến trung học, tôi cũng vẫn còn cái tật đó, nhưng lại thích thổi kèn trong ban nhạc vì không phải chỉ có mình tôi trên sân khấu.

Chính ra tánh sợ hãi của tôi chỉ hơi kỳ dị chút ít thôi, tại tôi đã thổi phồng nó lên phần nào, và dùng nó như bộ giáp che chở bảo vệ cái “ngã” của tôi. Nhưng hôm nay, khi máy thâu phim của đài truyền hình bắt đầu quay và máy ghi âm thâu lại từng lời nói, tôi xem tất cả chỉ là những mảnh vụn của trò chơi sắp chữ. Ở đây đang có hàng ngàn người đang theo dõi, nhưng tôi chẳng nhút nhát lo sợ tí nào. Có lẽ trong mấy tháng qua vì tiếp xúc chuyện trò với bao nhiêu người xa lạ, nên tôi đã bỏ quên đi cái “ngã” của mình, và cũng có thể tôi đã nhận ra mối nghi hoặc không hiện hữu của nó. Ðiều nầy có thể chẳng quan trọng đối với những ai đã từng dạn dĩ dưới ánh đèn pha, nhưng đối với tôi hôm nay mới là ngày đánh dấu cho một chiến thắng cá nhân thật sự.

Ông bà Maxfield sắp đặt cho chúng tôi một phòng trong khách sạn của họ ở West Wind Motel, thuộc vùng Newport để nghỉ qua đêm. Phải công nhận rằng hôm nay tôi cảm thấy thật là vui.

 

Ngày 17 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Hôm nay lạy được sáu dặm rưỡi dưới bầu trời chói chan. Hồi sáng nầy vừa lúc qua ranh giới phía bắc thành phố Newport, tôi dừng lại đi tiểu trong rừng cây phía sau ngôi nhà thờ tân thời phái Tân Giáo Lutheran. Khi đi ngang qua tôi thấy tấm bảng hiệu ghi là Mục sư Olson. Lúc đó tôi cũng chẳng nghĩ gì cả. Rồi tôi tiếp tục lạy tiến về hướng bắc, được khoảng hai giờ sau thì có một cặp tuổi trung niên dừng lại hỏi chuyện. Tôi thấy họ có vẻ lanh lợi hoạt bát, nên hỏi họ có thuộc tôn giáo nào không?

Người đàn ông trả lời: “Có, cả hai chúng tôi đều là tín đồ phái Tân Giáo.”

Từ trước đến nay tôi chưa hề đến Newport bao giờ, và không biết cái gì đã xui giục tôi lại buộc miệng nói ngay: “Ồ! Phải rồi, ông bà Olson đây mà!”

Tôi đã nói trúng ngay chốc, khiến hai ông bà ngạc nhiên muốn ngã ngửa. Ở vùng Newport nầy có biết bao nhiêu tín đồ Lutheran mà sao thật ngẫu nhiên gặp ngay chính họ. Nhưng tôi vẫn giữ nghiêm nét mặt và tiếp tục nói khoảng vài phút, trong khi họ chăm chú lắng nghe từng lời.

Bà Cude dáng người nhỏ bé, đã chia sẻ phúc báu của bà cho chúng tôi với bánh mì, phó mát và trái cây. Nhưng đáng tiếc thay, những thứ chia sẻ nầy vẫn chưa đủ vì bà còn muốn cho thêm một cái ôm thật chặt nữa, nên chúng tôi phải hết sức khéo léo lựa lời để tránh né. Có hai anh chạy xe gắn máy hiệu Harley Davidsons, sau vài phút nói chuyện với tôi, họ tỏ vẻ ưa thích về ý kiến làm kẻ đơn độc trên xa lộ ngoài nầy.

 

Ngày 18 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Ông Russ Jamieson từ đài radio KMED ở Medford đến phỏng vấn ghi âm chúng tôi. Có viên cảnh sát thuộc lính mới ngừng lại, bắt chúng tôi lên xe ngồi chờ phía băng sau. Rồi ông gọi máy về tổng đài để họ dùng máy điện tử kiểm xét xem chúng tôi có phải là tội nhân gì đây. Ông định bụng chắc bọn nầy nếu không là lính thủy đào ngũ, thì cũng là bệnh nhân ở nhà thương điên trốn ra thôi. Nhưng tìm mãi chẳng có lý do gì để bắt bớ, thế là đành phải thả chúng tôi ra.

Khi chúng tôi đi ngang qua vùng Depoe Bay, thì gặp bà Walter ở ranh giới hướng bắc khu phố. Bà cảnh cáo phía trước có căn nhà đầy cả người say đang chờ chúng tôi. Bà nói bọn họ nhậu nhẹt suốt cả ngày nay và đang có một cuộc tiệc thật lớn để đợi chúng tôi đến. Có mấy ông liệng ném lon bia ra ngoài đường, một số khác kéo nhau ra trước lề đường giả đò bắt chước quỳ lạy. Trong khi chúng tôi đang đứng bàn luận về việc nầy, ông Baker, chủ nhân cho mướn phòng ngủ ở vùng nầy, chạy trờ tới và hứa cho chúng tôi một căn phòng để nghỉ đêm. Tôi ngước nhìn về phía trước, thấy rõ đám người say, thỉnh thoảng có một ông chạy ra đường ngó chừng xem chúng tôi đã tới chưa. à há, lại là lối lựa chọn cũ rích, hoặc là đón nhận những ly sữa mời niềm nở, hoặc là tiến quân xông vào cuộc chiến? Tôi cảm thấy hôm nay mình đã đủ sữa rồi, nên chỉ muốn xông thẳng vào trận địa.

Tôi bảo: “Hay là đệ cứ về phòng ngủ trước để dọn đồ ra, còn huynh sẽ lạy thêm một tiếng hay hơn nữa rồi sẽ đi bộ về sau.”

Thầy Hằng Do trả lời: “Không làm gì hết! đệ đi tới đó, đệ đi tới đó ngay bây giờ!” Nói xong Thầy cúi xuống vác bị lên vai, túm lấy chiếc xe, rồi kéo thẳng về hướng mấy người say xỉn.

Bà lão la lên: “Ngừng lại! Mấy cậu làm như vậy thật là sai lầm lắm đó!”

Tôi mang bao tay vào, sửa lại cái bao đầu gối tin cậy, và bắt đầu đúng theo nghi thức tam bộ nhất bái xuống mặt lộ. Những âm thanh “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát” liên tục vang rền trong tâm tôi như đoàn tàu xe lửa. Thầy Hằng Do tiến gần về đám người một cách hiên ngang nhất quyết. Từ khoảng cách chừng trăm bước về phía trước, tôi thấy độ chừng mười một người, nhưng họ có vẻ giạt ra khi Thầy Hằng Do đến gần. Thật ra trông họ cũng có vẻ sợ sệt đấy. Thầy Hằng Do vẫn tiếp tục tiến thẳng, đến lúc chỉ còn cách chừng năm mươi bước, là họ hoàn toàn nhốn nháo tản giạt ra, hầu hết chạy trở vào nhà. Có một ông núp nơi an toàn ném ra mấy viên sỏi nhỏ, nhưng tâm không phải cố ý chọi cho trúng. Sư Hằng Do ngừng hẳn ngay trước căn nhà, chờ tôi lạy tới. Như có chiếc xe ủi đất đã dọn đường bằng phẳng. Tôi lạy qua chẳng có chuyện gì. Chỉ nghe vài tiếng lầm bầm, coi như họ bất lực không làm được gì. Sau trận đụng độ nầy, chúng tôi cảm thấy nghị lực tăng gia, nên đã lạy thêm hai dặm rưỡi nữa. Tính ra hôm nay chúng tôi lạy được tám dặm rưỡi, khoảng đường dài nhất từ trước đến nay. Vừa định dựng trại bên đường, bỗng có một chiếc xe chở đầy mấy ông nhậu hồi nảy đến ngỏ lời xin lỗi.

Thầy Hằng Do nói: “Ồ! Không sao đâu, đừng lo nghĩ về chuyện đó nữa.”

 

Ngày 19 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Hôm nay cha mẹ của Quả Hồi Weber đến thăm và mang theo thực phẩm cho chúng tôi. Bà Weber kể lại những chuyện tức cười trong lúc đi tìm chúng tôi. Bà nói trong khi dọc đường dọ hỏi về việc làm của chúng tôi, thì thấy ý tưởng của mỗi người mỗi khác. Có ông thì nói: “Tôi không biết họ đang làm cái gì, nhưng chắc họ có cách tốt hơn để lên thiên đàng.”

Còn em bé gái thì nói: “Có, con thấy một người đàn ông cứ quỳ lạy mỗi khi có một chiếc xe chạy qua.”

Lúc chiều xuống có ông già lỗ mũi đỏ ửng, đã say men, đến bên Thầy Hằng Do nói: “Tôi không biết mấy ông đang làm gì, nhưng tôi hy vọng các ông cứ tiếp tục như vậy mà làm.”

Chỉ bằng những lời nói chan chứa chút ít vui nhộn đó, là đã giúp chúng tôi phấn chấn tiếp tục lên đường.

 

Ngày 20 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Khu phố Lincoln kéo dài khoảng bảy dặm dọc theo bờ biển. Khi chúng tôi lạy xuyên qua phố, có đủ hạng người như: hip-pi, bình dân, đám mô-tô Thiên Thần của Ðịa Ngục (Hells Angels), các vị bô lão và trẻ nít đến chào đón. Trong khi chúng tôi ngừng lại ăn cơm ở bãi đất trống trong phố, có ông ký giả nhà báo đến phỏng vấn. Ngay cả ông Roy Sutton, cảnh sát trưởng quận Lincoln, cũng đến bắt tay chúng tôi. Ông cảm kích về tướng mạo của sư huynh.điều làm ông nể phục nhất là khi biết chúng tôi có thể đi xa như vậy mà mỗi ngày chỉ ăn có một bữa cơm chay thôi. Sau bữa ngọ chúng tôi lại tiếp tục, có nhóm chuyên viên đài truyền hình đến quay cảnh chúng tôi đang lễ lạy qua khu phố. Lúc sắp dừng nghỉ, thấy có hai chiếc xe xém chút nữa là đụng nhau, vì mấy anh tài xế lơ đãng không chú ý, chỉ có thế thôi.

Sau khi lạy được bảy dặm ba phần tư, chúng tôi dựng lều trên khoảng đất trống an lành bên đường.

 

Ngày 22 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Ðến giữa vùng Neotsu và Winema Beach, con đường dẫn vào nội địa khoảng vài dặm. Hôm nay chúng tôi lạy dọc lên dãy đồi, trước khi đến vùng Neskowin. Ði trên đường với những cây trụi lá và ánh mặt trời nóng cháy cứ tiếp tục chói rọi, khiến chúng tôi muốn bệnh say nắng luôn. Tệ hơn nữa là nước uống lại hết sạch. Nên tôi đi thẳng lên trên đỉnh đồi, sau một lúc tìm tòi thì khám phá ra một dòng suối mát trong veo. Lòng nghĩ thầm: “Chờ đến lúc sư huynh nếm qua mùi nước cam lồ nầy thì mới biết.” Múc đầy bình, tôi trở lại chỗ chiếc xe kéo và bắt đầu lạy. Nửa tiếng sau sư huynh cũng tới, nhưng thấy huynh tôi liệng đôi bao tay xuống đất rồi ngồi bẹp trên chỗ đất sốp mềm. Tôi cảm thấy hình như có chuyện gì không ổn, nên không dám lên tiếng. Phút chốc tôi chợt hiểu ra: A! thì ra tại mình đi quá xa về phía trước mà quên nghĩ rằng rủi có chuyện gì xảy ra một trong hai chúng tôi, thì làm sao mà người kia biết được. Nên tôi gượng nói: “Uống nước đi, thật là mát lịm vậy đó!”

Rồi cả hai chúng tôi uống nước trong im lặng. Bấy giờ tôi nhìn lại, sự cố chấp khăng khăng từng hỗ trợ cho những giận hờn bực bội trong lòng, như đã chấm dứt ngay từ đó. Nhưng có điều tôi đã quá kiêu mạn, không chịu kéo bỏ cái ngã để mà xin lỗi. Thế là chúng tôi cùng ngồi bên vệ đường, mà trong lòng mỗi người ai cũng có lý phải của mình để sẵn sàng trách móc đổ lỗi lên đầu người kia.

Có lẽ những chuyện giận hờn nhỏ nhoi coi như không quan trọng, vì một lúc sau chúng cũng sẽ lắng dịu xuống, thì tại sao mình phải làm cho nó lớn chuyện ra? Nhưng nếu nhìn kỹ để suy rộng hơn về những phiền hờn cỏn con đó, nếu không được quản thúc thì chúng sẽ lớn dần để trở thành thù hận, là nguyên nhân khiến con người đi đến cãi vã, đánh nhau. Một bước xa hơn nữa, lòng thù hận và sân giận chính là nguồn gốc gây ra chiến tranh. Cho nên nếu chúng ta chịu loại trừ những ý nghĩ ác độc trong tâm hồn, thì chúng ta sẽ không có lý do gì để phát sanh những hành động thô bạo dù ở bất cứ trường hợp nào.

Nghe qua thì thấy nó đẹp làm sao, nhưng đó chỉ là trên giấy trắng mực xanh thôi, chớ bình thường mà đem những điều nầy áp dụng vào cuộc sống hằng ngày thì thật là quá thử thách. Một lúc sau, sư huynh Hằng Cụ nhìn tôi, tôi nhìn lại, sư huynh Hằng Cụ đứng lên, ngó quanh một vòng và nhổ phạch một bãi nước miếng xuống đất, rồi tiếp tục lễ lạy. Trời ơi! Con cảm thấy mình nhỏ bé quá.

Ra khỏi vùng Neskowin, có một bà cằn nhằn gắt gỏng sư huynh “Ông nghĩ là ông đang làm cái gì vậy hả?”

Sư huynh Hằng Cụ từ tốn trả lời: “Lạy cho thế giới hòa bình.”

Bà ta nạt nộ: “Vậy à! Ông có thể nói điều nầy ở trạm cảnh sát đó.” Rồi bà bỏ chạy vào nhà để gọi điện thoại, nhưng chả thấy có ông cảnh sát nào đến cả. Sau đó có mấy cậu bé vùng Neskowin đem đến cho chúng tôi một túi trái cây. Rồi có một cô gái đạo Thiên Chúa, cố gắng thuyết phục chúng tôi chuyển đạo ngay tại chỗ.

Tôi bảo cô: Cứ quán tưởng rằng tất cả mọi việc điều do tâm tạo, nhưng cô nàng nghe đâu có hiểu tôi nói gì.

Hôm nay chúng tôi cũng lạy được sáu dặm ba phần tư, dù bên lề đường đầy những khí độc địa. Dựng trại về phía nam vùng Cloverdale trên một ngọn đồi ẩn mình phía sau con lộ. Chúng tôi hái những trái be-ri chín cho bữa trưa mai.

 

Ngày 23 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Dưới cơn mưa chúng tôi lạy được bảy dặm. Mấy em học trò lớp tám ở vùng Cloverdale đến nói chuyện với chúng tôi ở sân cỏ phía trước. Sau đó có em trung học đến phỏng vấn Thầy Hằng Do để viết một bài cho tờ báo của trường.

Lúc ở Hebo, chúng tôi có gọi điện về Kim Sơn và nói với Sư phụ về chất độc ở bên đường. Nhưng Sư phụ bảo việc đó không sao, rồi dạy cách thức cho chúng tôi như: khi đứng lên thì thở, khi quỳ xuống thì ráng nín đừng hít vào. Ngài còn khuyến khích chúng tôi mỗi ngày phải càng thành tâm hơn và đừng có nói chuyện vớ vẩn với mấy anh ký giả, phóng viên, vì họ thường hay cố tình chỉ thâu lượm những gì có tánh cách dị kỳ, lạ thường mà bỏ quên đi những điểm quan trọng. Tôi cũng nói với Sư phụ rằng những gì tôi làm đều có tính cách dị kỳ, lạ thường, nhưng Ngài bảo đừng lo nghĩ làm chi về chuyện đó.

Cha Gerald tự giới thiệu là tu sĩ dòng Thánh Benedictine ở chủng viện St. Angel, đã hỏi người xứ đạo của ông là ông bà Hurlemans cho chúng tôi dựng lều trên đồng cỏ nuôi bò của họ, và được họ tán thành đồng ý ngay. Cha Gerald có giáo đường ở cả hai vùng Cloverdale và Tillamook, nên đã mời chúng tôi ghé lại khi đi ngang vùng Tillamook.

Bây giờ trời đã khuya, mưa rỉ rả rơi trên tấm mủ phủ trùm bảo vệ chiếc lều, như nói rằng: “Xin báo cáo, cả căn lều không có chỗ nào bị dột hết.”

 

Ngày 24 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Một ngày mưa gió bê bết. Chúng tôi dùng cơm dưới gầm cầu, vì nơi nầy còn có vẻ khô ráo. Con đường nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo, lại có rất nhiều xe vận tải kềnh càng qua lại khiến chúng tôi mấy lần xém bị tông vào.

Chiều đến Thầy Hằng Cụ kể lại là trong lúc tôi đi ở phía trước thì có hai chiếc xe ngừng lại bên Thầy, rồi một người đàn ông tóc vàng quăn, ló đầu ra cửa xe nói: “Hãy tiến lên! Hãy tiến lên! Ðừng ngừng, đừng ngừng, đừng ngừng!” Rồi cả chục người bước ra xe từ từ đi lại. Thầy Hằng Cụ nghĩ thầm chắc là một bọn du côn muốn tới kiếm chuyện gì đây, nhưng sau đó vị xếp đầu quăn đến gần, kính cẩn chắp tay và nói với giọng thật êm dịu: “Shanti” (tiếng Ấn Ðộ có nghĩa là Bình an.) Và đưa cho Thầy một trái chanh, nói tiếp: “Chúng tôi đã theo dõi những tiến trình của các ông qua báo chí, tôi nghĩ rằng việc các ông làm thật là tuyệt diệu.”

Thầy Hằng Cụ không nói lời nào. Khi ông đó trở về xe, có một người trong nhóm, mỉm cười nói với Thầy : “Ông vừa gặp ông Ken Kesey đó.”

Gần đến giờ ngừng lạy trong ngày, ông John Whecler là một nhà nông cần cù đến chở chúng tôi ra khỏi cơn mưa, và đưa về mảnh đất mười mẫu của ông chạy dài về hướng đông vùng Beaver. Ông có hai người em đang chuẩn bị dùng chiếc xe hàng cột nối sợi dây xích để kéo thẳng căn nhà xe cũ kỹ đang bị lún quằng xuống. Thấy cách họ làm, tôi nghĩ thế nào cũng có chuyện xảy ra, nhưng không nói gì cả. Họ buộc sợi dây xích sắt vào một cây đà rồi kéo một chút và kéo thêm một chút nữa. Thấy căn nhà có vẻ đã vừa đủ thẳng rồi, nhưng họ lại cố kéo chỉ thêm một tí xíu nữa thôi, để rồi mọi người ngỡ ngàng nhìn cả căn nhà xe sập xuống một cái ầm.

Chúng tôi ngủ trên giàn gát chứa cỏ khô và bên dưới là cái chuồng của một đàn dê.

 

Ngày 25 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Có chiếc xe truck cũ kỹ kéo theo căn nhà gỗ, ngừng lại. Bốn ông đầu tóc bùm xùm, nhưng có vẻ thiện cảm đến chào đón chúng tôi. Một ông đầu bùm xùm nhất trong nhóm nói: “Các ông có muốn sữa dê tươi không?”

Tôi đáp liền: “Dạ!”

Rồi ông đi về phía sau mở tung cửa xe, hiện lộ bên trong thật là một con dê cái đang chỉa đuôi về phía chúng tôi. Ông lấy cái bình không và bắt đầu vắt ra dòng sữa tươi ấm hỉnh. Sau đó chúng tôi đứng thành vòng tròn, chuyền tay nhau bình sữa mà nhấp uống. Tôi nói: “Thật không còn gì tươi bằng!”

Anh cao nhất có thân hình giống tạc như hóa thân của Ben Hur nói: “Xin các ông nói rõ cho chúng tôi biết các ông đã học được những gì trong chuyến đi nầy.”

Tâm trí tôi bắt đầu quay chuyển chớp nhoáng, trở lại hình ảnh của hàng trăm dặm đường đã đi qua và hàng ngàn người mình đã từng tiếp xúc. Câu hỏi có vẻ hơi khó đấy! Vì không có cách nào mà tôi có thể trả lời chỉ bằng vài câu được cả, nên tôi cứ lặng thinh và sau một lúc chúng tôi đứng trong im lặng. Cuối cùng anh cao đó nói: “Chúng tôi nghĩ rằng việc hai anh làm thật có giá trị, hy vọng các anh sẽ đạt tới đích.”

Chiều xuống, Andy và Sheila chở chúng tôi về nhà và giới thiệu với ông bà nội cùng bạn bè của họ. Quả Hỷ Sheila vừa quy y theo đạo Phật và cũng vừa được phục hồi sau cơn đau lưng rất trầm trọng, việc nầy khiến bác sĩ cũng phải ngạc nhiên và nói đó là một sự nhiệm mầu.

 

Ngày 26 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Có chú thanh niên từ vùng Tillamook ngừng lại xin tôi giải thích sơ về phương pháp tu đạo Phật để một người có thể áp dụng theo. Chúng tôi đi vào cuộc bàn luận và tôi liệt kê ra những điều căn bản cho anh biết:

Ðiều 1: Cố gắng đừng tạo nghiệp dữ. Giữ tâm và hành động luôn thanh tịnh, bằng cách đừng để tham, sân, si, sai sử.

Ðiều 2: Quán tâm như hư không, có thể hàm chứa tất cả mọi vật như khoảng không gian bao trùm tất cả những hành tinh. Chân tâm rộng lượng, vĩ đại, vô chướng ngại và ở trình độ cứu cánh thì sẽ là “vô trí diệc vô đắc (không biết, cũng không đắc).”

Ðiều 3: Phải biết rằng không có phương pháp cố định và cũng không có giáo lý nhất định. Chúng ta nên gìn giữ giới luật, pháp hành và thệ nguyện của mình, nhưng đồng thời coi vạn pháp kể cả những giáo lý, thuộc về tương đối và là những sáng tạo huyền ảo, tự chúng không là thật.

Ðiều 4: Nhìn sự vật theo pháp Trung đạo, vì cuộc đời đầy ấp những cực đoan và đối đãi. Lại nữa, trong phạm vi của những ngôn từ và lý lẽ không diễn tả chính xác được Thật tướng. Tốt và xấu, lớn và nhỏ, trong và ngoài, còn bao nhiêu cặp đối đãi khác nữa đều là những nhãn hiệu, có tính cách tương đối, hạn cuộc. Chúng không gì hơn là những tiêu chuẩn đặt để từ sự tưởng tượng của ai đó, hay những bản hiệu không thực tế tô phết lên sự thực vốn không phân biệt. Ðạo Phật dạy con người nên tập nhìn mọi sự từ Trung đạo, từ vô niệm. Như lời Sư phụ nói: “Thượng vô Thiên, hạ vô Ðịa: Hư không phấn toái dã.” (Trên không trời, dưới không đất: hư không cũng vỡ tan.)

 

Ngày 27 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Hôm nay là ngày lễ Tưởng Niệm Chiến Binh. Xe cộ có phần đông đúc và gió thổi ào ạt. Cả hai chiều trên xa lộ, mấy ông say, đua nhau tăng tốc lực. Thế nên phòng thân để khỏi bị đụng vào, chúng tôi quyết định tạm ngừng lễ lạy.

Chúng tôi cắm lều trên một đồng cỏ cao lêu nghêu. Khoảng nửa đêm, có con chuột thật bự (nặng cũng khoảng hơn một ký lô), leo lên chiếc xe kéo và bắt đầu ra tay. Chúng tôi giựt mình thức giấc vì những tiếng nhai gặm nghe rào rạo. Vì cớ làm sao, con chuột dơ bẩn nầy lại lọt vào chỗ thức ăn của chúng tôi vậy cà? Tôi chui ra khỏi túi ngủ và chụp lấy đèn pin rọi thẳng về chiếc xe kéo, cách phía trước lều chỉ khoảng bốn bước. Chính hắn đây rồi, tên vô loại không biết xấu hổ, đang đứng trên xe, dồn từng bụm bánh mì vào miệng. Nó cắn lủng túi ny-lon, xuyên qua cả mấy lớp bao mủ và đã tiêu thụ bánh mì thơm ngon cũng khá nhiều. Tôi rọi đèn chiếu thẳng vào mắt nó, vừa lúc Thầy Hằng Do ra khỏi lều. Cả hai chúng tôi đứng cách nó chỉ độ ba bước thôi, vậy mà hắn ta vẫn tiếp tục cạp ăn ngốn nghiến. Mấy miếng bánh thật đã làm hắn mê mết. Trong đạo Phật gọi đây là “Biết sai nhưng cố phạm.” Tay mặt cầm đèn rọi vào mắt nó, tay trái được sư Hằng Do xỏ bao tay vào, tôi chầm chậm đi vòng phía sau nó. Vừa trân mình định chụp, thì nó nhảy vọt lên, rốt cuộc tôi chỉ đụng được cái đuôi nó thôi. Ðúng đồ chuột! Hắn dzọt rồi!

Con người cũng có thể trở thành chuột. Nếu họ chỉ biết hành động giống như loài chuột thì sẽ thành chuột ngay, chẳng cần phải đợi đến kiếp sau. Thành chuột không đuôi ngay ở đời nầy.

 

Ngày 28 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Chúng tôi tiến qua vùng Hemlock và thung lũng Pleasant, dọc theo xa lộ trong đất liền, và hướng về thành phố Tillamook, nơi nổi tiếng sản xuất pho mát (cheese). Hôm nay vùng nầy đang có cuộc bầu cử, nên hồi sáng sớm chúng tôi đã bị một cụ ông tóc đã bạc phơ, đang trên đường đi bỏ phiếu, cằn nhằn là tại sao chúng tôi không chịu đi bầu. Lúc xế chiều, ông bà Kleins từ quận Portland đến tận ngọn đồi để thăm chúng tôi một lần nữa.

Tuần rồi tôi có đề cập về vấn đề dục vọng, nên nay lại bàn thêm. Khi chúng tôi đọc kinh điển và được Sư phụ giảng dạy rõ ràng, thì hiểu rằng dục vọng nó có thể giả dạng dưới trăm hình vạn tướng, không những chỉ che lắp cái trí tuệ sáng suốt sẵn có của chúng ta mà nó còn gây ra lắm điều phiền não. Ví như khi thấy khối kẹo hơn ba mươi bốn ký lô (75 pounds) thì lòng tham muốn nổi vọt lên, nhưng lúc đó Sư phụ đã làm thinh để tự chúng tôi học lấy bài học kinh nghiệm của chính mình.

Không đạt được điều mình ham muốn thì chúng ta thất vọng. Thâu nhận những gì không ưa thích thì chúng ta hờn giận. Chúng ta có lẽ đã bỏ nhiều công sức, thời gian và tiền bạc để có được những vật chất đẹp đẻ, nhưng sau đó cũng vẫn không hài lòng và phiền não bởi vì lửa ham muốn phừng cháy cao hơn theo những điều ta càng muốn thêm nữa. Và tiếp tục đến vô độ, rồi tự làm hại mình và hại luôn đến kẻ khác.

Ðiều nầy cũng không dễ gì chấp nhận được đâu, như đa số người tin theo Phật pháp một cách nghiêm túc mà vẫn chưa chịu dứt khoát đoạn dục. Lại có người cho rằng đoạn dứt lòng tham không có ích dụng gì cả: “Tại sao tôi không nên hưởng thụ chớ?”

Lão tử đáp:

Phu duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.

Thánh nhân bất bệnh, dĩ kỳ bệnh bệnh,

Thị dĩ bất bệnh.

Nghĩa là:

Chỉ khi nào ta biết được những tật bệnh của mình thì ta mới hết bệnh.

Thánh nhân không bệnh bởi đã rõ bệnh tật mình nên không bệnh.

Ðây là điều bí quyết của sự khỏe mạnh.

Tật bệnh là dục vọng. Vì đã không chấp nhận rằng ta đau khổ vì nó, nên ta không tìm cách loại bỏ nó để được mạnh khỏe. Cũng như có người không tin mình bị ung thư, thì sao y lại đến gặp bác sĩ để chữa trị chớ?

 

Ngày 29 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Tôi thức dậy trước khi mặt trời ló dạng và lễ lạy được một lúc, rồi tạm ngừng ngồi nghỉ dưới chân cầu. Mười phút sau tôi lại tiếp tục, nhưng bỗng nhiên bụng đau nhói, nên tôi trở lại phía chân cầu để nghỉ thêm chút nữa, thì khám phá ra mình đã bỏ quên quyển sách gồm những bài Chú mà tôi tụng niệm. Bụng tôi chẳng mấy chốc hết đau.

Khi gần đến vùng Tillamook, chúng tôi gặp hàng mấy chục bạn bè thân thiện. Nguyên là cô Linda Glass hướng dẫn một chiếc xe chở đầy học trò đến gặp chúng tôi. Nhớ lời mời lúc trước, chúng tôi ghé lại giáo đường Sacred Heart Parish để thăm Cha Gerald, rồi được Cha đưa đến viếng một trường trung học, và chúng tôi có buổi nói chuyện với đám học sinh lớp mười. Lúc chúng tôi dứt lời, Cha Kenneth, Mục sư phụ tá hướng dẫn cả lớp cầu nguyện: “Nguyện cầu cho hai ông nầy tìm được bình an trong đức Chúa Giê su của chúng ta, A Men.”

Chúng tôi đi qua khu phố một mạch mà không có vấn đề gì (tuy có một chiếc xe cảnh sát lúc nào cũng qua lại đó đây). Chúng tôi nghỉ lại đêm tại nhà ông Ted và bà Ivy Mullan. Thật là một đêm ngủ an lành. Ông Ted cứ muốn đưa chúng tôi lên chiếc máy bay do chính tay ông làm, nên chúng tôi thay phiên từng người một leo lên để ông lái. Khi bay cao khoảng ba ngàn feet (hơn 900 mét) về hướng bắc, nhìn xuống lộ trình tương lai của chúng tôi, thấy không gì hơn mà chỉ toàn là bờ biển và xa lộ chạy dài mút mắt.

 

Ngày 30 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Do viết:

Hôm nay khi chúng tôi đang trên đường dọc theo vịnh Tillamook về hướng bắc, thì có nhóm hội sinh viên thuộc ban Công Dân của đài radio trong vùng cho chúng tôi những ly trà nóng. Khu vực nầy có tới khoảng hai trăm hội viên, họ nói rằng các đường dây liên lạc lúc nào cũng bận rộn theo dõi địa điểm lộ trình của chúng tôi.

Ðến gần vùng Garibaldi, có chú em hỏi chúng tôi có phải là những ông Sư Thiếu Lâm không? Chắc em nầy coi phim công phu trong truyền hình nhiều lắm rồi. Chú bé không chút ngại ngùng khoe khoang bảo là rất hãnh diện khi đã đánh hạ được thằng bạn trong trường. Thấy rõ em rất say mê tuồng phim mạo hiểm của một ông Sư tứ cố vô thân sống ở miền Tây Mỹ vào thế kỷ thứ mười chín. Chuyện phim được trích dẫn hay đúng hơn là trích dẫn sai lầm những triết lý của Lão Tử và Khổng Tử, vậy mà tuồng phim rất được mọi người ưa chuộng. Nhưng nếu ta nhìn thủng lớp vỏ trá hình triết lý Ðông Phương, thì đây cũng chỉ là trò biểu diễn đánh đấm bạo động hàng tuần trong đài truyền hình mà thôi.

Trẻ con huân tập xem những chương trình như vậy giờ nầy qua giờ khác, hết ngày nầy đến ngày khác, ngay cả trước khi chúng biết nói biết đi. Cho nên, các em bị đầu độc và cho rằng bạo động là phương pháp để thành công. Và tại sao? Vì những người quảng cáo tham lam muốn nó được xen kẽ bởi những mục quảng cáo kích thích để bán các sản phẩm của họ. Là vì nếu chuyện phim có hấp dẫn được nhiều người xem, thì sẽ có dịp thấy luôn sự cổ động quảng cáo kèm theo đó. Tôi không phải là chuyên viên thông truyền gì cả, nhưng chỉ muốn minh bạch cho thấy rõ vấn đề trẻ con phải chịu ảnh hưởng bởi sức thu hút mạnh mẽ nầy. Và đến khi chúng lớn lên không sao tránh khỏi sự trả giá quá đắt, để được thỏa lòng tham lam của người quảng cáo. Tôi không biết các nhà soạn giả tuồng công phu có để ý là Lão Tử mà họ thường lấy làm dẫn dụ trong chuyện phim đã nói: “Người hung hăng bạo động sẽ bị tận diệt trong cảnh bạo tàn.”

Ông bà Blackwell ở Garibaldi sắp đặt phòng cho chúng tôi về nghỉ ở nhà họ.

 

Ngày 31 Tháng 5 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Lúc đi qua vùng Rockaway, có hàng trăm người đến hỏi chuyện, kể cả một anh cảnh sát trưởng thân thiện. Chúng tôi nhận thấy phương pháp tốt nhất liên quan đến việc chúng tôi làm là nên diễn giải với mọi người theo đúng danh từ tôn giáo của chính họ. Khi đạo Phật từ Ấn Ðộ chuyển nhập đến Trung Hoa đã bị biến hóa lẫn lộn vào những ngôn từ, tư tưởng của đạo Khổng và đạo Lão, để rồi hợp nhất tất cả thành một phái không thể tách rời được. Chúng tôi cũng nhận ra rằng sau những lần tiếp xúc, thật không ích gì nếu cứ cãi lý với người về tôn giáo tín ngưỡng. Nếu có người đã quyết lòng muốn đến thuyết phục chuyển hóa chúng tôi thì họ sẽ không cảm hứng gì để nghe những ý kiến của chúng tôi. Cho nên điều tốt nhất trong hầu hết các trường hợp là chỉ nên giữ thái độ thân thiện với họ là hơn, tuy tôi rất mong có thể san sẻ được với họ là tôi không tin vào vấn đề đúng sai. Tôi nghĩ rằng tất cả tôn giáo đều có giá trị và đều phục vụ nhu cầu con người như trong lúc họ tăng trưởng đời sống tâm linh. Chính đạo Phật cũng chỉ là nấc thang để bước qua. Ðức Phật so sánh giáo lý của Ngài như một chiếc bè, chỉ tồn tại để đưa giúp người qua đến bên kia bờ. Tuyệt vời biết bao nhiêu nếu chúng ta đừng vội vàng phân loại lẫn nhau vào những phạm trù hư cấu do những định kiến sai lầm.Thật ra con người rất phức tạp và cũng rất đặc sắc, thì làm sao mà phân loại một cách vô lý như vậy được.

 

Ngày 1 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Do viết:

Con đường quanh co dẫn theo vịnh Nehalem, vùng đất bị trũng xuống sình lầy toàn rong biển và những khúc cây trôi tấp trên bãi đất cát. Những dãy đồi thấp thoáng lờ mờ xa tít về hướng tây.

Vào buổi chiều, chúng tôi đi theo lối quẹo xuống đồi để vào một khu phố nhỏ vùng Wheeler, nơi đây hình như mọi người đang vây quanh chờ đợi để được nhìn chúng tôi lễ lạy ngang qua. Ông chủ tiệm tạp hóa trong phố bảo chúng tôi cần gì thì cứ tự nhiên mà lấy, nên chúng tôi chỉ xin một cái dao cạo râu. Sau một lúc nghỉ xả hơi, cậu cháu trai của ông chủ tiệm nầy đã từng là chủng viên của tu viện Thiên Chúa Angel, đến phỏng vấn chúng tôi cho bài báo của thành phố. Anh ta đã hỏi mấy câu rất chí lý.

Trong cuộc phỏng vấn, anh nầy một đôi lần cứ than phiền: “Triết lý của các ông phức tạp quá.”

Ðáng tiếc thay, những cố gắng của tôi để diễn tả một cách giản dị những lý căn bản của nghiệp quả, luân hồi và giác ngộ đã làm đối phương phản đối. Tôi bắt đầu cảm thấy hết phương cách, và thất vọng bởi vì tôi càng giải thích đơn giản hơn thì những đối nghịch càng gút mắc vào tâm người phỏng vấn. Cuối cùng cảm thấy mất thời giờ quá nên tôi nói: “Thôi mình đi sư huynh ơi!”

Chúng tôi được một chú bé dẫn đường lên cánh đồng cỏ ở ngọn đồi cao phía trên thành phố để nghỉ qua đêm.

 

Ngày 2 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Lễ lạy sáu dặm dưới cơn mưa bão vùng Oregon cũng không tất yếu là điều khó thực hành cho lắm. Tôi chẳng để ý gì đến nước ngập, và sau một lúc, nó hầu như không thực có ở quanh đây. Thật ra, lúc nầy cảnh vật rất yên tỉnh nên đáng được thưởng ngoạn. Chúng ta sẽ thấy mưa tưới nhuần cây cỏ và làm cho tất cả cảnh vật trở nên tươi mát sạch sẽ hơn. Ðáng tiếc thay, vì hầu hết mọi người đều chạy vội vào nhà khi thấy mưa rơi. Thật là đáng tiếc cho họ đã bỏ lỡ dịp rồi!

 

Ngày 3 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Do viết:

Chúng tôi lạy ngang qua hai khu phố Helalem và Manzanita, rồi tiến thẳng luôn lên ngọn núi Neshkahnie cao khoảng 1700 bộ (hơn 500 mét). Và hiện cắm trại ở vùng công viên Oscar West State hoang vu vắng vẻ, gần về phía ranh giới vùng Tillamook Clatsup. Lưng của sư huynh bị đau nhức và vì trời mưa, nên chúng tôi có phần hơi chậm rãi, nhưng có điều an ủi khi biết rằng chúng tôi đã đi qua được 776 dặm đường rồi. Mặc dù trong chuyến đi có xảy ra bao chuyện cay đắng, nhưng hình như nó lại có cái gì thật tràn trề tuyệt diệu. Có lẽ đó chỉ là tánh cao hứng tự nhiên do cuộc sống ngoài trời đã quá lâu, đôi khi những ảo tưởng của tự do nầy lại là những khuyến khích để tiến lên.

Trong cuộc đời, chúng ta có thể đi đến bất cứ nơi nào mình muốn, làm những gì theo sở thích, nhưng bất kể là đi đâu đi nữa, chúng ta cũng vẫn còn là những tên tù bị giam hãm trong vô minh của chính mình. Nhưng có điều được chỉ dạy là nếu theo con đường của các vị tiền bối Thánh nhân đã từng đi, thì chúng ta sẽ nhìn thấu rõ được những vô minh của chính mình, và đến những nơi mà chúng ta không bao giờ biết đến có sự tồn tại nữa. Chúng ta được bảo rằng đừng để mắt vào cuộc đời ngắn ngủi, cái ảo tưởng tự do của cuộc sống không giới luật, mà phải nhìn vào sự tự do chân thật phát sanh từ sự dụng công lâu dài và lòng hy sinh.

Thật thú vị thay khi nghĩ rằng chuyến bái hương nầy có nhiều ý nghĩa hơn là một cuộc du hành chỉ để đến Seattle. Càng thấy rõ đối với những người chúng tôi gặp, dù là những ân nhân giúp đỡ hay những kẻ muốn hãm hại, tất cả đều có liên quan trong chuyến đi cũng như chúng tôi vậy thôi. Cuộc đời của mỗi chúng ta có lẽ thể hiện qua tướng mạo cá nhân riêng rẽ, nhưng dưới lớp của dòng ý thức thì chúng nó có sự liên hệ theo nghiệp duyên, giống như những chùm rễ chằng chịt của cây đa to lớn. Những việc thiện trong hiện tại là những kết quả phước lành trong tương lai. Ví dụ điển hình là những vị khất sĩ ở các quốc gia Phật giáo, họ là ruộng phước điền để mọi người gieo trồng những hột giống lành. Cúng dường thức ăn cho các vị khất sĩ, tức là họ đang nuôi dưỡng công đức cho chính mình.

Chuyến đi nầy xem như chỉ là một cuộc tản bộ đến Seattle, nhưng nếu chúng ta thực hiện với tư cách chân chánh thì nó là một lối đi tương tợ vững chắc, như con đường các bậc tiền bối tu hành đã đi qua. Những bậc cổ đức nầy đã bỏ lại sau lưng sự vô minh u tối và đã thật sự đi đến sự tự do cứu cánh. Các Ngài cũng đã gây ảnh hưởng, giúp đỡ và hướng dẫn vô số chúng sanh cùng nối gót để đi đến giải thoát. Ý nghĩ thú vị lướt qua tâm tư như những giọt mưa lạnh lẽo đang rỉ thấm vào lều.

 

Ngày 4 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Vì trận bão quá lớn nên hôm nay chúng tôi tạm nghỉ. Chỗ dựng lều nằm chơ vơ giữa những nơi không chỗ nào là không bị nước rịn chảy ướt ở Oregon nầy. Vì tối qua chúng tôi không đào sâu những đường rãnh, nên bây giờ cả lều như đang từ từ chìm lặn xuống nước. Một phần phía sau lều đã bị tràn ngập thành vũng. Không những chỉ vậy thôi, mà trong lúc tôi đang loay hoay mồi đốt cái lò SVEA, vô ý làm bắn văng một ít dầu hôi khiến cháy lủng một lỗ to tướng trên cái bồ đoàn của mình. Phựt cháy trong mấy giây, cả lều trong giống như sắp bị thiêu rụi. Cho nên việc mồi lửa cho cái lò dầu SVEA ở trong lều nên dành cho những ai có tâm hồn dũng mãnh, đã dứt bỏ được vòng sanh tử luân hồi rồi thì mới nên làm. Và sau khi cái lò oái oăm nầy cháy được, tôi nấu bột lúa mạch cũng bị khét khê. Năm phút sau đó tôi lại làm bể cái chai đựng muối, văng tung tóe khắp lều cũng cả nửa tách muối. Ngày gì mà kỳ cục quá! Coi như chúng tôi lại khờ khạo chìm nổi bấp bênh trong biển phiền não của chính mình.

Có câu nói rằng, nếu người nào không phiền não thì đã là giác ngộ. Nhưng biển phiền não thì mênh mông vô cùng tận. Nhớ lại khi ở Kim Sơn, có một thời hình như mỗi lần tôi nổi hứng kiêu ngạo, hoặc lười biếng giải đãi, hay có những ý nghĩ phiền não là sẽ nghe tiếng cửa phòng Sư phụ đóng mạnh lại. Tình trạng đó thật kỳ lạ, vì nó xảy ra như vậy cả hàng trăm lần. Tôi tự nghĩ: “Chuyện nầy khó tin quá! Ai có ngờ rằng một vị Thầy lại có thể dạy đệ tử bằng cách đóng mạnh cửa như vậy sao?” Nhưng tin hay không, sự giáo hoá của Ngài là như vậy đó. Tâm tư tôi chẳng còn gì để nghi ngờ nữa. Sự biểu hiện của Sư phụ bằng cách đóng cửa phòng đã đủ mạnh trong nhiều trường hợp khiến tôi sửa đổi tư tưởng và tánh tình được khá hơn. Tóm lại, phương pháp nầy rất có hiệu lực.

 

Ngày 5 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Do viết:

Bãi biển Cannon: mưa, đồi, đường lộ khúc khuỷu và một đường hầm.

Kéo chiếc xe lên đồi như cố lôi mình ra khỏi việc làm không hứng thú. Kềm hãm chiếc xe xuống dốc tựa hồ như cố gắng kềm lòng đừng quá ham vui. Ði kéo theo chiếc xe trên lề đường thì giống như tương hợp với vũ trụ vậy, không có ý nghĩ về xe kéo hay có người đang kéo xe. Không có gì quan trọng để biết rằng dù đang xuống đồi nghiêng mình theo chiều dốc, hay nương theo dốc để lên đồi. Con đường tôi nhìn thấy là con đường trung đạo, bao gồm tất cả các giai cấp và mọi hoàn cảnh đưa đến, chỉ xem chúng đồng hạng bình thường cả. Kéo xe lên đồi rất dễ sanh quạu quọ, vì việc làm nặng nhọc lại chậm chạp. Xuống đồi lại tuột dốc quá nhanh nên cũng dễ mất sự bình tỉnh. Cho nên trong sự tu tập: dù phải chịu đựng đau nhức lúc tọa thiền trong tư thế kiết già, hay đang thưởng thức bữa ăn tuyệt hảo, tâm ta không nên bị dao động. Quán sát xem đó chỉ là dãy đồi thay đổi không chừng theo từng lớp của địa thế, lạc thú hay đau khổ gì rồi cũng được biến chuyển tùy ở cái tâm thanh tịnh và sáng suốt. Ðây là sự học hỏi của tôi về định lực.

 

Ngày 6 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Hôm nay có anh ký giả nhà báo từ Astoria đến phỏng vấn chúng tôi. Lúc chúng tôi cùng ngồi bên vệ đường trò chuyện, bỗng có chiếc xe chạy qua và người trong xe ném tung ra một nắm đá. Sư Hằng Do và tôi đều không bị viên nào, nhưng anh ký giả lại bị trúng ngay. Cũng may, anh nầy mặc áo khoác da dầy nên cũng không hề hấn chi. Sau đó, khi chúng tôi tiếp tục đi về bãi biển, thấy chiếc xe có bọn du côn liệng đá cứ lởn vởn phía sau, trông giống như họ đang chuẩn bị cho một trận chọi đá nữa vậy. Vừa lạy được tám dặm, thấy hình như cơn bão khác sắp kéo đến, nên chúng tôi ngưng nghỉ và tìm được một căn lều nhỏ khô ráo không người ở, nằm giữa khu phố.

Mùa hè gần sắp đến, nên mưa có vẻ ấm áp hơn.

 

Ngày 7 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Do viết:

Hôm nay tôi nhận được lá thơ từ gia đình gởi đến. Trong thơ có đoạn viết: “Cha mẹ rất thích thú khi nghe về chuyến mạo hiểm của con. Con biết không, lúc đầu mới nghe dự định của con về chuyến đi nầy, cha mẹ cảm thấy thật là lo ngại (con cũng biết mà, đối với cha mẹ, những chuyện gì có vẻ bất thường là bắt đầu đâm ra lo lắng.) Tuy nhiên, bây giờ không những chỉ chấp nhận mà cha mẹ còn cảm thấy chuyến đi nầy sẽ là kinh nghiệm và cơ hội quý báu cho con và cậu Hằng Cụ nữa.”

Tối nay chúng tôi ở lại nhà bà con của sư huynh, là ông bà Fennerty cư ngụ gần vùng nầy. Cuộc sống của họ có vẻ thú vị và vui vẻ, với sự pha trộn vừa là vùng quê hẻo lánh nhưng vừa là khu ngoại ô với đầy đủ tiện nghi. Căn nhà vốn là cái chuồng gà trước đây đã được sửa đổi lại, bên cạnh là khu vườn trồng rau cải thật rộng. Họ còn nuôi những đàn dê, trừu, gà và chị heo mập ụt ịt với bầy con khóc la inh ỏi. Ông Fennerty đã xây lên một phòng tắm hơi do chính ông vẽ kiểu, lại có thêm cái hồ tắm ở phía trước nhà.

Chúng tôi định sáng mai sẽ lên đường thật sớm. Tiểu bang Washington không còn bao xa nữa.

 

Ngày 8 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Hôm nay Sư phụ cùng với ba chiếc xe chở đầy Tăng, Ni và Phật tử từ Chùa Kim Sơn đến. Thật là một cuộc gặp gỡ khuyến khích tinh thần. Chúng tôi tạm nghỉ việc lễ lạy và cùng nhau lên núi Saddle để dùng cơm trưa. Sau đó trở về địa điểm cũ. Chúng tôi xin Sư phụ chỉ dạy phương pháp tốt nhất để thực hiện cho phần cuối chuyến bái hương.

Sư phụ bảo chúng tôi dụng công nên phải hết sức thành tâm và tỉnh giác. Sự tu tập trong tâm cũng như trong chuyến hành trình, phải luôn luôn tiến bước và không bao giờ có ý thối chuyển. Sư phụ nói nếu chúng tôi thực lòng dụng công dẹp bỏ tất cả những phiền não, thì chuyện Ngài đến đất Mỹ không là điều uổng phí, và chuyến bái hương nầy sẽ làm cho mọi người trên thế giới thức tỉnh ra. Ngài còn cảnh giác chúng tôi về việc nhận lời về nhà của những người mời đón. Nếu họ có thể giữ được Ngũ Giới trong thời gian chúng tôi còn tạm trú thì không sao, nếu không thì chúng tôi nên rời khỏi nơi đó. Tôi thưa hỏi cách thức đối phó với những sự chú ý của đám ký giả báo chí. Sư Phụ giải thích rằng việc tiếng tăm không có gì là xấu hay tốt cả, mà tùy theo hành động của người mới là vấn đề. Ta không nên có lòng ham muốn danh vọng, nhưng cũng không chối bỏ thanh danh. Nếu ký giả có tìm đến để phỏng vấn và chụp hình thì cứ Ô.Kê tùy thuận họ, chớ đừng tự mình đi tìm kiếm họ thì không nên. Theo căn bản như vậy thì sẽ không có vấn đề gì.

Trước khi mọi người lên xe, chúng tôi chào tạm biệt Sư Phụ, Ngài bắt đầu xoa đầu chúng tôi. Sư Phụ xoa thật nhẹ nhàng cũng cả năm, mười phút. Theo lệ cổ truyền trong đạo Phật, nếu được xoa đầu là điều rất hiếm hoi và là một danh dự đặc biệt. Công hiệu của xoa đầu như vậy là giải tỏa tất cả những lo rầu và sợ hãi của tôi. Một lần nữa, lòng tôi tràn đầy cảm giác an lành và vững chí. Sau khi để lại cho chúng tôi đầy những thức ăn, quần áo và bài pháp, mọi người ra về với lời chúc rất thật lòng: “Hãy cố gắng hết sức mình nhé!”

 

Ngày 9 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Astoria, tiểu bang Oregon. Hôm nay trời thật đẹp, dưới ánh nắng mặt trời chúng tôi lạy được bảy dặm.

Ðêm qua chúng tôi lại trở về nhà ông bà Fennerty để nghỉ ngơi. Buổi sáng chúng tôi bàn luận với ông Gus Fennerty về những quan điểm chủ yếu của người ăn chay. Như Swami Satchidananda đã giải thích vấn đề nầy thật sâu sắc. Ông nói: “Hãy nhìn một cách đơn giản vào những thú vật ở sở thú. Những con thú ăn thịt thì phải bị nhốt trong chuồng và bọn chúng có vẻ thường hay bồn chồn không yên. Ngược lại đối với những loài chỉ ăn cỏ và lá cây như cừu, bò, voi thì lại ngây thơ, ôn hòa, đã vậy chúng còn có vẻ khỏe mạnh, hiền lành và đem lại nhiều lợi ích. Nhưng cọp lại có thể giết hại voi, tánh nết như thế là thuộc loại gì chớ?”

Bà Ehrlich đem đến cho chúng tôi mấy miếng gà chiên và vài lon nước ngọt. Chúng tôi từ chối thịt gà. Bà hỏi tôi có bị thẹo ở đầu gối “như mấy bà quỳ vắt sữa không?”

Tôi đáp: “Như mấy người quỳ vắt sữa.”

Hồi chiều có một người truyền đạo Tin Lành, sau khi đã cho sư Hằng Do một bài thuyết giảng dài, rồi đưa ra kết luận: “Bây giờ ông nên suy nghĩ kỹ về những lời tôi đã nói và tôi sẽ suy nghĩ kỹ về những gì ông đã nói, ha ha, mặc dầu ông chưa có nói gì hết.”

Khi chúng tôi tiến gần vào vùng Astoria, có hàng trăm người đến hỏi chuyện. Trong số đó có rất nhiều người đều thắc mắc hỏi chúng tôi làm cách nào để có thể đi qua cầu Astoria dài tới bốn dặm.

“Chừng nào tới đó, chúng tôi sẽ qua được thôi!” Ðó là câu trả lời mà tôi chỉ có thể nghĩ ra.

 

Ngày 10 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Tối hôm qua, anh Eric Swedburg là nhân viên quản lý một khách sạn kiểu cọ màu mè ở trung tâm thành phố, đã sắp xếp cho chúng tôi ngủ tại đó. Khi chúng tôi vừa đến gần cầu Astroria, nơi bắt ngang qua con sông Columbia chảy đến tiểu bang Washington, có chiếc xe đỏ ngừng lại, thì ra là mấy người bạn của anh Eric gồm Ron, Marie và Steve. Họ mời chúng tôi lên xe để qua cầu. Chúng tôi muốn lễ lạy hơn là đi bằng xe, nhưng thấy cầu không có chỗ, nên nhận lời. Qua đến bên kia cầu, có rất nhiều ký giả đến chào đón và ông Harriet, chủ tiệm thực phẩm, mời bảo chúng tôi muốn dùng bất cứ những gì trong tiệm cũng được cả.

Tôi có trò chuyện với một ông ghiện thuốc lá đến nay khoảng đã ba mươi năm rồi. Cặp phổi của ông hầu như đã tiêu tan. Ðiều nầy khiến tôi càng tri ân sự dạy dỗ nghiêm khắc của Sư Phụ đối với đám đệ tử, là phải hoàn toàn dứt bỏ hút thuốc, uống rượu và những chất cần sa, ma túy. Thật ra, chỉ cần một thời gian ngắn dụng công, cố chịu đựng để buông bỏ những tật nầy thì họ sẽ quên hẳn luôn, nhưng nhiều người cứ ôm chặt những tật xấu, coi đó như là những châu báu quý giá vậy. Thật không hứng thú gì và cũng không dễ gì bắt người khác phải bỏ những thói hư của họ, nhưng đó mới là đặc điểm nói lên đâu là một vị Thầy chân chánh, khác biệt với những vị Thầy khác. Là người luôn lo lắng và chịu mọi cực nhọc để làm lợi ích cho mọi người.

 

Ngày 11 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Do viết:

Hôm nay trời thật nóng, con lộ khá tốt, lề đường rộng rãi. Có cô gái trao cho tôi một bao giấy rồi vội vàng nhảy lên xe dzọt mất. Thì ra trong đó có hai trái cam và một cuốn Thánh kinh.

Trên đường, ngay lối chúng tôi đi qua, thấy có một tấm giấy thật lớn thuộc loại của ông hàng thịt, được mấy viên đá dằn lên, viết rằng: “Giê su đã là Chúa trong xác thân của loài người.” Nội dung còn tiếp tục với những lời khuyên răn: hãy để Chúa bảo lãnh về những tội lỗi của chúng ta và nên nhận lấy sự cứu rỗi của Ngài. Ðiều nầy cũng tốt, nhưng tất cả chúng ta đều phải có trách nhiệm, bổn phận tự giải quyết về nghiệp quả của chính chúng ta mà.

Buổi chiều, tôi đến tiệm mua rau cải ở Naselle. Tiệm nầy có vẻ là một trung tâm để mọi người tới giao du thị phi. Một ông lớn tuổi đến hỏi tôi vài câu về đạo Phật và luôn miệng bảo tôi rằng, ông không hiểu tại sao dân Ấn Ðộ có thể để đám bò chạy qua, chạy lại tự do, trong khi rất nhiều người bị đói khổ. Tôi thấy rõ ông nầy muốn bẻ cong vấn đề để tranh luận, nên tôi không nói gì về chuyện đó cả.

Chúng tôi giăng lều dưới những hàng cây gần con lộ. Khung cảnh thật yên tỉnh.

 

Ngày 12 Tháng 6 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Câu chuyện miền biển.

Vào một buổi sáng thật sớm, chiếc tiềm thủy đỉnh nhận mật lệnh đi vào hải cảng của quân địch để tiến hành một cuộc tấn công. Lúc đó trời vẫn còn tối, cách bờ vài hải lý, chiếc tàu tuông ra những hơi khí cầu từ thùng chứa và lặng lẽ luồn sâu xuống lòng biển.

Sáng nay, cô Bobbie Yantze, là giáo viên ở Trại Thanh Thiếu Niên Nasalle, mời chúng tôi đến đó để nói chuyện với một nhóm thanh niên trẻ. Trại nầy được ban cải huấn của Tiểu bang lập ra để sửa trị những thanh niên ương ngạnh tuổi từ 14 đến 18. Cả hai chúng tôi cùng bàn luận chiến thuật rồi cất dấu đồ đạc vào bụi rậm bên đường.

Chiếc tàu chầm chậm lướt theo độ sâu của vọng kính và im lìm dọ dẫm tiến về chỗ ẩn náu của quân địch. Hạm trưởng ra lệnh: “Giương cao vọng kính.” Ông mục kích một hiện tượng hết sức khác thường với những: Khu trục ngư lôi hạm, tuần phòng hạm, vận tải hạm và vô số thuyền tàu khác nữa. Ông ra lệnh: “Thủy binh dàn trận ngư lôi! Xả nước ngập các ống nòng, mở cửa ngoài! Chuẩn bị nhả đạn!”

Cô Yantze chở chúng tôi đến trại, rồi lần lượt giới thiệu với ông hiệu trưởng, giáo sĩ và các giáo viên khác. Lúc đầu cứ tưởng là chỉ đến nói chuyện với một số ít các em thôi, nhưng rõ ràng lời đồn đã tràn khắp nơi, nên cả trại hàng mấy trăm người đang chờ đợi để gặp chúng tôi. Cả hội trường lớn nhất cũng không chứa hết, thế nên chúng tôi tụ tập mọi người thành một buổi đại hội ngay trên con đường tráng nhựa ngoài trời. Sư Hằng Do và tôi đều ngồi kiết già quay mặt về đám đông, chuẩn bị giải thích, cũng chỉ về chuyện làm dị kỳ của chúng tôi.

Viên hạm trưởng lão luyện điều khiển con tàu chiến, chỉ ló vọng kính vừa đủ độ xa để ước lượng đúng tầm bắn: “Một bắn, hai bắn!” Chiếc tiềm thủy đỉnh như con cá sắt nặng hai tấn rưỡi rùng mình rung động, kêu thét lên với tốc độ 45 hải lý, phóng tới mục tiêu. “Nóng bỏng, trực chỉ, bình thường.” Từ phòng máy rà âm qua các làn sóng báo cáo: “Trúng đích, thưa sếp, chúng bị nổ tung!”

Thầy Hằng Do khởi đầu trước. Với giọng nói lớn, rõ ràng về những lý luận căn bản thật vững vàng. Sư nói: “Cuộc đời là một giấc mơ, là ảo ảnh mà thôi, nhưng con người lại nghĩ những cái thật là giả và những thứ giả tạo lại cho là thật. Cho nên chúng ta rất cần phải tỉnh giác.” Mọi người chăm chú lắng nghe. Tôi cảm thấy những điểm trình bày nầy như đã đánh trúng vào tâm tư họ.

Sau đó thuyền trưởng giao vọng kính lại cho một chuyên viên phụ trách. Sau một lúc quay vòng vọng kính, điều chỉnh nhích lên hạ xuống, ông nầy ra lệnh: “Sáu bắn, bảy bắn, tám bắn!”

Kế đến, tôi giải thích võ thuật công phu không nhất thiết là phải đập lên đầu người, mà là sử dụng chính cái khả năng của mình để đạt đến định lực và trí tuệ thuần nhất sẵn có ở trong ta. Phương pháp tốt nhất của Kung Fu được gọi là: “Phản quang hồi chiếu” (Quay đèn trở lại để rọi sáng tâm tư).

Rồi quân địch phản công. Những trục ngư lôi hạm phóng ra xối xả xuyên qua không trung. Và những loạt bắn đuổi vù vù dưới nước bao quanh chiếc tàu như đàn muỗi.

Sau đó là một loạt câu hỏi được nêu lên. Một người hỏi Thầy Hằng Do: Chúng tôi phải đối phó thế nào nếu có người khó chịu đến kiếm chuyện. Thầy đáp một cách nhạy bén: “Nếu có người đến để kiếm chuyện, thì chúng tôi sẽ không cho họ có dịp để kiếm.” Những người bị nhốt giam ở đây cùng các nhân viên trong ban quản trị, bắt đầu tấn công, thẩm vấn trong tinh thần vui vẻ. Chúng tôi cũng đã làm sáng tỏ rất nhiều câu hỏi, đương nhiên vẫn có một số người trong nhóm nầy nhìn chúng tôi chăm chăm với con mắt hoàn toàn không tin tưởng.

Sau khi hạ chìm và làm tổn hại nhiều tàu quân địch, chiếc tàu ngầm quay đầu tống hết ga chạy ra khỏi vùng địch thủ. Lướt đến vùng nước sâu, chiếc tàu lặn xuống thật sâu theo sức chịu đựng của sức ép cho phép và nghe ngóng sự hỗn loạn phía trên qua các làn sóng của máy phát âm. Sau đó thấy tình hình có vẻ êm dịu. Chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước, rồ hết bốn máy, và bắt đầu tống hết tốc lực chạy thẳng về nhà. Máy truyền tin thâu nhận lời khen từ vị sĩ quan chỉ huy hạm đội: “Sứ mạng hoàn thành thật xuất sắc.”

Sau đó buổi họp được giải tán, chúng tôi bị vây quanh bởi các thầy cô giáo và những người nội trú ở đó. Dù chuông reo nhưng không ai muốn trở về lớp cả. Sư Hằng Do và tôi phải chạy một hơi đến xe cô Yantze. Trước khi xe chạy ra khỏi đám đông, ông Biggs là một trong những giáo viên lão luyện ở đây, đến bên cửa xe nói vói vào: “Từ trước đến nay, lâu lắm rồi tôi mới thấy việc làm nầy là tốt đẹp nhất đối với bọn trẻ ở đây. Thật là đã đánh trúng tâm ý chúng nó. Thật là đúng ngay tâm trạng chúng.”

Cô Yantze chở trở về địa điểm cũ, chúng tôi đem giấu hành lý vào bụi rậm và tiếp tục lạy về hướng bắc.

 

Ngày 12 Tháng 6 đến ngày 1 tháng 7 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Tại Shelton, chúng tôi dại dột để túi đeo đựng hành lý bên đường, vì trong lúc không để ý nên đã có người trộm lấy đi. Trong đó có rất nhiều thứ, kể cả cuốn nhật ký của chúng tôi. Coi như bị mất hết từ lúc đến Trại Thiếu Niên Nasalle. Tuy nhiên hai chúng tôi cũng ráng hồi tưởng để viết lại những phần mất mát đó.

Sau cuộc nói chuyện với những em trai phạm pháp ở Nasalle, chúng tôi tiếp tục đi theo xa lộ 101 về hướng bắc, con đường dễ sợ quá, vừa hẹp lại ngoằn ngoèo với những xe vận tải nặng nề chất đầy gỗ chạy ào ạt thật nhanh. Trong thời gian nầy, mỗi ngày chúng tôi đều lễ lạy.

Anh Jim Gatens là thợ mộc tự lập ở vùng Nasalle, thỉnh thoảng đến bàn luận về Phật pháp và giúp sửa chữa lại chiếc xe kéo muôn thuở của chúng tôi. Nhiều lúc vì quá vội vàng, sư Hằng Do đã lôi chiếc xe lọt xuống hố rãnh, nên chúng tôi phải quấn thêm mấy vòng sắt bao quanh bánh xe để bảo hộ nó. Thành thử chiếc xe kéo có vẻ kiên cố hơn, vả lại mỗi lần đi vào thành phố, hầu như chúng tôi đều thay cho nó cây sắt mới, chỉ có mấy cây căm loại hai mươi sáu phân có vẻ còn yếu ớt, vì không đúng kiểu của bánh xe cho nên không chịu nổi sức nặng, có mấy que bị gãy cong vòng. Khi nào tới South Bend, chúng tôi phải thay căm mới cho chúng mới được.

Mấy ngày qua lễ bái chẳng có chuyện gì xảy ra cả, nhưng khi gần tới một khu phố nhỏ của Arctic thì sườn xe kéo bị nức gãy. Tuy nhiên chỉ vài phút sau đó, có ông từ vùng Weyerhauser ngừng lại chở chúng tôi và cả chiếc xe kéo đến một công xưởng sửa xe thật lớn. Khi đến nơi, mọi hoạt động nơi đây đều phải ngưng lại, vì sáu anh thợ máy vùng Weyerhauser nầy đang hè hụi áp nhau quanh chiếc xe bé bỏng để đập, trám, hàn sửa lung tung. Chỉ trong vài phút chiếc xe trở nên hoàn toàn lành lặn và chúng tôi được chở trở về “địa điểm.”

Ngay nơi con sông Smith cắt ngang xa lộ 101, có một cây cầu dài nhưng lại hẹp, và cứ khoảng mỗi vài giây có một chiếc xe hay xe hàng chạy ào qua, chẳng có lối nào cho người đi bộ cả. Thế là chúng tôi ngồi lại ở đầu cầu hơn cả tiếng mà không biết làm sao. Cuối cùng, hết hy vọng nên chúng tôi chuẩn bị đánh liều đi đại qua, thì vừa lúc có anh thợ mộc vui tánh, tướng tá đồ sộ, chắc nặng ít nhất cũng khoảng 300 cân (135 kg), nhảy ra bảo: “Nói đi, tôi có thể đưa các ông qua cầu được không? Ha ha, ha ha!”

Ðến Montesano, chúng tôi tách xa lộ 101 để vào nội địa. Sarah Tripp là một trong những người bạn cũ đã cùng tập thiền Zen với sư Hằng Do khi xưa, cô và đứa con gái đến từ vùng Portland, có mang theo thức ăn Mễ Tây Cơ cho chúng tôi và ở lại một lúc để cùng lễ bái.

Chiều tối thứ bảy khí trời nóng bức, khi chúng tôi vẫn còn phủ phục dưới đường tiến về khu phố nhỏ ở Montesano. Dù đã được sáu dặm, nhưng chúng tôi chưa muốn ngừng nghỉ. Sư Hằng Do còn ở phía sau bận trò chuyện với một nhóm nông dân, còn tôi tiến gần đến đầu phố, lúc đó tôi cảm thấy lòng mình nao nao kỳ lạ. Tôi nhìn về phía trước khoảng gần một dặm ở cuối cầu có mấy người đang lao nhao. Lúc đến gần hơn, tôi mới nhận ra đó là một đám người say rượu. Mấy ông nầy vừa đi loạng choạng giăng ra mặt lộ, vừa la lối chửi thề, vừa tiểu dãi ra khắp nơi. Tôi nói thầm: “Trời ơi! Cả ban hội đồng tiếp tân đây rồi!”

Nhưng tôi vẫn tiếp tục lạy và biết sư Hằng Do cũng đang sắp tới. Ðây cũng giống như những lần tôi còn ở tiềm thủy đỉnh, đã từng được huấn luyện cách ứng phó để vượt qua mọi khó khăn ở thế giới linh cảm nầy. “Chuẩn bị ngay cho tàu lặn, chuẩn bị phân lượng độ sâu cho tàu, khóa cửa nước chặt lại, đóng hai lớp cửa quầy tàu.”

Tôi tiếp tục lạy, vừa đến đầu cầu hướng nam, Thầy Hằng Do cũng kịp lúc đến bên tôi và chúng tôi cùng lễ lạy qua cầu. Tới cuối cầu, chúng tôi không thể đi xa hơn nữa vì có sáu ông thợ mộc, say, to lớn, đang đứng chận ngay lối đi. Ông có tướng đô nhất gầm gừ: “Nếu hai thằng bây không mau giải thích về những gì tụi bây đang làm, thì tụi tao sẽ bầm nát chiếc xe nhỏ bé nầy thành triệu mảnh vụn cho coi!”

Lúc bấy giờ, trong thâm tâm tôi tự biết rằng chúng tôi chẳng có làm gì sai trái, thì mình có quyền đi trên mảnh đất nầy cũng như bọn họ vậy. Ðồng thời tôi cũng thấy rõ, đây không phải là lúc để thắc mắc đòi hỏi nhân quyền hay công lý gì cả. Mà chỉ thắc mắc là làm sao cứu vớt hai cái cổ nhỏ bé ốm tong của chúng tôi đây. Mặt mày mấy ông nầy trông giống như những con bò mộng đang phẫn nộ. Thông thường một người nếu ở vào tình trạng như vầy thì có hai con đường để ứng phó. Hoặc là người đó có phản ứng sợ hãi, khúm núm, biến sắc mặt, và sẽ làm bất cứ những gì theo lời đòi hỏi của kẻ dọa nạt mình. Hoặc là người đó có phản ứng với sự giận dữ và cố tìm cách chống trả lại để thoát thân. Ðó là hai bản tánh tự nhiên của con người. Nhưng đúng ngay ở giây phút nầy, hình như có một cái gì mầu nhiệm trong không trung. Tôi chợt nhớ lại những lời Sư Phụ dạy bảo qua điện thoại lúc chúng tôi gọi về từ Oregon. Tôi có thưa là đang đi vào vùng chuyên khai thác cây rừng, và tình hình ở đây có vẻ bất an, nên thắc mắc hỏi nếu ở trong hoàn cảnh thật cần thiết, tôi có được phép tự vệ không? Sư Phụ đáp liền: “Không được, nếu con đánh lộn, thì coi như không phải là đệ tử của ta. Con phải học cách sử dụng cái trí thông minh của mình, không có hoàn cảnh nào để cho phép con dùng võ lực cả. Nếu con bị kẹt vào tình thế đối phương quá hung dữ, thì hãy quán xét tự tâm mình, nếu con thật không có chút gì đếm xỉa đến sự sợ hãi hay nổi giận, thì sẽ không ai có thể đụng đến con đâu. Ðối với cả chuyến đi của con, ta tự bảo đảm về điều nầy! Cứ đơn thuần mà lo dụng công và giữ vững giới luật. Thì có cái gì phải lo sợ chớ?”

Tôi nhìn qua Thầy Hằng Do, thấy Thầy có vẻ bình tỉnh. Hơn bao giờ hết tôi cũng rất ngạc nhiên về thái độ của mình đối với tình cảnh nầy. Những lời giáo huấn thật có công hiệu. Tâm tôi không lay động, không chỉ những lời Sư Phụ dạy bảo mà còn là cách hướng dẫn với tất cả sự hùng hồn, khiến như có năng lực thật mạnh mẽ. Ðiều đó chẳng có gì để nghi ngờ cả.

Lập tức mấy ông thợ mộc bắt đầu cảm thấy hình như có điều gì không ổn như dự định. Thầy Hằng Do và tôi đã phản ứng lại sự tấn công của họ qua cử chỉ cởi mở, thẳng thắn, thân thiện trong khi đối đáp, khiến họ hoàn toàn bật ngửa không ngờ. Phút chốc, bọn họ quay lại cãi lý với nhau, có mấy ông vẫn cố khiêu khích chúng tôi, trong khi đó có một số muốn mời chúng tôi xuống phố, đến quán rượu để uống vài lon bia. Có một ông la lên: “Ê! Jesse, tụi nó hổ trợ cho nhau còn hơn là mình tưởng nữa đó!”

Cuối cùng Thầy Hằng Do nói: “Bây giờ xin phép mấy ông nhé, vì chúng tôi còn vài dặm nữa phải đi.”

Qua ý chỉ đó, tôi phủ phục đặt hai tay cùng đầu gối xuống và lạy ngay ngang qua họ, Thầy Hằng Do cũng kề cận một bên.

Sáng hôm sau, một chiếc xe chở đầy mấy ông hôm qua chạy đến để xin lỗi.

Mấy ngày sau chúng tôi đến một khu phố nhỏ của Satsop. Nơi nầy nhộn nhịp giống như hội chợ vùng quê. Khi chúng tôi đi qua, hầu hết dân trong phố đều chạy ra dòm ngó. Cả đám con nít cỡi xe đạp, cùng với mấy con chó chạy xúm xít theo hai bên chúng tôi. Ðó là một ngày nắng ấm nhất, vui vẻ nhất của chuyến đi.

Quang cảnh ở thành phố Elma cũng vậy. Hàng trăm người đứng dọc hai bên đường. Một số mỉm cười vui vẻ, một số nhăn mặt nhíu mày, nhiều kẻ nói chuyện lao xao. Cảnh tượng nơi đây phản ảnh tất cả những gì có thể tưởng tượng ra, từ sự thất vọng hoàn toàn đến trạng thái vui mừng hoan hỷ. Vào đến trung tâm thành phố, hội Phụ Nữ Tương Trợ (Ladies Auxiliary) đã chuẩn bị cho chúng tôi một bữa ăn với món canh sò chay thập cẩm (đó là món đồ chay mà họ có thể nghĩ ra thôi). Món canh nầy hầu như chỉ toàn bắp và sữa. Chúng tôi vào phía bên trong ngồi ăn, trong khi có rất nhiều khuôn mặt từ phía cửa sổ tò mò chăm chú nhìn theo.

Ði đến cuối phố, chúng tôi mới biết là có một em trai khoảng mười hai tuổi đã lẻo đẻo theo sau chúng tôi cả ngày rồi. Hỏi em có chuyện gì không, thì nó tự giới thiệu là Chris và muốn đi theo để phụ giúp đôi phần. Chúng tôi từ chối nhưng nó cứ cố nài nỉ nên rồi cũng để hắn đi theo. Ba hay bốn ngày liền, mỗi sáng sớm là đã thấy em xuất hiện ở địa điểm lễ lạy để phụ giúp sư Hằng Do dọn đồ đạc v.v… Tối đến, em đi về phía trước để giúp sư Hằng Do tìm chỗ cắm trại. Em còn thâu lượm củi khô để nhóm lửa nữa. Chú bé nầy tánh tình cũng trầm tĩnh đấy. Sư Do chuyển dịch tên Chris của em ra tiếng Trung Hoa là: Khả Lợi Thế (Ke Li Shr), tức là có khả năng làm lợi ích cho thế gian.

Chúng tôi lạy qua McCleary và đang trên đường vào vùng Shelton, chính nơi đây cái túi hành lý của chúng tôi đã bị đánh cắp. Trong túi, ngoài cuốn nhật ký, còn có cái áo rách của sư Do, vài cuốn kinh, máy chụp hình loại bỏ túi, quần áo của chúng tôi và luôn mấy cái bao ngủ nữa.

Ở Shelton chúng tôi thấy lẻ tẻ một ít đám pháo bông trên không. Vì sắp đến ngày 4 tháng 7, lễ Ðộc Lập ở Mỹ nên có rất nhiều trẻ em chơi đùa với pháo. Chúng tôi tiến về mục tiêu một cách tốt đẹp. Ông bà Graham cho chúng tôi dựng lều ở phía sau khu vườn của họ.

 

Ngày 2 Tháng 7 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Dù bị mất túi đồ nhưng chúng tôi vẫn ok (ô kê.) Ông bà Graham tặng chúng tôi một mớ bánh tây và mền để mang theo.

Anh Paul Everett dừng lại hỏi thăm, ngỏ lời muốn giúp chúng tôi và nói về kinh nghiệm luyện tập thiền Thiên Chúa của anh. Mỗi ngày anh ta đều ngồi và niệm: “Linh hồn con tán dương Chúa.” Anh bảo nhờ làm như vậy mà thật đã giúp cho tinh thần tỉnh táo thêm ra.

Một anh thủy thủ chiến hạm nguyên tử từ bến tàu Bremerton dừng lại trong bộ quân phục màu xanh biển. Anh rất ngạc nhiên khi biết tôi cũng từng là thủy thủ và kể rằng: Có lần tàu anh lặn dưới biển cả sáu mươi ngày, bởi vậy có rất nhiều thời gian rảnh rỗi để có dịp quán tưởng. Sau đó có rất nhiều thủy thủ chăm chỉ nghiên cứu các tôn giáo Ðông Phương và họ yêu cầu xin cho đồ chay trong các bữa ăn. Thay vì hành động theo bản tính cuồng dại của những lính thủy ngày xưa, thì bây giờ có rất nhiều anh đã chuyển qua tập thiền và biết tự khép mình vào kỷ luật.

 

Ngày 3 tháng 7 năm 1974. Hằng Do viết:

Lúc chúng tôi rời khỏi con lộ để tìm chỗ nghỉ, có một chiếc xe sửa chữa công lộ của tiểu bang ngừng lại một bên. Nghe tiếng lanh lảnh từ máy liên lạc trong xe họ phát ra:

Ê, George anh đang tìm Henry hả?

…Ừa, hắn đâu rồi?

…Hắn đang ở gần mấy ông Giáo Trưởng Ấn Ðộ đó; đừng có chạy ẩu cán mấy ổng nhé! Rồi họ cười ầm lên.

Tin đồn vang khắp nơi về chuyện chúng tôi bị trộm mất túi hành lý. Có tờ báo đăng tựa lớn ở trang bìa, giải thích nhịp nhàng:

“Một Tu sĩ Phật giáo ở Belfair rất mong tìm lại bao hành lý.”

[Belfair Budhist Wants His Backpack Back] . Cha mẹ Thầy Hằng Cụ đang sống ở quận Belfair.

Sau khi rời khỏi Shelton, chúng tôi kết thúc lễ lạy trên quốc lộ U.S. 101, rồi rẽ về phía đông đi theo xa lộ tiểu bang số 3 và 302. Ðến Purdy, thêm khoảng mười dặm nữa thì sẽ đi về hướng nam, để qua cầu Tacoma Narrows, vùng Tacoma. Sau đó chúng tôi tiến về phía bắc theo xa lộ 99 đến Seattle. Chúng tôi chọn theo lộ trình nầy vì đó là cách tiện nhất để đi vòng qua khu căn cứ quân sự lớn Fort Lewis và tránh được đại lộ. Chúng tôi đi ngang qua hằng trăm bán đảo nhỏ, hòn đảo, những nhánh biển nhỏ và những cửa sông lớn, đó là những cảnh vật của vùng Puget Sound. Con đường thật chật hẹp lại cong vòng, lấm chấm rải rác những căn nhà gỗ ở hai bên đường.

Những trái be-ri (berry) bắt đầu chín rộ khắp nơi. Ðây thật là một thử thách về định lực vì khi đi ngang qua những chùm be-ri ngon ngọt mà không thò tay bẻ hái. Nhưng cái giá trị là biết cưỡng lại lòng ham muốn, vì nếu không kiểm soát được mình trong những trường hợp tầm thường như thế, thì làm sao hy vọng kiềm chế được trong những hoàn cảnh quan trọng hơn?

 

Ngày 4 tháng 7 năm 1974. Hằng Cụ viết:

Gia đình tôi đến tận chỗ lễ lạy để đón chúng tôi về nhà, cùng họ ăn mừng lễ Ðộc Lập tại nhà ở quận Belfair. Mẹ tôi có thiện cảm với Thầy Hằng Do liền, nên may cho Thầy một bộ đồ tu dạ khách. Còn cha tôi lo sắm sửa cái bao hành lý và hai cái túi ngủ cho chúng tôi. Mặc dù trời mưa suốt thời gian chúng tôi ở đó, nhưng tôi cảm thấy thật vui sướng khi lại được kề cạnh song thân.

 

Ngày 7 tháng 7 năm 1974. Hằng Cụ viết:

Sau ba ngày ở lại nhà cha mẹ, giờ đây chúng tôi tiếp tục lên đường lễ bái qua vùng Allyn và tiến về hướng đông tới Purdy. Các nhóm ký giả báo chí và đài truyền hình thường lui tới phỏng vấn khi chúng tôi gần tới vùng Greater Seattle. Cho nên đoạn đường ở Seattle nầy có vẻ nặng nề lắm đấy.

Mỗi ngày chúng tôi phải đối đáp hàng trăm câu hỏi, nhưng trong số đó thì có câu: “Các ông có tin Chúa không?”

Ồ! Trước khi tôi có thể trả lời câu hỏi nầy, thì cần phải định nghĩa rõ Chúa là gì đã? Mỗi người đều có ý nghĩ khác nhau về Chúa. Nếu chúng ta tin hiểu Chúa như là lý tánh trùm khắp vũ trụ, bao chứa tất cả: lớn nhỏ, tốt xấu, đúng sai… trong nó, và nó cố hữu trong tâm của mọi loài mà không liên quan gì đến việc có tín ngưỡng hay không, thì vâng, tôi tin ở Chúa. “Chúa nầy” dù có mặt ở mọi nơi, nhưng ít có ai thực sự biết đến Ngài. Trong đạo Phật, chúng tôi được học hỏi và thực tập giáo lý để có kinh nghiệm trực tiếp đến “Chúa.” Thật ra, những danh từ chúng tôi dùng có vẻ hơi khác biệt. Cái kinh nghiệm tiếp xúc trực tiếp đó được gọi là giác ngộ, nó là kết quả của những ngày dài đăng đẳng dụng công tu tập đạo hạnh, và quán tưởng. Có nghĩa là ta thực nghiệm được thật tại không sanh diệt của tự tánh trong mỗi chúng ta.

Nhưng Phật giáo không tuyên bố là chỉ có một vị Chúa độc nhất. Chúng tôi thừa nhận các tôn giáo đều có những công dụng và những con đường dẫn dắt đến trí huệ. Con đường có khi dài, khi ngắn, hoặc có khi phải trải qua hằng vô lượng kiếp mới đi đến viên mãn được. Chúng ta phải có cái nhìn về sự cứu rỗi như là những công phu tu tập của mình sau nhiều kiếp. Thật ra chúng ta đã trải qua bao kiếp luân hồi rồi và còn tiếp tục nhiều kiếp nữa phải gian truân, không lối thoát. Vậy thì bây giờ được làm người tại sao ta lại phí phạm cuộc đời để mơ tưởng về thiên đàng hay địa ngục? Chúng ta phải chấp nhận lấy thân phận hiện tại của chính mình, để học hỏi làm người tốt ngay từ những vật chất sẵn có nầy. Còn việc tự xưng mình là Phật tử, hay tín đồ Thiên Chúa chỉ là phụ thuộc, không quan trọng.

Biết Chúa là đơn thuần biết được chính mình. Một người thật có tâm hồn chân chính đi trên đường với sự chịu đựng, chính chắn, và tâm khai mở vượt khỏi những giới hạn của thế gian, đó mới có thể được coi là hiểu biết “Chúa.” Và Chúa không những chỉ là một bức tượng, một khái niệm, hay một giấc mơ, mà Chúa sẽ trở thành hiện hữu thực tế hơn.

 

Ngày 8 tháng 7 năm 1974. Hằng Cụ.

Ông Alfa Romeo có nhiều kinh nghiệm về du lịch, đã chở đến một xe các cô gái đang tuổi dậy thì (mặt đầy mụn). Cả đám thật hồn nhiên, vừa cười khúc khích, vừa lý lắc lại gần chúng tôi. Rồi một cô trong bọn lên tiếng: “Chúng tôi nghĩ rằng những việc các ông đang làm thì thật là đàng hoàng, (ngừng một lát) nhưng mà mấy ông đang làm gì vậy?” Cả bọn bụm miệng cười khúc kha, khúc khít.

Song thân của Tỳ kheo Ni Hằng Ẩn, là ông bà Baur, đến trò chuyện với chúng tôi. Sau đó ông Baur còn giúp sửa lại cái bánh xe kéo nữa.

Ðài truyền hình số 5 từ Seattle đến quay chuyện thời sự về chúng tôi. Phóng viên Robin Groth tỏ vẻ thích thú về việc làm nầy nên đã phỏng vấn rất tỉ mỉ. Trong số những thắc mắc, có câu cô hỏi Thầy Hằng Do, trong khi máy quay phim to tướng chiếu ngay vào mặt: “Làm sao mà các ông có vẻ an nhiên tự tại quá vậy? Khiến tôi cảm thấy thật an dịu khi nói chuyện với ông.”

“Trời Phật ơi!” Tôi thầm nghĩ: “Hiện có cả triệu người đang theo dõi, làm sao Thầy có thể trả lời câu hỏi gút mắc nầy chớ?” Cũng may là cô ta không hỏi tôi câu nầy. Thầy Hằng Do nhẹ nhíu mày điềm đạm đáp :

Vậy à! Chính tôi cũng không biết nữa, nhưng nếu tôi có thái độ như vậy chắc có lẽ do chúng tôi thọ trì những giới không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và không dùng những chất say sưa nghiện ngập.” Câu trả lời đích đáng quá!

Ông Sam McCoy thân tặng chúng tôi tượng con chim trắng đang bay và nói: “Mấy cậu đã làm tôi cảm động đến tận tâm can.”

 

Ngày 9 tháng 7 năm 1974. Hằng Do viết:

Hôm nay vừa đến Purdy, nơi chúng tôi từ giả con đường nhỏ ngoằn ngoèo để chuyển sang mặt đường xa lộ rộng rãi hơn, rồi tiến thẳng vào Tacoma. Vì biết được Marblemount sẽ là địa điểm của Tu viện tương lai, nên bây giờ chúng tôi muốn lạy thêm 125 dặm qua khỏi Seattle, để cho chuyến bái hương thêm phần tốt đẹp kiết tường khi hoàn mãn.

Ông bà Bob và Joanie Kurtis là bạn cũ của gia đình Thầy Hằng Cụ từ Gig Harbor, đến chở chúng tôi về nhà họ ngủ. Ông Bob cứ tưởng rằng một khi xuất gia thành Tỳ Kheo, là dịp để chúng tôi tự nhiên có đủ tư cách để rút khỏi việc đời và ẩn dật một nơi nào đó, với thật nhiều kinh sách, để chỉ chuyên tâm tu học. Nhưng chuyện nầy tại Chùa Kim Sơn thì không cần thiết lắm. Cuộc đời của một Tỳ kheo là dựa trên căn bản tự tu, theo đúng giáo lý của đức Phật, để hết lòng dìu dắt mọi người đạt đến giác ngộ. Ðây có nghĩa là vị Tỳ kheo không phải trốn lánh mọi người. Thêm nữa, những ai sống tại cộng đồng tu viện nầy đều có bổn phận làm một tu sĩ gương mẫu cho kẻ khác, với đầy đủ giới đức, thân, khẩu, ý, để mọi người kính trọng noi theo. Ðồng thời vị tu sĩ nầy cũng phải có khả năng giải thích kinh điển cho những ai cầu thỉnh giáo lý.

Mỗi ngày Chùa Kim Sơn phải có ít nhất một thời giảng pháp. Bởi thế trọng trách của một vị Tỳ kheo đối với thế gian thật nhiều, thì làm gì có chuyện trốn tránh rút lui. Qua phương pháp nầy, vị tu sĩ mới có thể ứng phó với trần tục mà không bị dính mắc, khước từ hay bị lung chuyển theo những khuôn đúc bắt buộc, không ngừng công kích các giác quan.

Tôi kể cho ông Bob nghe về chuyện trong thời gian chúng tôi đang tiến hành xây cất Chùa Kim Sơn. Có lần Thầy Hằng Cụ xin phép Sư Phụ kê bàn học của Thầy vào nhà kho để không bị ai làm phiền. Vì ở trong nhà kho sẽ được yên tịnh, không nghe thấy những ồn ào bên ngoài thế gian như tiếng điện thoại reo, chuông cửa, khách khứa, tiếng trẻ con khóc la. Nhưng rốt cuộc đã không được phép như vậy, mà bàn học của Thầy Hằng Cụ phải bị kê chen chút vào văn phòng làm việc vốn đã chật cứng. Trong hoàn cảnh như vậy, Thầy mới có thể phát triển định lực bằng cách giữ vững lòng không dao động trước những công việc hiện hành chớp nhoáng nhất, thay vì từ bỏ, tránh né thế gian.

Sau đó, ông Bob đọc cho chúng tôi nghe câu phương ngôn của người da đỏ thời xa xưa: “Nếu bạn có thể nhìn thấy ngọn núi Rainier, thì trời sắp sửa mưa; nếu bạn không thể nhìn thấy nó, tức là trời đang mưa.”

 

Ngày 10 tháng 7 năm 1974. Hằng Cụ viết:

Khi gần đến lối vào cầu Narrows, có bốn hội viên phong trào Nichiren Shoshu đang tiến về phía chúng tôi. Trong nhóm này có hai anh em đã từng phục vụ với tôi ở tàu ngầm Rock. Người anh tên Harold Waller, tự nhiên tỏ vẻ nghinh ngang đi lại phía tôi, hít một hơi dài khói thuốc, rồi thổi phì ngay vào mặt tôi và nói: “Tim à, để tôi nói cho bạn nghe về cái đạo Phật chánh hiệu nhé!”

Dù chúng tôi cố giải thích cho họ nghe, nhưng không có hiệu quả gì, họ quyết lòng khuyên chúng tôi nên dẹp bỏ chuyến bái hương khổ hạnh nầy. Cuối cùng chúng tôi phải quay ra, bắt đầu lạy tiếp. Một lúc sau ông Balwant Nevaskar, là giáo sư dạy môn Xã Hội Học ở trường đại học Puget Sound, đến chở chúng tôi về nhà ở Tacoma để nghỉ qua đêm.

Tối hôm đó, tiến sĩ Nevaskar mời vài người bạn đồng nghiệp đến cùng chúng tôi thảo luận về Phật pháp trong bầu không khí ấm cúng và thú vị. Trong đó, có ông John Magee mời chúng tôi ngày mai đến lớp triết học của ông để nói chuyện.

Tiến sĩ Nevaskar gốc từ Ấn Ðộ, tỏ vẻ xúc động khi thấy đạo Phật bắt đầu đâm rễ mọc chòi ở nước Mỹ nầy. Ông là một trong số rất ít người mà chúng tôi gặp qua trong suốt chuyến du hành, biết đến danh từ “Tỳ kheo.” Ðứa con trai nhỏ của ông tên Raja (vua) đang bận rộn bắt chước Thầy Hằng Do đeo túi lên lưng, leo trèo qua bàn ghế trong phòng.

 

Ngày 11 tháng 7 năm 1974. Hằng Do viết :

Buổi sáng nay thật hào hứng, chúng tôi vào lớp triết học của tiến sĩ Magee, trường Ðại học Puget Sound. Thầy Hằng Cụ giải thích một bài kệ trong kinh Lục Tổ, còn tôi thì nói về đề tài thiền. Tôi dùng những thí dụ so sánh mà tôi thích nhất để giải thích: Lúc tâm trí tập trung vào thiền định thì nó sẽ trở thành như một tia sáng chặt chẽ có thể soi thấu hầu hết các sự vật. Nhưng quan trọng ở chỗ là sẽ xuyên thủng những vòng vô minh của tham sân si và kiêu mạn của ta để cuối cùng đi đến giác ngộ. Ðạt được mục đích nầy là do sự gia công luyện tập của chính mình, chớ không nương tựa vào bất cứ những gì bên ngoài.

Một sinh viên hỏi: “Một người đã giác ngộ có những khả năng gì đặc biệt?”

Tôi đáp: “Theo truyền thống có đề cập đến một người thật sự thành công trong quá trình tu đạo sẽ đạt được sáu thần lực diệu dụng gồm: Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông, thần túc thông và lậu tận thông.”

Anh nầy lại hỏi rằng tôi có tin những khả năng quyền thuật nầy không, hay chúng chỉ thuộc về Siêu Hình Học của Luận Thuyết Vũ Trụ mà Phật tử đã dựng lên. Tôi không đáp thẳng câu hỏi mà kể cho anh ta nghe câu chuyện lúc tôi mới xuất gia làm chú Tiểu ở Tu viện vào mấy năm về trước. Lúc đó, có một buổi đại hội gồm tất cả những tu sĩ, cư sĩ, đến dự bàn về tiến trình đi Gia Nã Ðại (Canada), hầu khai mở một đạo tràng mới, để hoằng truyền Phật Pháp. Tôi thất vọng khi biết mình phải ở lại Kim Sơn, không được tham gia chuyến đi nầy. Lòng thầm nghĩ nếu được tháp tùng theo Sư Phụ thì hay biết mấy. Không đầy một phút sau, chẳng liên quan gì đến cuộc họp đang thảo luận, Sư Phụ nhìn thẳng vào tôi như thấu rõ cả tâm tư, rồi nói: “Quả Ðạo à! Một ngày nào đó khi con đã học những gì phải học và hiểu rõ làm thế nào để giữ đúng quy củ thì lúc đó ta sẽ dắt con theo.”

Nghe qua tôi ngẩn người sửng sốt, miệng há hốc, mặt mày nóng bừng cả lên. Làm sao mà Sư Phụ lại biết được những gì tôi đang suy nghĩ chớ?

Câu chuyện làm cả lớp cười vang. Tôi nói một vị thánh nhân tài đức có thể biết được ý nghĩ của kẻ khác, còn về việc tin hay không là tùy ở tâm họ. Nhưng đối với tôi đó lại là một chứng nghiệm thêm về vấn đề trên.

Sau rốt, giáo sư Nevaskar mua tặng Thầy Hằng Cụ đôi giầy thể thao mới và cố nài chúng tôi về nhà ông ngủ. Ngoài kia mưa rơi như nước đổ.

 

Ngày 12 tháng 7 năm 1974. Hằng Cụ viết:

Hôm nay khi chúng tôi lễ lạy qua thủ đô Tacoma, đã có rất nhiều đám đông bao quanh hỏi chuyện: “Các ông làm gì vậy? Mấy ông đi đâu thế? Ði ba bước là nghĩa làm sao? Hai ông có thay phiên nhau kéo xe không hả? Các ông biết võ công phu không? Chúng tôi có thể chụp hình các ông được không?”

Và những giáo đoàn Giám Lý Methodist, phái Tẩy Lễ Baptist, Mục Sư cùng tín đồ da trắng, da đen đồng kéo ra giúp ý, đề nghị hoặc chúc tụng.

Khi đến gần dưới phố đông đúc, có một bà trên sáu mươi tuổi nói với sư Hằng Do là Chúa đã gởi Bà đến “hướng dẫn chúng tôi đi qua Tacoma” và Bà đã làm đúng y lời một cách trọn vẹn. Không chỉ thế thôi mà hồi sáng sớm có một thanh niên bụ bẩm chân trần (barefoot) trông giống như nhân vật trong phim Huckleberry Finn, tự nguyện xin phụ giúp chúng tôi, rồi y chẳng nói gì thêm, bèn kéo xe đi thẳng một mạch qua phố.

Vào xế chiều, khi đang trên đường ra khỏi phố để tiến về khu vực kỹ nghệ, chúng tôi đã thực nghiệm một chuyện tưởng đã xong đời. Nguyên là cách xa hơn nửa dặm, tình cờ tôi thấy một ông từ quán rượu khệ nệ kẹp nách một kết bia đi ra và chui vào chiếc Pontiac màu đỏ đời 1960. Xe bắt đầu lăn bánh với tiếng máy ầm ỉ, chạy ra khỏi bãi đậu. Ông ta quẹo vòng ở gốc đường, chiếc xe rú lên chát chúa, chạy ra con đường chánh. Sau đó hắn nhấn ga như cuồng loạn, gấp rút lái thật nhanh về hướng chúng tôi đang đứng bên lề. Với tốc độ khoảng 50 dặm/giờ, thình lình ông bẻ quặp tay lái rồi phóng thẳng lên lề đường, dường như muốn cán dẹp chúng tôi. Sự việc xảy ra quá nhanh, chúng tôi không kịp suy nghĩ, hay có phản ứng nhúc nhích gì cả mà chỉ biết đứng trơ ra nhìn.

Chiếc xe chạy phớt qua chỉ cách chân tôi khoảng bốn đến sáu tấc thôi. Rồi hắn vụt chạy mất dạng thật nhanh cũng như lúc xuất hiện vậy.

Một lần nữa tôi thật ngạc nhiên về phản ứng của mình và cả Thầy Hằng Do cũng thế. Không chút sợ hãi. Sự việc xảy ra như trống rỗng vậy, giống như đang xem một chuyện phim trong truyền hình. Vài người trong quán chạy ra hỏi thăm chúng tôi có hề hấn gì không. Chúng tôi đáp không có gì. Sau đó họ còn quyên góp tiền tặng, và mời chúng tôi vào quán để thuyết giảng vài lời cho họ nghe.

Ði qua được nửa đoạn đường của vùng đồng bằng sình lầy, rồi dựng lều dưới chân cầu. Ðêm nay gió thật nhiều, chúng tôi tọa thiền bên ngọn lửa hồng nổ vang lách tách.

 

Ngày 13 tháng 7 năm 1974. Hằng Do viết :

Ké… ét, ầm! Tiếng chiếc xe đụng vào thành cầu ở phía trên làm chúng tôi thức giấc. Anh tài xế có lẽ bị ngủ gục hay say rượu gì đây. Chiếc xe mới tinh móp méo hoàn toàn, nhưng anh ta chỉ bị thương chút đỉnh, lòm còm chui ra xe. Sau đó lúc chúng tôi lạy ngang qua chiếc xe bị đụng nát, có hai ông cảnh sát nhìn chúng tôi với vẻ kỳ cục làm sao. Có lẽ họ nghĩ chúng tôi cũng có phần nào dính líu vào tai nạn nầy.

Ðang lạy lên dãy đồi ngoài vùng Tocoma, dì của Thầy Hằng Cụ là Sơ Mary Agnes, Nữ tu sĩ dòng Dominican, đến thăm chúng tôi. Sơ tỏ vẻ mừng rỡ khi gặp lại Thầy Hằng Cụ. Chúng tôi nói chuyện được một lúc rồi Sơ giải thích: Vì số tín đồ ngày càng giảm bớt một cách nhanh chóng, nên nhiều trường đạo và tu viện phải đóng cửa. Sơ còn nói vì tình trạng như vậy nên những nữ tu sĩ buộc phải ra đời làm việc, ăn mặc như người thường, thay vì được dạy học trong giáo khu như trước đây.

Ông Mark Tatz, giáo sư trường đại học Washington, cùng vài người bạn của ông, đem thức ăn đến cho chúng tôi. Rồi tất cả mọi người cùng nhau ngồi xuống lề đường để đàm luận Phật Pháp.

 

Ngày 14 tháng 7 năm 1974 . Hằng Cụ viết:

Hiện chúng tôi đang đi qua vùng Federal Way nằm giữa thành phố Tacoma và Seattle. Trời hôm nay thật nóng bức. Thầy Hằng Do tìm gặp một cây dương liễu xum xê đứng chơ vơ giữa vùng đất hoang vu ở ngoại ô. Thầy bèn chui vào phía bên trong lựa một chỗ thật mát mẻ để chuẩn bị bữa cơm trưa. Từ phía trong chúng tôi có thể nhìn thấy rõ ràng cảnh vật chung quanh, nhưng bên ngoài không ai có thể nhìn thấy chúng tôi được. Loại cây liễu nầy cũng tuyệt làm sao! Tôi đốt lò nấu đậu vốn đã được ngâm từ đêm trước, rồi bỏ thêm phó mát, ớt và muối vào. Sau đó còn nướng thêm mấy lát bánh mì kẹp cheese nữa. Cũng ngon lành đâu có tệ gì!

Anh Jimmy McCunn, bạn thời tiểu học với tôi, đến phiền trách cho một hồi. Anh kể lể có một người bạn học của chúng tôi nay là mục sư Thiên Chúa Giáo tức Cha Mike Batterberry, đã họp tất cả những tín đồ của ông lại để cầu nguyện cho chúng tôi!

Vào buổi tối, em trai tôi là Terry đến chở chúng tôi về nhà ở Kent. Terry nhỏ hơn tôi ba tuổi, đang làm việc cho hãng máy bơm. Và xe kéo của chúng tôi được em gắn vào một cái bơm nước loại bảo đảm cả đời không hư. Loại bơm nước cầm tay nầy có thể bơm nước hút ra từ cái bình mủ khoảng 10 lít (2.5 gallons) nước của chúng tôi.

 

Ngày 15 đến 25 tháng 7 năm 1974. Hằng Do viết:

Chúng tôi đến Seattle vào ngày 15 tháng 7, thì tạm ngừng lễ lạy vài ngày để phụ sửa soạn cho buổi Pháp hội Cầu Thế Giới Hòa Bình. Tất cả hội viên trong Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đều tề tựu về Seattle cho ngày lễ. Lúc đó hai vị Pháp Sư là Hằng Quán và Hằng Không phát nguyện tuyệt thực 18 ngày cầu cho thế giới hòa bình, lúc bấy giờ đã được chín ngày rồi. Vào hôm thứ bảy ngày 20 tháng 7, ánh sáng mặt trời ló dạng, mang lại một ngày tươi đẹp nhất ở Seattle.

Buổi sáng chúng tôi họp lại ở công viên Seward, nơi đây đã có hằng trăm khán giả tham gia vào đoàn Tăng Ni và cư sĩ đang trì chú cầu nguyện cho hòa bình. Sau bữa cơm chay chung với tất cả những người tham dự, Sư Phụ, tu sĩ, các vị cư sĩ của Chùa Kim Sơn cũng lần lượt lên thuyết pháp. Vị lãnh sự Ðài Loan và bác sĩ Magee, trường Ðại học Puget Sound, cũng đến tham dự. Buổi Pháp hội thành công mỹ mãn.

Sau đó, chúng tôi nhận lời mời của ban Viễn Ðông Học thuộc trường Ðại học Washington, và lưu lại đó ba ngày để thuyết giảng. Ðến ngày chót thì các hội viên của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và trung tâm Bồ Ðề Ðạt Ma của Seattle, họp lại bàn kế hoạch xây dựng tu viện ở Marblemount.

Ðến thứ hai, chúng tôi bắt đầu trở lại lễ bái qua các con đường ở Seattle. Chiều đến, bà con của Thầy Hằng Cụ là ông bà Works ghé lại chào hỏi. Sau đó anh Pete Presser, bạn cũ của sư huynh, đến rước chúng tôi về nhà nghỉ qua đêm.

 

Ngày 26 tháng 7 năm 1974. Hằng Do viết:

Anh Pete sống hạnh phúc với gia đình trong căn nhà xinh xắn hướng về vùng Puget Sound. Anh là kỹ sư làm cho hãng điện General. Anh cùng Thầy Hằng Cụ ngồi ôn lại những kỷ niệm xưa. Ðược một lúc thì chuyển sang đề tài triết lý. Anh Pete có lối diễn tả về vô tận rất điển hình; anh nói vô tận cũng chỉ như hư không, chẳng có giới hạn nào và nếu cố định nghĩa về nó, thì giống như ráng dựng lên một bức tường quanh khoảng hư không. Một bức tường có hai mặt và dĩ nhiên, vô tận thật không thể nào định rõ được, bởi vì nó luôn luôn hiện diện khắp nơi, thì làm gì có sự ngăn chặn của bức tường, nên xem như không có định nghĩa gì về nó cả.

Phật tánh của chúng ta cũng giống như không gian: thanh tịnh, trong sáng, không gì ngăn ngại được, nhưng lại hàm chứa tất cả. Những ý nghĩ lăng xăng và phân biệt giống như một bức tường được dựng lên làm hạn cuộc sự thấy biết Phật tánh của chúng ta, bởi lúc nào cũng lưu lại phía bên kia của bức tường. Vì vậy các bậc Thánh nhân bảo rằng Phật tánh là để nhận hiểu chớ không phải chỉ để bàn suông.

Thầy Hằng Cụ và Pete lớn lên cùng một quê quán, học chung một trường v.v.. nhưng hiện tại, họ đang sống trong hai thế giới khác biệt.

 

Ngày 27 tháng 7 năm 1974. Hằng Do viết:

Chúng tôi sẽ lễ lạy qua con đường dài nhất của khu phố, chiều dài có thể bằng khoảng đường từ sáu mươi đến bảy mươi dặm. Thường thì trước đây khi phải lễ lạy ngay trong phố xá, thành thị, tôi thật không mấy gì tự nhiên như khi ở ngoài đồng trống. Nhưng bây giờ dù cả ngày phải lễ bái qua trước những hãng xưởng, nhà cửa, hay các tiệm quán, tôi cảm thấy bình thường cũng như lễ lạy gần bên cây cối và cầu cống vậy, chẳng có vấn đề chi cả. Có lẽ tôi có ý lo ngại vì trong thành phố là phải đương đầu với nhiều người hơn. Nếu tất cả chúng ta đều xuất phát từ nguồn gốc như nhau thì làm gì có ai là người đang quỳ lạy và ai là người đối diện. Thật ra, ở những nơi đông đúc dường như dễ được định tâm hơn.

Ðêm nay chúng tôi căng trại trên bãi đậu xe trải đá sỏi thật rộng, ngay trong thành phố Seattle, trong bãi đã có đầy những chiếc xe trailer loại nhỏ (xe dùng để đi cắm trại). Vì đất quá cứng không cắm cọc được nên chúng tôi chỉ giăng lều lên giàn dây dâu berry (be-ri) đen, leo phủ đầy cả hàng rào cũ sập sệ. Sẵn thấy những chùm dâu berry (be-ri) chín mọng, chúng tôi hái một mớ cho bữa trưa mai.

 

Ngày 28 tháng 7 năm 1974. Hằng Do viết:

Tiến trình của chúng tôi bị chậm lại, vì mấy ngày qua có rất nhiều bạn bè và bà con nghe tin sư Hằng Cụ về đến quê hương, lần lượt kéo đến chào hỏi. Có một anh thợ sửa đường nhô đầu ra khỏi ống cống để chào hé lô (hello) khi Thầy Hằng Cụ lạy ngang qua. Lại có ông vì quá nóng lòng muốn chuyển hóa chúng tôi theo đạo Thiên Chúa, nên vừa thấy chúng tôi, ông gấp rút quẹo vòng trở lại. Rốt cuộc bị lãnh giấy phạt về tội lái xe trái luật.

Dù đi qua những cảnh như thế, từ dặm nầy đến những dặm đường đầy bụi bặm khác, Sư huynh tôi vẫn hai tay chắp ngang ngực, đều đặn ba bước dài, quỳ xuống lạy, rồi đứng lên tiếp tục. Một, hai, ba, lạy; một, hai, ba, lạy. Ðã trải qua bao ngày rồi Thầy Hằng Cụ đều dụng công như vậy cả, lòng tôi vẫn không khỏi ngầm tán phục.

 

Ngày 29 tháng 7 năm 1974. Hằng Do viết:

Sau khi lạy qua thành phố Seattle trên tuyến đường 99, chúng tôi tiến tới vùng Bothell, theo xa lộ 9, rồi qua luôn ranh giới quận King và Snohomish. Hôm nay đang lạy trên đường thì vợ chồng cư sĩ họ Bàng đến. Họ là những Phật tử nhiệt thành ủng hộ chùa trong nhiều năm qua, họ đã đứng ra thành lập trung tâm Bồ Ðề Ðạt Ma ở phía Tây Seattle và cũng là thí chủ cúng hiến mảnh đất ở Marblemount. Nhận lời mời của họ về nhà dùng cơm trưa, nên chúng tôi tìm chỗ cất dấu đồ đạc. Ðây cũng là dịp nghỉ xả hơi tránh đỡ ánh nắng mặt trời nóng gắt và con đường đầy bụi bặm.

Tối đến, chúng tôi cắm trại trên mảnh đất trống cách xa con lộ. Bầu trời tối đen im lìm. Cả ngàn hình ảnh vụt thoáng qua trong đầu tôi: nhớ lại hôm nay có mấy người đệ tử của thầy Mahara-ji đến trò chuyện; một tín đồ bệ vệ Thiên Chúa giáo lại “muốn cứu vớt” chúng tôi; có một bé trai tóc vàng ngồi ở băng sau xe Falcon cũ màu xanh, cứ đưa mắt nhìn chăm bẳm.

A! Có một điều quan trọng hơn mà bây giờ tôi chợt nhớ. Việc xảy ra trong ngày mọi người tụ họp về để tụng chú cầu nguyện cho hoà bình thế giới ở Seattle. Lúc đó chúng tôi ngồi trên khán đài. Sau khi trì chú được vài phút, Sư Phụ ra dấu bảo tôi nhìn lên. Thật là ngạc nhiên vì tôi nhìn thấy giữa bầu trời trong xanh có một cụm mây hình dạng rất lạ hiện ra phía trên diễn đài. Ðám mây thon dài lơ lững trên đầu mọi người khoảng hai mươi phút. Khi buổi trì chú vừa dứt thì cụm mây cũng tan đi không để lại một dấu vết nào. Tôi thắc mắc không biết những người khác có thấy như vậy không?

 

Ngày 30 tháng 7 năm 1974. Hằng Cụ viết:

Hôm nay số người đến chất vấn chúng tôi nhiều vô kể. Thời tiết trở nên thật đẹp, và chúng tôi cũng tiến bước vững vàng. Một trong các sự việc đối với người tu hành là phải học cách đối phó với lòng sân giận. Ðối với những xúc cảm, thì nó có lẽ là điều tệ nhất, đương nhiên trong chuyến đi nầy chúng tôi cũng không tránh khỏi được nó. Vào những ngày không được xuôi thuận, cơn nóng giận rất dễ dàng nổi lên. Mọi người đều có tập khí như thế cả; nhưng thế nào giải quyết nó, đó mới là điều quan trọng.

Lửa sân là nền móng thúc dục âm ỉ thâm sâu trong ta. Nó im lìm ẩn dạng trong tâm thức cũng giống như lửa than ngấm ngầm trong khúc cây. Một khi phừng cháy lên là tô nhuộm hết những ý tưởng, tri kiến của chúng ta, như đang nhìn qua cặp mắt kiếng đỏ. Lúc chúng ta thật giận người nào đó, không cần biết người đó có tốt bao nhiêu đi nữa, cũng chỉ thấy tất cả là sai trái. Một khi sự xúc cảm mạnh mẽ nầy gán chặt vào tâm thức thì khó mà gỡ ra được.

Như mới mấy hôm trước, chúng tôi thấy có bà cụ với vẻ mặt như oán trách, thù hằn tất cả. Nét nhăn nhó quạu quọ đã trở nên thường hằng trên khuôn mặt của bà. Cũng như lắm lúc tôi tam bộ nhất bái ngang qua các ngã tư đường, có lẽ đã làm xe cộ ứ kẹt khoảng một, hai phút, khiến cho một số tài xế phát nổi xung không thể tưởng tượng được. Họ nhấn còi inh ỏi, hung hãn như muốn giết tôi vậy. Con người ai cũng có thể bùng nổ như thế, khi cơn giận dữ nổi lên. Căn gốc của vấn đề là do chúng ta có những thành kiến quá sâu về tự ngã. Một khi ý kiến hay điều mong ước của chúng ta bị xáo trộn hay bị cản trở là chúng ta nổi quạu liền. Ngày nay, khoa tâm lý học tân thời cống hiến rất nhiều phương pháp ngụy biện để giải quyết vấn đề nầy. Nhưng thật ra chỉ có một phương cách hữu hiệu mà không cần tốn 90 đồng/giờ để tìm nguyên nhân, đó là sự nhẫn nại. Người Hoa viết chữ nhẫn gồm những nét tượng trưng hình ảnh một trái tim bị con dao nằm phía trên. Phẩm cách phi thường và hiếm có của nhẫn nại nếu được vun bồi thì có thể trở nên hoàn toàn đến mức vô tận. Ðó là đức tánh tìm thấy ở những vị Thánh nhân, đã từng tu luyện trong suốt cuộc đời để chiến thắng, làm chủ lấy mình.

Về vấn đề nầy Sư Phụ thường nói: “Thọ khổ tức thị liễu khổ.” (chịu khổ thì hết khổ). Câu này có nghĩa là chúng ta phải chịu đựng; khi sự việc xảy ra không đúng theo ý mình, phải giữ tâm lắng dịu bình tĩnh. Nhẫn nại chịu đựng những khó khăn là chúng ta rèn luyện kiên cố lòng can đảm không gì hủy hoại được. Nhưng nếu để cơn giận bùng nổ mất tự chủ là chúng ta đã trồng một nhân địa ngục rồi đấy.

Nói đến địa ngục, mới nhớ mình đang có chuyện phải chịu đựng khổ đau. Tôi tưởng nó đã xảy ra lâu rồi, nhưng cuối cùng thì mới xảy ra. Tôi khám phá ra nơi đầu gối trái mình đã sưng vù lên. Không biết là chúng tôi sẽ tiếp tục được bao lâu nữa – nhưng thấy nó có vẻ tệ lắm rồi.

Chúng tôi dựng lều trên mảnh đất trống dưới xa lộ.

 

Ngày 31 tháng 7 năm 1974. Hằng Cụ viết:

Sáng nay vừa lạy được vài dặm, đầu gối tôi càng sưng tù vù màu vàng tím giống như đã bị nhiễm trùng. Tôi gọi điện thoại cho anh Jon Myers, bạn học cũ ở trung học và cũng từng cùng tôi phục vụ cho tàu hải quân lúc trước. Hiện nay anh là chuyên viên sửa truyền hình màu hãng R.C.A., ở phía bắc cuối vùng Seattle. Trên đường đến Bothell Way, tiện dịp đến rước chúng tôi luôn. Khi nghe chân tôi bị đau, anh đề nghị nên về nhà anh nghỉ ngơi cho đến khi lành hẳn. Ðã năm năm rồi, tôi mới gặp lại Jon.

 

Ngày 1 đến ngày 4 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Ba ngày qua chúng tôi ở lại nhà anh Jon, dù mỗi tối tôi đều ngâm nước nóng cho đầu gối, nhưng chỗ sưng vẫn không chịu xẹp. Tôi đoán chừng thì chắc cũng phải hai tuần hay hơn nữa nó mới chịu lành, dĩ nhiên là tôi phải lo nghĩ vì không lễ lạy được. Trong đạo Phật tình cảnh nầy xem như là một nghiệp chướng vậy.

 

Ngày 5 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Cuối cùng chúng tôi quyết định hôm nay gọi điện để xin ý kiến Sư Phụ xem có cách gì tốt nhất để được mau lành. Tôi kể lễ một hơi nào là đầu gối đang bị sưng húp, như vậy chắc phải cần thời gian lâu lắm mới khỏi được và nếu quỳ lạy, chỉ làm vết thương nặng thêm.

Nghe xong Sư phụ không chút ngần ngại liền đáp: “Nó vốn không có vấn đề gì cả. Cách tốt nhất cho đầu gối được lành lặn là phải ra đường để hoàn thành cuộc lễ lạy của con.”

Tôi sửng sốt trước câu trả lời của Sư Phụ. Nếu là ai khác thì tôi sẽ cãi lại ngay. Nhưng hai đứa tôi liền thu xếp đồ đạc, từ giả anh Jon để trở về địa điểm cũ trên xa lộ 9 về hướng bắc vùng Bohell, bắt đầu lạy tiếp. Thật ngạc nhiên thay, tôi chẳng thấy đau đớn gì! Tôi tiếp tục lạy được bốn dặm trước khi trời tối. Chỗ sưng xẹp xuống mất tiêu. Thật là vi diệu!

 

Ngày 6 tháng 8 năm 1974. Hằng Cụ viết:

Theo như dự định, chúng tôi tiếp tục đi về hướng bắc trên xa lộ 9 cho đến khi tới Sedro Wolley, rồi sẽ quẹo sang hướng đông đi theo xa lộ 20, còn khoảng 45 dặm đường dọc theo sông Skagit mới đến Marblemount.

Có ông chạy xe gắn máy la lớn: “Ðứng lên mà đi như con người chứ!”

Viên cảnh sát đi tuần của tiểu bang Washington ngừng lại trò chuyện, còn cho chúng tôi một mớ trái dâu raspberry đã nấu chín.

Ông Roland Strandell trên chiếc xe gắn máy lớn Moto-Guzzi ngừng một bên nói rằng ông nghiên cứu các tôn giáo Ðông Phương khoảng ba mươi năm nay rồi, và đã từng chờ đợi để xem những chuyện như vầy xảy ra. Ông viết bài thơ với tựa đề “Hòa Âm” như sau:

Những chiếc xe nện trên đường,

Cùng hòa tâm theo nhịp đập

Âm vang muôn loài hòa điệu

Áo vàng nhẹ phất trong gió

Bao ồn náo như im bặt

Trước tiếng sấm ngầm của Phật.

Chúng tôi nghỉ đêm ở nhà ông bà Goldie và Lynn Goldhammer, đôi vợ chồng thân thiện sống gần vùng Arlington. Ông Goldie là tài xế chở xe rác.

 

Ngày 7 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Chúng tôi đã tới vùng Arlington. Ðoạn cuối của chuyến đi như sắp gần kề. Nhìn vào bản đồ, khiến tôi nhớ lại những nghi ngại lo lắng đã ám ảnh chúng tôi trước đây giờ đều tan biến. Ngoại trừ chỉ những biến cố bất ngờ xảy đến, không thì trước mắt xem như chúng tôi sẽ đi đến mức.

Nhớ lúc mới khởi hành, tôi thường có những ý nghĩ nhút nhát, lo sợ khi đi ra ngoài và phải tiếp xúc với bao nhiêu người. Tôi cần phải cố gắng giải thích về mình với mọi người hơn. Tôi có thể nhận ra những cái nhìn bất mãn hiện rõ trên gương mặt những người không thích tôi, hoặc không thích việc tôi đang làm. Bởi không những chỉ riêng việc lễ lạy thôi đâu, mà còn thêm bộ dáng ông Sư với cái đầu cạo trọc đã đủ khiến họ cau có, khó chịu rồi.

Tình hình có vẻ thay đổi nhiều khi chúng tôi tiến về hướng bắc. Phần lớn những tin tức đăng bài đã giải thích về hành trình của chúng tôi. Vì thế nhiều người hình như đã biết rành rẽ hơn qua những nguồn tin cả tháng trước khi chúng tôi đến. Họ tiếp đãi chúng tôi tựa hồ như gặp lại bà con lâu ngày mất liên lạc vậy. Hiện chỉ còn một số ít là vẫn nhăn mặt nhíu mày, nhưng chúng tôi chẳng thèm để ý đến làm chi.

 

Ngày 8 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Do viết:

Như thường lệ, hôm nay chúng tôi vẫn tiếp tục lễ lạy. Có cặp nam nữ trên xe Toyota ngừng lại quan sát khi chúng tôi chầm chậm tiến qua. Sau đó họ chạy về phía trước khoảng nửa dặm, rồi ngừng lại để nhìn nữa. Lần nầy họ bước xuống xe, tự giới thiệu tên họ, hỏi thăm chuyến đi và vài câu tổng quát về Phật Giáo với thái độ kính cẩn, thân mật. Khi nghe nói những vị sư Phật Giáo hành trì các pháp khổ hạnh ích lợi như chỉ ăn một bữa và ngủ ngồi, người đàn ông tên Bill cho rằng như vậy thật là quá khó đối với người bình thường.

Tôi bảo có nhiều quy luật đặt ra tùy theo trình độ, và nhiều pháp tu khổ hạnh không bắt buộc những người không đủ khả năng phải theo, kể cả tu sĩ và cư sĩ. Giống như leo núi vậy, khó khăn là ở lúc ban đầu, nhưng từ từ sẽ trở nên dễ dàng hơn. Không ai có thể từ chân núi nhún mình một cái là nhảy vọt lên đến tận đỉnh, trừ khi là bậc siêu nhân thôi! Cho nên trong tiến trình cần phải từng bước, từng bước một. Ý chí cũng rất dễ bị thối lui vì nghĩ rằng: “Tôi tu tập lâu quá rồi mà chẳng thấy gì hết!” Nhưng việc dễ quá thì kết quả đâu có giá trị gì, bởi ai cũng có thể làm được. Còn việc khó thì giống như cái lưới, gạn lọc ra những ai không thật lòng kiên quyết làm tròn. Ðúng vậy, điều đó có lẽ khó đấy, nhưng không nên lấy đó mà dễ chán nản bỏ cuộc, để tìm kiếm mặc cả về sự sống còn. Có lẽ tôi nói hơi xa xôi nên ông Bill nói ông sẽ suy ngẫm về điều nầy.

Sau đó có anh thân hình vạm vỡ lái xe vận tải dừng lại, xuống xe hỏi tôi có muốn vài miếng bánh pi-dà (pizza) mới nướng không. Tôi đang tìm cách từ chối khéo vì nghĩ rằng bánh nầy thường có thịt và hành tỏi, thì anh ta liền nói: “Dạ, tôi đem chúng tận từ vùng Yakima đến đó!”

Mở bao ra, thì ô hô! Có cả chục trái đào (peach) tươi. Anh nầy có vẻ đã nhậu xỉn, nên giọng nói lắp bắp nhừa nhựa.

 

Ngày 9 Tháng 8 Năm1974. Hằng Cụ viết:

Hôm nay tiến gần về vùng Bryant, có em trai tên Byron đi theo sau. Em bảo khi thấy hình chúng tôi được đăng trên báo Evertt Herald, em nhìn chăm chăm cả tiếng đồng hồ mà không biết vì sao. Byron tỏ vẻ lo lắng chăm sóc chúng tôi cả ngày. Tới Huck Finn, dường như vùng đất nhà, nên em rất rành những thắng cảnh ở đó. Khi đến khúc đường uốn cong, Byron dẫn chúng tôi rẽ vào nội địa để đến một trong các hồ đẹp nhất mà tôi chưa từng thấy qua và tôi đã chiêm ngưỡng được vài cái hồ. Chúng tôi nghỉ lại một lúc lâu để tắm rửa cái thân đầy bụi bẩn nầy.

Buổi chiều có ông tóc dài tự xưng mình là “Người đàn ông yêu chuộng tự do.” Ông thắc mắc hỏi: Theo như danh từ của Chúa thì việc tôi đang làm là gì?

Sau khi nghe tôi giải thích, ông cho rằng mấy chuyện như vậy chẳng có gì là cần thiết cả, vì Chúa là tình yêu thương, tất cả chỉ đơn giản vậy thôi: Chúa là ở đây, bây giờ, và tất cả là thế đó. Ông còn mời tôi về nông trại của ông để sinh sống nữa.

 

Ngày 10 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Cô Kate Myers có lần là bạn gái tôi lúc ở trung học và là em gái anh Jon Myers, hôm nay tình cờ gặp lại. Bây giờ cô đã có chồng, hai con và chiếc xe Jeep. Còn tôi, tất cả hiện có là cái đầu gối đau nhức, nhưng rồi thì nó cũng sẽ mất đi. Sự vật thay đổi là thế đãy!

Khi chúng tôi lạy qua cái hồ lớn Big Lake, ông chủ quán rượu gần đó đến trò chuyện rất thân mật. Tuy nhiên mấy vị khách của ông thì phá phách quá đáng. Họ túa ra đường và bắt đầu trêu ghẹo ông chủ quán. Họ bắt chước Thầy Hằng Do là bỏ cái túi ngủ vào chiếc xe nhỏ đi chợ (loại xe đẩy trong các siêu thị), rồi kéo đi vòng quanh bãi đậu xe của quán rượu.

Một ông trong bọn la lớn: “Ê. Roy! Ông quên chiếc xe kéo của ông nè!”

Ông Roy chủ tiệm không thèm đếm xỉa gì đến họ.

Ðầu gối tôi bắt đầu lành lặn, chúng tôi hiện lễ lạy vào vùng Skagit Delta. Từ xa ngọn núi Baker lờ mờ trước mặt ở hướng đông, và ngọn Olympics cao sừng sững ở hướng tây.

Khi thấy chúng tôi đi ngang qua, nhiều người thân mật nói: “Không còn bao lâu nữa đâu!”

 

Ngày 11 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Do viết:

Ðêm qua chúng tôi bị cả tám vạn bốn ngàn con muỗi háu ăn đến xâu xé, hút máu tơi bời. Chiếc lều đã từng bảo vệ tránh mưa, giờ đây lại là ổ của đàn muỗi. Ðó là sự tạm thời khác biệt giữa một đêm yên tĩnh nghỉ ngơi, và một đêm phải chịu vô số những chúng sanh nho nhỏ điên cuồng, hung hăng, vo ve vang rền bên tai và hè nhau đâm chích vào mạch máu chúng tôi.

Mấy lúc sau nầy, chúng tôi thâu gọn lộ trình với bảy hay tám dặm mỗi ngày. Ði ngang qua hồ Clear Lake, rồi qua sông Skagit và đang tiến về khu phố Sedro Woolley, ngay đây chúng tôi sẽ chuyển sang Xa Lộ 20 để đến Marblemount. Gần đến Sedro Woolley, trên đoạn đường dài thẳng tắp, có một số người đến chúc mừng, dâng tặng thức ăn, hoặc chỉ đứng nhìn và chụp hình. Cảnh nầy giống như tuần lễ đón mừng người thân về nhà vậy. Có lẽ hôm nay chúng tôi đã tiếp chuyện với hàng trăm người, nếu tính từ lúc đến vùng nầy chắc cũng có tới cả ngàn rồi. Dân miền nầy rất mộc mạc và cần cù, có đủ cả những nông dân, thợ mộc, và buôn bán. Hầu hết họ đều ủng hộ chúng tôi.

Lúc trời chạng vạng tối, chúng tôi kéo nhau vào một công viên để căng lều. Tôi nhìn chiếc xe kéo chất đầy những trái bôm, bánh mì, và những củ cà rốt trồng ở vườn đang chìa ra những cọng lá tươi xanh rì. Những người nầy có lẽ không biết nhiều gì về đạo Phật, nhưng thấy rõ, ý họ nghĩ rằng chuyến đi của chúng tôi là việc làm tốt và xác đáng. Có lẽ nhờ biết vậy nên thật giúp tôi vượt qua những lúc chán chường nhất. Bạn có thể gọi đó là gì cũng được, nhưng nếu gọi đó là lòng tri ân thì thích hợp nhất: Tri ân có dịp thực hiện chuyến bái hương nầy, tri ân đối với sự dẫn dắt khéo léo của Sư phụ. Tri ân có được cơ hội chia sẻ giáo lý của đức Phật đến kẻ khác. Tri ân đã có dịp học hỏi cách giao tiếp với mọi người bằng cách học hỏi làm sao xử sự với chính mình. Tri ân có dịp tu tập với người bạn đồng hành đáng quý. Và tri ân đến tất cả mọi việc dù tốt hay xấu đã xảy đến.

 

Ngày 12 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Hôm nay chúng tôi tách khỏi xa lộ 9, và băng qua xa lộ 20. Sư Phụ thường nói: “Luôn luôn có hai con đường trước mặt bạn. Một là dẫn đến giác ngộ, và một là đưa đến mê lầm.”

Ý định tách rẽ vào con đường trước mặt không có gì là mới mẽ đối với chúng tôi cả. Vì đó là sự lựa chọn theo lối cũ rích của việc làm đúng hay làm sai, thiện hay ác. Tuy nhiên, vấn đề có khi xảy ra không phải là để lựa chọn, cũng như việc tu hành, đôi lúc chúng ta đạt đến một thời điểm nào đó mà chẳng có con đường nào trước mắt cả. Một mặt chúng ta bỏ lại sau lưng tất cả những gì trong cuộc sống, cả gia đình, bạn bè, nghề nghiệp, thú vui và tất cả để tìm mục đích cứu cánh. Mặt khác chúng ta chưa đạt được cứu cánh, mà vẫn còn là phàm phu tầm thường. Ðó chính là lúc chúng ta đang ở trong thế kẹt, như trên vùng đất không người. Ở lưng chừng giữa hai lãnh vực, chúng ta rời bỏ “trần tục” nhưng chưa qua được đến “bờ kia,” thì đây là đoạn đường khó khăn gay go. Chúng ta có thể bị một lực kéo mãnh liệt để trở lại “đời sống bình thường.” Thế gian lúc nào cũng như đang bày binh bố trận những mê say khoái lạc để mời gọi. Bấy giờ những đam mê khát vọng đó như tập trung một lực khếch đại tựa hồ nổi lên lượng sóng lớn mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tâm có thể gọi là “Tâm Ngã,” nó đang làm một cuộc trả giá để chuộc lại bản ngã, để trở lại cuộc đời với chính hình thể của nó. Dễ gì nó chịu buông bỏ. Với chút ít công phu tu tập đã qua, chúng tôi đánh thức những tài năng quyền lực đang tiềm ẩn bên trong, nên nhận biết mình có khả năng làm được tất cả, dù ở mọi hoàn cảnh phương hướng nào và thực sự sẽ thành tựu.

Nhưng đó chưa là mục đích tối thắng đâu. Có rất nhiều pháp để Phật tử tu tập và lại còn nhiều hơn thế nữa đối với tu sĩ, thế nên chúng tôi phải tiến thêm lên. Ðây chỉ là một giai đoạn tu hành, là lúc để thâu nhiếp sự quyết tâm và không quên mục đích thuở ban đầu, là muốn vượt khỏi sanh tử luân hồi, muốn thành Phật, muốn tách khỏi bụi trần. Cho nên chúng tôi phải kiên nhẫn và tiếp tục tiến lên.

 

Ngày 13 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Do viết:

Xa lộ North Cross chạy xuyên qua thung lũng phì nhiêu Skagit, ngang qua những ngọn núi Cascade vùng Omack. Ðường lộ rần rộ đầy ấp những xe vận tải gỗ, xe đi cắm trại, xe đạp và rất nhiều xe nhà đang qua lại dưới bầu trời nắng gắt đầy bụi bặm.

Thầy Hằng Cụ phát giác có con nai mới bị giết nằm trên mặt lộ. Ai đó đã chẻ tét phía sau đầu nó chỉ để lấy cặp sừng. Hình ảnh nầy tôi sẽ không bao giờ quên được. Cái gì đã khiến người ta hành động dã man đến như thế?

Khi chúng tôi lạy qua Lyman, rồi tới Hamilton, vài người dân vùng nầy buông lời chỉ trích mỉa mai. Ðiều đó không có gì là lạ, nhưng lại khiến tôi bắt đầu suy nghĩ về nhân duyên đưa đến những hành động như thế và tại sao con nai lại bị như vậy. Hình ảnh cái chết thê thảm đó như khắc sâu vào tâm thức tôi. Ðó có lẽ là chủng tử của những việc làm trong quá khứ nay đã đến lúc thu gặt kết quả. Danh ca Bob Dylan diễn tả điều nầy rất sâu sắc trong bài hát như sau:

Ôi! mỗi kẻ thù tôi đối diện,

Là nhân quá khứ trước của chúng ta.

 

Ngày 14 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Chúng tôi lạy được tám dặm rưỡi, qua khỏi khu phố Concrete. Dưới ánh nắng mùa hè như thiêu đốt, khiến da chúng tôi trở nên nám đen. Sức nóng gay gắt như tuôn xả cho hả cơn giận. Cũng như những lúc sau nầy hai chúng tôi thường thấy bực bội với những chuyện nhỏ nhen. Ðôi khi chúng tôi hờn dỗi nhau mà không biết vì lý do gì. Có điều luôn khiến tôi phiền giận khi thấy Thầy Hằng Do như cố ép tôi lạy khoảng đường dài bằng cách đi xa tôi hơn. Có lẽ do tôi tưởng tượng, nhưng tôi cũng không nghĩ là vậy. Ðôi khi Thầy đi thật xa về phía trước hơn tôi tưởng. Ðể rồi tôi phải lạy chừng bằng ấy khoảng cách, như vậy mới có thể được nghỉ. Nhất là khoảng gần đến giờ ngọ, đợt phủ phục cuối cùng trước khi chúng tôi ăn cơm, luôn là khoảng đường thật dài. Tôi lạy lấy lạy để không ngừng, và Sư ta cứ đi tới mãi tuốt luốt phía trước. Tôi không dằn lòng được nên bắt nghĩ đến câu chuyện có ông treo tòn ten củ cà rốt trước mặt con lừa và rồi khiến tôi phát nổi hầm hầm lên.

Dĩ nhiên, khi tôi lộ vẻ quạu quọ chỉ chút xíu thôi là Thầy Hằng Do biết liền, dù tôi chẳng nói lời nào. Rồi sau đó cả đoạn đường trở nên chua chát làm sao, còn Thầy cũng bắt đầu đi vào thế giới im ỉm. Ðây là một nghiệp chướng lý thú mà chúng tôi phải cố gắng vượt qua. Vì hai chúng tôi sống gần gũi nhau trong thời gian quá lâu như vậy, nên có nhiều chỗ đè ép bất bình trong tâm. Thường thì tôi không thể nào nhận ra lúc nào Thầy hết phiền não, hay lúc khởi điểm phiền bực của mình. Thật ra những cái vui vẻ của chúng tôi thì đều giống như nhau. Nhưng dù ở trường hợp vui hay phiền não, cũng là dịp tốt để chúng tôi nghiền ngẫm.

Như lời Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma đã nói: “Giác ngộ là phiền não và phiền não tức là giác ngộ.” Dĩ nhiên lời Tổ dạy là một chuyện và chúng tôi hiểu về lời đó là một chuyện khác. Khi Tổ Ðạt Ma từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa diễn giải giáo pháp, lúc đó có rất ít người tin, lại càng ít người hiểu được. Phiền não từ đâu đến? Ai là người đang phiền não? Cái sân giận thật ra là ở chỗ nào? Trong khi lễ lạy tôi có rất nhiều thì giờ để suy ngẫm về những điểm bất đồng, và tìm tòi về những ranh giới ảo tưởng trong tâm con người. Nhưng đôi khi quán mãi mà phiền não vẫn không chịu đi, thì chúng tôi tạm ngưng cuộc lạy, bèn cùng nhau ngồi xuống pha trà đường với chanh tươi. Mặc dầu đó là một phương tiện theo đúng như pháp thế gian, nhưng nó giúp ích chúng tôi rất nhiều.

 

Ngày 15 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Lại thêm một ngày nóng bức đầy bụi bặm. Xe cộ tắp nập, đầy những xe hàng chở gỗ, và phiền não như ở khắp mọi nơi. Chúng tôi lạy dọc theo xa lộ 20 và tiến vào một thành phố nhỏ ở Van Horn. Ông Olsons, chủ tiệm tạp hóa và cây xăng, mời chúng tôi vào uống nước ngọt lạnh. Sinh hoạt quanh vùng nầy thật ồn náo, nhiều người cũng đã nghe qua chúng tôi từ mấy tháng trước rồi. Trẻ con và chó chạy loanh quanh đó đây. Tôi chợt thấy một ông có râu đứng tuổi, thấp người, mắt đeo kiếng, đang lang thang ở trạm xăng, rồi nói chuyện với đám trẻ con. Tôi không nghĩ là ông đã từng đến đây, nhưng thấy dáng ông ta như có vẻ là bạn tri kỷ của mọi người. Ông nầy có chiếc xe truck màu trắng, kéo theo xe rờ mọt (trailer) kiểu tự làm và hai con chó mà ông muốn cho đi. Tôi sửng sờ khi thấy ông đi về phía mình và hỏi tôi có tự xưng mình là Phật tử không? Trông ông có vẻ thật tự tại và đạo mạo.

Tôi đáp: “Sao, ơ…, ơ…., đúng vậy.” Lòng thắc mắc không biết ý ông muốn gì.

Ông lại hỏi: “Thầy có muốn nghe những gì đức Phật dạy, diễn đạt bằng tiếng Anh đơn giản không?”

Tôi không muốn trả lời không, vì như vậy có vẻ không đúng. Tôi cũng không muốn nói là muốn, vì như vậy chứng tỏ là mình đã không biết. Tôi đưa mắt nhìn quanh, thấy có đám người đang tụ tập. Trong mắt ông nầy như có một tia sáng tinh ranh.

Nhưng rồi tôi nói: “Ðức Phật dạy gì?”

“Dạy lòng từ bi. Ðức Phật bảo chúng ta ngừng sự ngược đãi làm khổ lẫn nhau, nhưng hầu hết không ai chịu nghe cả!”

Tôi biết chắc cái ông nhỏ người nầy đã thấu rõ con người thật của tôi rồi, nhưng tôi lẹ làng hỏi ngược lại: “Nghe gì chớ?”

“Thì những lời đức Phật dạy đó!” Rồi bậc cười ha hả và nói tiếp: “Tôi không nghĩ là Thầy theo Ðạo Phật hoàn toàn.”

Thôi rồi! Thiệt là ổng muốn đặt mình vào thế kẹt mà! Tôi đáp: “Tôi đâu có nói tôi hoàn toàn.” Rồi tôi cố thối thác để tự biện hộ. Ông nhỏ con nầy ngừng một hồi rồi tiến tới gần hơn và nhìn thẳng vào mắt tôi. Tâm tôi từ từ loé lên những cử chỉ giận hờn đối với Thầy Hằng Do trong mấy ngày qua.

Ông nói: “Ðức Phật dạy từ bi, phải có lòng từ bi hơn nữa!” Gỡ cặp mắt kiếng xuống, rồi chìa mặt vào mặt tôi, cách khoảng mười hai tấc, nói: “Tôi không phải là kẻ thù, mà là bạn với Thầy mà! Thầy biết không, có bao nhiêu người có thể nói với Thầy như vầy?”

Nghe đến đây lòng tôi thật xúc động, không nghĩ gì đến chuyện xấu hổ nữa. Trước đây tôi chưa bao giờ gặp qua ông nầy, vậy mà ổng liền đặt cho con số dzê rô (số 0) hiển hiện ngay lên tôi rồi. Mọi người nhìn vào tôi, tất cả đều im lặng, tôi hoàn toàn không nói được lời nào. Thế rồi chẳng biết nói hay làm gì hơn, nên tôi trở ra đường và bắt đầu lễ lạy. Chỉ chốc lát sau, tôi bắt đầu hiểu ra đó thật là một cuộc gặp gỡ huyền diệu. Cũng giống y như Sư phụ thường xử sự vậy. Ông đã nói đúng ngay chóc cái sai quấy và chỉ thẳng cái dính mắc của tôi. Trong khi lễ lạy tôi mới bắt đầu cảm thấy xấu hổ, mà đã lâu rồi tôi không nhận thấy. Tôi thật đã nhiều lần đối xử tệ bạc với Sư Do, mặc dù chỉ là gián tiếp hay ngấm ngầm. Không những thế, tôi lúc nào cũng hay nổi xung. Nghĩ đến điều nầy làm tôi cảm thấy xót xa quá. Nhớ có lần Sư phụ đã viết bài kệ:

Chân nhận tự kỷ thác,

Mạc luận tha nhân phi,

Tha phi tức ngã phi,

Ðồng thể danh đại bi.

Nghĩa là:

Hãy nhận thật lỗi mình,

Chớ bàn tới lỗi người,

Lỗi người là lỗi mình,

Ðồng thể mới đại bi.

Tôi hối hả lạy gấp trên xa lộ cho đến chỗ Thầy Hằng Do đứng chờ bên chiếc xe kéo. Thầy không biết gì về cuộc đụng độ nho nhỏ giữa tôi và ông lão, nên tôi kể lại những gì đã xảy ra. Chúng tôi ngồi xuống khuấy chanh bột (lemonade powder) với nước sông Skagit. Lần đầu tiên tôi nhìn thẳng mặt Sư đệ một lúc lâu. Trong phút chốc chúng tôi đồng chia sẻ một nụ cười yên lặng thông cảm. Tôi cảm thấy mình như già đi, già đi, già hẳn đi! Rồi cả hai chúng tôi đứng dậy tiếp tục lên đường.

 

Ngày 16 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Cụ viết:

Chúng tôi lạy thêm được tám dặm rưỡi nữa, qua khỏi vùng Rockport và hiện đang dựng lều. Ngày mai chắc vào tới Marblemount. Chúng tôi gọi điện thoại báo cáo Sư phụ biết về tiến trình.

Sư Phụ nói: “Giỏi! Giỏi lắm! Tụi con có muốn đi Hồng Kông, Ðài Loan, Singapore, Nhật Bản, Ấn Ðộ, Nepal, Tích Lan và Việt Nam nhân chuyến hoằng pháp nầy không? Chúng ta sẽ giảng pháp và thăm viếng vài nơi đức Phật đã cư ngụ.” Giọng Sư phụ thật vui vang lên qua đường dây điện thoại.

Tôi sửng sờ: “Dạ muốn, dạ muốn, chúng con rất thích đi!”

“Ði theo ta thì nhiều cực khổ lắm! Tụi con có chắc là muốn đi không?”

“Dạ muốn, con thật chắc mà!”

“Ô-kê, nếu thật không sợ cực khổ, thì khi các con trở về đây, chúng ta sẽ chuẩn bị cho chuyến đi nầy.”

Ông Dennis Ammons, dân vùng Hamilton, đã từng theo dòm chừng chúng tôi suốt cả quảng đường vùng nầy. Ông đậu chiếc cam nhông nhỏ màu xanh ở phía trước nửa dặm, rồi chờ chúng tôi tiến tới. Lúc chúng tôi đến gần thì ông xuống xe, phì phà điếu xì gà, ưởn ngực ra vẻ hãnh diện, vừa giật giật cọng dây nịch vai (suspenders) màu sắc cầu vòng, vừa hỏi chúng tôi có chuyện gì không. Ông nói: “Ðừng có bỏ xót cái nào nhé!” Rồi lái xe tới phía trước để chờ nữa.

Ông Howard Miller là ủy viên hội đồng thành phố, đến chụp hình chúng tôi và rất nhiều người thân mật ra chào đón. Họ bảo người dân da đỏ đã diễn tả cảnh nầy như sau: “Bạn được một lần uống nước sông nầy, thì chắc chắn có ngày bạn sẽ trở lại nơi đây.” Chúng tôi đã từng uống bao ngày rồi.

 

Ngày 17 Tháng 8 Năm 1974. Hằng Do viết:

Hồi tối nầy bỗng nghe có tiếng mớ vang lên từ phía Thầy Hằng Cụ: “Ê! Có mấy con quái vật ở dưới đường đó!” Giọng nói lớn nghe rõ vanh vách. Sau khi thức giấc, Thầy kể rằng đã mơ thấy Thầy lật ngửa mặt đường lên như lật một tấm thảm, và thấy phía dưới có hàng ngàn con vật, hình dáng như yêu quái.

Chúng tôi dậy sớm để lạy qua khu phố nhỏ vùng Marblemount trước khi mọi người thức giấc. Và tiếp tục lạy ba dặm không ngừng nghỉ để đến địa điểm của tu viện tương lai. Thật là cao hứng, chúng tôi vừa tới khu vực của chùa thì đúng 10 giờ rưỡi sáng, cũng là lúc sư huynh quỳ lạy lần cuối cùng. Chúng tôi kết thúc cuộc bái hương bằng cách trì vài biến chú Ðại Bi, và hồi hướng công đức đến tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi. Sau đó chúng tôi dùng cơm trưa trên tảng đá lớn nằm cạnh bên sông Skagit, đang cuồn cuộn chảy phía dướI.

Cuối ngày, chúng tôi leo lên đỉnh núi Sauk. Khung cảnh hùng vĩ nơi đây thật bất khả tư nghì, thênh thang trọn vùng thung lũng Skagit và cả 45 dặm đoạn đường cuối mà chúng tôi đã lạy qua. Mặt trời bắt đầu khuất bóng, cũng vừa lúc chúng tôi lên đến đỉnh 5500 feet (hơn 1600 mét) độ cao. Một vùng biển mây màu hồng, màu xanh đang trôi lơ lửng trên những cụm đảo, trông giống như những khối kẹo bông gòn khổng lồ. Chung quanh chúng tôi có đến hàng trăm ngọn núi to tướng, màu cam và tím trải dài vô tận. Núi Baker lờ mờ phía trước như đang chìm sâu trong thiền định. Trên bầu trời những vì sao bắt đầu xuất hiện. Bỗng nhiên chúng tôi thấy có một làn ánh sáng thật lạ từ phía cuối chân trời. Một phút nó như hình lưỡi liềm, phút sau đó thì giống hình quả banh tung lên. Nó ẩn hiện mấy lần rồi thình lình bừng sáng lên và bắn xẹt đi như trái banh lửa. Phía bên trái nó, có đám mây to tướng màu đen xám trải dài cả trăm dặm, nhìn tưởng lầm như hình dáng con rồng đang phun lửa, trông giống như nó đang rượt đuổi theo trái banh sáng chói kia. Sau đó, bóng tối tràn về cùng với trận mưa như đã tích tụ từ mấy tuần qua được dịp đổ xuống xối xả, lớn nhất mà đã lâu rồi chúng tôi mới được chứng kiến. Tôi ngước mắt nhìn trời, lòng bâng khuâng khi trận bão thổi vào.

Chuyến bái hương hoàn mãn!

!P199-SF.jpg (111678 bytes)

          

Vào tháng 5 năm 1977, hai vị Tỳ Kheo là sư Hằng Thật và sư Hằng Triều cũng từ Chùa Kim Sơn, sẽ bắt đầu chuyến bái hương lần thứ hai, từ Los Angeles đến Chùa Vạn Phật Thánh Thành ở vùng thung lũng Ukiah, cách San Francisco khoảng 110 dặm về phía bắc.

Nhất Tâm Đảnh Lễ

 

!P506-Heng Sure.jpg (66378 bytes)

Chú Thích

Tỳ Kheo: Vị Tăng Phật giáo thọ giữ 250 giới.

Tỳ Kheo Ni: Vị Ni Phật giáo thọ giữ 348 giới.

Bồ Tát: Một chúng sanh đã giác ngộ và đem giác ngộ của mình để giác tỉnh kẻ khác. Một Bồ Tát hoàn toàn đầy đủ giới đức của: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ để trở thành Phật.

Phật: Vị đại giác ngộ, thấu suốt tất cả mọi vật và lòng đại bi quyết tâm cứu vớt tất cả chúng sanh. Ngài bảo rằng: Mọi loài chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả đều có khả năng thành Phật.

Pháp: Phương pháp tu hành đến giác ngộ, hầu hết là những giáo lý của đức Phật.

Pháp Sư: Theo cách cung kính gọi một vị Tăng hay một vị Ni Phật giáo. Giải theo chữ, có nghĩa là một người hiểu rõ giáo pháp và đem sự hiểu biết đó dạy lại người khác, cũng có nghĩa là một vị Tăng hay một vị Ni kính trọng giáo Pháp như là Thầy của mình.

Quả: Trái, Kết quả. Chữ đầu của pháp danh cho những ai đã thọ Tam Quy với Hòa Thượng Tuyên Hóa.

Hằng: “Luôn luôn” hay “thường hằng.” Tên đứng đầu cho những vị xuất gia Tăng hay Ni, đệ tử Hòa Thượng Tuyên Hóa. Hòa Thượng đặt tên Quả và Hằng đều có ý nghĩa liên quan với nhau.

Tăng Ðoàn: Ðoàn thể Tăng đoàn gồm những Tăng, Ni Phật giáo, giải theo chữ có nghĩa là “một đoàn thể thống nhất hòa hợp.”

Tam Tạng: Là 3 tạng kinh điển Phật giáo:

Kinh: Gồm những lời giảng của đức Phật.

Luật: Là những giới luật oai nghi.

Luận: Là những luận nghị giải thích kinh điển Phật nói .

Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng.

Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di: Danh từ gọi cung kính đối với người cư sĩ nam và cư sĩ nữ đã quy y Tam Bảo và thọ Ngũ Giới: Không Sát Sanh, Không Trộm Cắp, Không Tà Dâm, Không Nói Dối và Không Uống Rượu.