Chinese | Vietnamese

Hòa Thượng Tuyên Hóa

Cuộc Đời và Sự Nghiệp Hoằng Hóa

Quyển 1

HTTuyenhoa.jpg (53513 bytes)

Nguyên tác: Tuyên Hóa Thượng Nhân Sự Tích

法界佛教總會

DRBA/DRBU/BTTS

www.drbachinese.org

 

Phần I: Tu Hành Tại Trung Quốc

1) Thừa nguyện trở lại
2) Lập chí tu hành
3) Vang danh hiếu tử
4) Dẫn dắt kẻ mê
5) Quy y Tam Bảo
6) Đọc sách dạy học
7) Cửu tử nhất sanh
8) Tất cả là thử thách
9) Định lực thắng ma
10) Vui làm việc thiện
11) Không nhiễm nữ sắc
12) Oai đức phục tà
13) Cư tang bên mộ từ mẫu
14) Mười tám đại nguyện
15) Mưa dầm nhịn đói
16) Y nguyện cứu người
17) Tùy cơ giáo hóa
18) Am tranh không cháy
19) Mộng gặp Độ công (Thầy Độ Luân)
20) Quả Năng xuất gia
21) Tiểu Thần Thông Quả Tá
22) Nước ngập Đông Tỉnh
23) Long Vũ Mao Bồng
24) Bất muội tiền nhân (chẳng sai nhân trước)
25) Ma nữ Như Ý
26) Cảm Ứng Ðạo Giao
27) Cầu tự được mãn nguyện
28) Thấu suốt nhân quả
29) Tham phương hành cước
30) Từ bi trị bịnh
31) Bái kiến Ngài Hư Vân
32) Giang Tây hoằng Pháp
33) Quyết biệt Vân Môn
34) Tâm huyết chư Đại Đức

Phần II: Tùy Duyên Tại Hương Cảng

35) Tham Thiền trong động Quán Âm
36) Đức độ hàng phục tà ma
37) Đá tuôn nước cam lồ
38) Vị “A La Hán” sống
39) Lê Mẫu cầu độ
40) Ngỗng đến nghe kinh
41) Lòng thành thông Thánh (Thành cách Phật hựu)
42) Ma đến cầu Giới
43) Tín giả được cứu
44) Phật lực vô biên
45) Người điếc nghe Kinh
46) Thị hiện trong mộng
47) Quả báo cua kẹp
48) Ung nhọt thuyên giảm
49) Tùy cơ thuyết pháp
50) Đồng kiết thiện duyên
51) Tín tâm khó tìm
52) Tâm bịnh kỳ lạ
53) Trùng hưng cổ tự
54) Trời người đều vui
55) Quỷ ma tùy hỷ
56) Ma chướng của người tu Đạo
57) In kinh tạo tượng
58) Giảng Đường Phật Giáo
59) “Bạch thủy tuyền trung nhất đại thiên”
60) Sang Miến Điện triều tháp
61) Thừa pháp Quy Ngưỡng
62) Ngài Hư Vân viên tịch
63) Úc châu hoằng Pháp
64) Nhân duyên đến Mỹ

 

 

_____________

 

Phần I: Tu Hành Tại Trung Quốc

 

1) Thừa nguyện trở lại.

Hòa Thượng, Thượng Tuyên Hạ Hóa sanh vào Ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), một Thôn nhỏ Huyện Song Thành Tỉnh Mãn Châu, Trung Hoa; Thân phụ là cụ Ông Bạch Phú Hải vốn là một nông phu chất phát; Thân mẫu là cụ Bà Hồ Thị là một Phật tử thuần thành cả đời ăn chay niệm Phật. Ông Bà đã có bốn trai ba gái nay lại được thêm một út trai thật đúng như ý nguyện.

Điểm khác lạ là vừa mới sơ sinh Ngài đã khóc trong ba ngày liên tiếp. Cụ Ông châu mày bồn chồn lo lắng, cả nhà thì bối rối không yên. Cụ Bà cảm giác rằng đứa bé vừa hạ sanh tất không phải người thường, nhân trong đêm chuyển dạ lâm bồn Bà có một giấc mộng diệu kỳ. Bà mơ thấy Phật A Di Đà hiện thân, từ đôi mắt phóng hào quang vàng soi sáng cùng khắp thế giới và làm cho trời đất chuyển động, mục kích cảnh tượng này bà cảm thấy thân tâm tĩnh lặng, và chợt giật mình thức giấc xoay nhìn khắp bốn phía vách nhà mới biết đó chỉ là giấc mộng khiến bà không khỏi luyến tiếc, nhưng khi ngẫm lại thì cũng không phải là mộng vì cảm thấy có hương thơm phảng phất căn phòng hồi lâu mới hết; cho nên Bà lại niệm Phật càng rõ tiếng hơn. Sau đó không lâu Bà hạ sanh một bé trai, tức là Pháp sư An Từ tự Độ Luân và cũng là Hòa Thượng Tuyên Hóa sau này.

 


2) Lập chí tu hành.

Hòa Thượng được nuôi dưỡng trong gia đình hiền đức và lớn lên trong một ngôi làng yên tĩnh ở miền quê. Nhiều người trong làng đã dời đi nơi khác để tầm danh cầu lợi nên cửa nhà thưa thớt, đường xá vắng bóng người, dân làng sống trong cảnh tĩnh lặng, an nhàn. Vì thế khi lên mười một tuổi Ngài chưa từng thấy qua người chết. Cho đến một hôm đang lúc cùng các bạn trẻ trong thôn vui đùa chạy ra ngoài đồng hoang vắng Ngài chợt thấy một đứa bé bọc trong manh chiếu bị bỏ trong bụi rậm, miệng nó ngậm và mắt thì nhắm nghiền. Bọn trẻ liền chạy tới lay gọi nó nhưng đứa bé không động đậy, Ngài không biết em bé này tại sao như thế liền hỏi một người lớn thì được cho biết rằng:

– Nó đã chết!

Ngài vẫn chưa hiểu nghĩa chữ CHẾT là gì? nên vội chạy về nhà hỏi mẹ, Mẹ Ngài bảo:

– Phàm là người ai cũng phải chết, có người chết già có người chết vì bệnh có người chết vì tai nạn, bất luận người giàu cũng như người nghèo hoặc người làm quan kẻ đi buôn người làm ruộng hay nhân công dầu có quyền uy chức phận chi nữa mọi người rồi cũng phải chết.

Càng lấy làm lạ Ngài lại hỏi:

– Nhưng thưa mẹ! vậy có cách nào để khỏi phải chết không?

Lúc đó có một vị Tu đạo đang viếng thăm gia đình Ngài, nghe Ngài hỏi liền đỡ lời:

– Có chứ con phải tu đạo, đó là cách duy nhất; con phải hiểu thấu bổn tâm, giác ngộ bản tánh của mình thì mới mong vĩnh viễn thoát ly luân hồi sanh tử.

Câu trả lời này đa số người nghe đều ít hiểu đạt, mặc dầu tuy chỉ mười một tuổi Ngài không những nghe xong liền hiểu mà còn lãnh ngộ ngay đạo lý thâm sâu này. Lời người khách đã in sâu vào tâm khảm Ngài. Sau đó Ngài quyết tâm xuất gia tu đạo. Khi Ngài trình ý định xuất thế của mình lên Mẹ thì Mẹ Ngài bảo rằng:

– Xuất gia là việc bố thí cao thượng cũng là việc khó làm nhất nếu con có căn lành cùng sự quyết chí thì con sẽ đạt được đạo quả. Mẹ rất vui mừng vì lời nguyện và ý chí của con đã ấn chứng cho giấc mơ kỳ diệu của mẹ thuở xưa, nhưng nay mẹ đã già, hẳn không còn sống bao lâu. Bốn người anh và ba người chị con đều đã lập gia đình, Mẹ hy vọng con ở lại để phụng dưỡng cha mẹ đến lúc cha mẹ qua đời thì con xuất gia cũng không muộn.

Ngài đã tôn trọng lòng mong ước của mẹ tạm gác lại ý nguyện xuất gia và thường theo mẹ Lễ Phật, Tụng Kinh. Từ đó hạt giống bồ đề trong tâm Ngài càng tăng trưởng.

 


 

3- Vang danh hiếu tử.

 

Hạt giống bồ đề trong tâm Ngài ngày một đâm sâu, tuy tuổi còn nhỏ nhưng Ngài đã biết hồi quang phản chiếu. Lúc đầu Ngài tự phản tỉnh tính can cường của mình, nếu bị người khác chọc giận, Ngài chỉ biết la khóc thôi. Một khi đã khóc rồi thì khó mà ngưng được khiến cho cha mẹ khó phương đối trị. Sau đó tánh nết lại cứng cỏi hơn là không chịu ăn uống gì hết làm cho cha mẹ lại thêm phần sầu não. Lúc nhớ lại những khi không biết hiếu thảo với cha mẹ, thâm tâm Ngài rất ư hối hận. Ngài quyết định dùng hành động để sám hối những tội lỗi xưa. Suy đi nghĩ lại, cuối cùng Ngài nghĩ ra một phương pháp là mỗi sáng mỗi chiều, đều hướng về cha mẹ mà lễ lạy. Lúc vừa bắt đầu lạy thì cha mẹ Ngài liền la rầy quở trách, hỏi tại sao mà làm như thế, thì Ngài thưa rằng:

– Xưa kia con không biết hiếu thảo với cha mẹ, nay biết rõ như thế là không phải đạo làm con. Vì thế con nay bắt đầu lạy cha mẹ để biểu thị lòng ăn năn hối cải của con.

Cha Ngài bảo:

– Biết rõ lỗi rồi nên sửa đổi, không cần phải lễ lạy.

Nhưng Ngài vẫn kiên trì giữ nguyện nhất định phải làm; Thế nên cha mẹ Ngài nghĩ rằng:

– Người kề cái chết thường nói những lời lành, có lẽ đứa con này sống chẳng được bao lâu nữa rồi!

Vì vậy mỗi lần Ngài lạy; Ông Bà cụ đều rơi lệ. Sợ cha mẹ quá thương tâm, Ngài bèn ra sân vào mỗi sáng tinh sương khi mọi người còn đang an giấc, Ngài hướng về cha mẹ lạy mỗi người ba lạy. Khuya đến khi mọi người đều lên giường ngủ Ngài lại ra ngoài hướng về cha mẹ mà lễ mỗi người thêm ba lạy nữa. Lạy như vậy qua một thời gian, Ngài cảm thấy vẫn chưa đủ nên lạy thêm trời, bấy giờ Ngài không biết tên của các vị thiên chủ, địa chủ, nhân chủ, mà chỉ biết trời, đất, quân thần, thân tộc sư trưởng. Thế nên mỗi sáng mỗi tối, Ngài lạy trời, đất, vị nguyên thủ quốc gia, cha mẹ và vị Thầy tương lai mỗi vị ba lạy. Sau đó Ngài lại lễ thêm đến tất cả người tốt, người xấu trên toàn thế giới. Ngài cầu mong những người đại ác, bại hoại xấu xa đều cải ác làm lành trở thành người tốt. Ngài cứ gia tăng mãi cho đến tám trăm ba mươi lạy, mỗi ngày sáng, tối hai thời, mỗi thời hai giờ rưỡi. Như vậy Ngài lạy năm giờ bất kể trời sương mưa gió tuyết.

Ngài hết lòng chăm sóc thân sinh và thân mẫu; mùa hè Ngài hầu quạt cho cha mẹ còn mùa đông Ngài sưởi ấm giường nằm cho Ông Bà cụ. Ngài phụng dưỡng cha mẹ như phụng dưỡng hai vị Phật sống, cho nên danh tiếng hiếu thảo của Ngài vang đồn khắp nơi, mọi người trong làng, đều tôn xưng Ngài là “Bạch Hiếu Tử,”  tức người con chí hiếu họ Bạch.

 


 

4-Dẫn dắt kẻ mê.

 

Vào đêm 19 tháng 2 âm lịch, vía Quán Âm, năm Ngài mười hai tuổi, Ngài trải qua một giấc mơ dị kỳ. Trong mơ Ngài thấy mình bị lạc vào đồng vắng hoang dã, chỉ thấy cỏ xanh rậm rạp, nhìn lên chẳng thấy trời, nhìn xuống không thấy bóng người mà Ngài lại đi trên một con đường đầy hầm sâu hố cạn, đường lộ lại lõm chõm; có nhiều hố lớn bằng cái bàn, vừa rộng vừa sâu, nhìn xuống không thấy đáy tối tăm rất nguy hiểm nếu bị té xuống thì khó mà sống nổi. Ngài lặng người, đứng tại chỗ tiến không được mà thối cũng không xong, không biết phải dời chân cất bước như thế nào? Ngài kinh hoàng, nhìn quanh bốn phía không một bóng người để cầu cứu, vừa sợ, vừa run, chợt nghĩ đến ước nguyện tu hành chưa đạt, tâm hiếu phụng dưỡng cha mẹ chưa xong, nếu lúc nầy lỡ xảy ra việc gì không may… nghĩ đến đây Ngài bật khóc lớn. Ngay lúc ấy có một bà Lão, đáng mạo phúc hậu đột nhiên xuất hiện trước mặt, Ngài ngưỡng đầu lên xem thì thấy Bà mặc y phục người tu, tay cầm gậy trúc, chân mang dép rơm. Bà lộ vẻ trầm tư, đôi mắt sáng ngời, miệng mĩm cười bảo Ngài rằng:

– Này bé, sao con lại khóc dữ vậy?

– Con chớ lo hãy đi theo dấu chân ta thì sẽ không bị lạc, ta sẽ đưa con về nhà vì đường còn xa vạn dặm nên trong lúc đi con phải cẩn thận đừng để trượt chân nhé!

Bà lão đi trước Ngài lần bước theo sau, Bà cụ dẫn đường và không mấy chốc được thoát ra khỏi hiểm lộ đến một con đường lớn bằng phẳng, phút chốc ngôi nhà hiện ra, Ngài cảm thấy vui mừng khấp khởi: À! Cuối cùng mình đã về đến nhà rồi, thật là con đường khủng khiếp.

Ngoảnh nhìn lại con đường nguy hiểm ấy Ngài phát hiện có rất nhiều người đi theo: trẻ, già, đàn ông, đàn bà, tu sĩ và có cả những nhà học giả nữa, Ngài cảm thấy lạ bèn hỏi Bà Lão:

– Thưa Bà, họ là ai? Họ từ đâu đến và đang đi đâu vậy?

– Họ là những người đều có duyên với con, họ đang lần bước theo con để vượt qua đường hiểm trở và họ cũng muốn về nhà. Bà lão tiếp:

– Đường còn xa vậy con phải dìu dắt họ cho chu đáo, Bà có nhiều việc phải làm nơi khác chẳng bao lâu sẽ trở lại, nên bây giờ bà phải chia tay với con, chúng ta sẽ gặp nhau trong một ngày gần đây.

Ngài muốn hỏi quý danh và chỗ ở của Bà thì được trả lời:

– Chúng ta là người đồng hương, về tới nhà thì con sẽ biết, con không nên hỏi nhiều như vậy.

Nói xong Bà quay mình biến mất, Ngài bèn dẫn mọi người về nhà an toàn, vừa về đến nhà, Ngài bổng giật mình tỉnh giấc, lòng mừng thơi thới.

 


 

5- Quy y Tam Bảo.

 

Trong giấc mơ lúc đi lạc vào đường đầy hố sâu hiểm trở Ngài như vừa trải qua một lần sinh tử, nhờ có Bà lão chỉ dẫn nên Ngài mới thoát nạn, sau khi tỉnh giấc Ngài cảm động vô cùng biết được đây không phải là mộng tầm thường và luôn nghĩ rằng: Sanh tử là đại sự, ai mà biết được vận mạng ngày mai của mình, một khi thân này mất đi muôn kiếp khó mà được lại; Vì vậy ý niệm xuất gia cầu Pháp tu đạo của Ngài ngày càng kiên cố. Ngài đem việc này trình lên cha mẹ và được Ông Bà đồng ý cho Ngài tìm Thầy học đạo. Ngài bắt đầu một cuộc hành cước tham vấn nhiều nơi, trải qua ba năm cuối cùng Ngài gặp được Lão Hòa Thượng Thường Trí. Khi diện kiến Hòa Thượng Ngài cảm giác như đã thân thiết với lão Hòa Thượng tự bao giờ, Ngài thỉnh Hòa Thượng ban giáo pháp tu đạo làm sao để cắt dứt dòng sanh tử. Lão Hòa Thượng trả lời:

– Con phải hằng thường chân thật tu hành pháp môn không hai (bất nhị) chỉ hướng Nhất thừa.

Nghe xong, Ngài hoan hỷ đảnh lễ Lão Hòa Thượng Thường Trí làm thầy và chánh thức Quy Y Tam Bảo.

Đại sư Thường Trí là một vị Thầy mà đạo đức cao dày với sự chứng đắc không thể nghĩ bàn. Mặc dầu không bao giờ Ngài học đọc, học viết nhưng môn đồ của Ngài thường nghe Ngài thuyết pháp trường hàng và kệ tụng làu thông, Ngài có khả năng đó vì Ngài đã giác ngộ chân tánh thanh tịnh.

 


 

6- Thời kỳ học tập, giáo huấn.

 

Khi lên mười lăm tuổi Ngài mới bắt đầu đi học tại một trường tư. Lúc mới học làm câu đối, Ngài hứng thú vô cùng, càng học càng tâm đắc. Bấy giờ trong lớp có trên ba mươi bạn đồng học mỗi lần họ không đáp được câu đối liền tìm đến Ngài, Ngài đều hoan hỷ giúp họ. Đây là cơ hội cho Ngài tu trí và mở rộng tâm từ. Chưa đầy hai năm rưỡi sau Ngài đã thông suốt các ý chỉ của Tứ Thư, Ngũ Kinh và còn học thêm rất nhiều về ngành bốc, y, lý, số, chiêm tinh, bách tánh. Tuy nhiên Ngài chú trọng nhất về việc học và hành các kinh điển Phật-giáo. Ngài vượt hẳn các bạn đồng học và có thể thuộc làu một tác phẩm sau khi chỉ đọc qua một lần. Thế nên năm mười tám tuổi Ngài bắt đầu dạy học cho hơn ba mươi học trò; họ đều là con nhà nghèo, Ngài cho đó là nghĩa vụ của mình.

 


 

7- Thập tử nhất sanh.

 

Một ngày nọ trong nhóm hơn ba mươi học trò của Ngài, đột nhiên có đến mười mấy người bị chứng bệnh đậu dương mao (lông dê), một loài bệnh truyền nhiễm khắp làng rất khó trị và có thể làm chết người. Nếu không kịp cứu chữa, thì trong vòng ba ngày người bệnh sẽ chết. Nếu chữa kịp thì bệnh sẽ thuyên giảm. Bệnh đậu này một khi phát khởi thì sanh chứng nhức đầu dữ dội, rất may là Ngài biết cách điều trị, Ngài dùng đầu một cây quẹt lửa nhấn vào chỗ nổi phù ở trước ngực của bệnh nhân, nếu chỗ bị nhấn đó hỏm vô mà không phù ra liền, thì chắc chắn là bệnh đậu dương mao, kế đến Ngài dùng cây nhọn giống như cây kim, chích thẳng vào chỗ sưng rồi cạy miếng thịt sưng đó lên rồi dùng dao xén đi. Lúc nhìn kỹ vào miếng da bị cắt thì thấy có nhiều sợi lông giống như lông dê. Phải trải qua sự chữa trị như vậy thì bệnh mới khỏi được.

Có một học trò mà Ngài rất thương mến, vì cậu này không những biết giữ quy củ mà còn học xuất sắc và Ngài tuyển cậu làm trưởng lớp. Không may cậu cũng mắc phải bệnh đậu này. Có câu nói rằng: “Quan tâm tất loạn (lo thì loạn),” Ngài thật quan tâm về bệnh tình của cậu học trò này nên rất lo âu. Thế nên sau buổi chiều tan học đó, chính Ngài cũng bị lây bệnh này.

Người khác bị bệnh Ngài còn có thể trị liệu cho, nhưng bây giờ bản thân Ngài bệnh thì làm sao đây? Cắt miếng thịt sưng ở trước thân thì không nói chi, nhưng nếu chỗ sưng phía sau lưng thì làm thế nào? Bấy giờ đầu Ngài đau tựa hồ muốn vở ra, Ngài nghĩ thầm: “Con đã hiến trọn cuộc đời cho Phật Pháp, nếu như Chư Phật thấy con chẳng còn giúp ích được gì, con sẽ hoan hỷ từ giả cõi đời này, nhưng nếu chúng sanh còn cần đến con, thì con tin tưởng rằng con sẽ lành bệnh mà không cần chữa trị gì cả.”

Nghĩ vậy xong, Ngài ngủ thiếp lúc nào không hay, chỉ một lát thì giật mình thức dậy và cảm như bị nghẹt cứng trong cổ họng. Ngài cảm thấy đầu Ngài biến lớn ra, không thở được vì trong cổ họng như có vật gì chận ngang. Ngài dùng sức khạc mạnh, sau những cơn ho, Ngài nhổ ra cả đàm lẫn nhiều chùm lông và từ đó Ngài được lành bệnh. Trong đời Ngài, đây là một trong những lần thoát chết mà Ngài đã kinh nghiệm qua. Từ đó Ngài nổ lực trong trách nhiệm truyền bá giáo pháp là sứ giả của đức Như Lai.

Đốn và Tiệm

Sau khi quy y với Lão Hòa Thượng Thường Trí, Ngài rất tinh cần tu tập thiền định, bất cứ kinh Phật nào Ngài cũng xem như là trân bảo, siêu vấn từng chữ từng câu, ngày ngày tụng đọc, nghiền ngẫm và học thuộc.

Khi lên mười sáu, sau khi đi học được một năm, Ngài đã bắt đầu giảng Kinh Phật. Ngài đã giảng kinh Pháp Bảo Đàn, kinh Kim Cang cùng các kinh điển khác cho những vị Tu sĩ ở ngôi Chùa làng không biết đọc, viết và không có trường nào để học cả.

Trong lúc nghiên cứu kinh Pháp Bảo Đàn Ngài càng cảm thấy hoan hỷ tuyệt vời. Chúng ta hãy đọc lời các môn đồ của Lục Tổ trong kinh Pháp Bảo Đàn như sau:

– Chúng ta là thiền phái chính thống, Trường phái Nam truyền Đốn-ngộ. Thầy của chúng ta, Đại sư Huệ Năng là thừa kế chân truyền của giáo pháp.

Ở miền Bắc các đệ tử của Ngài Thần Tú thì xiển dương Tiệm-giáo và tuyên bố rằng,

– Toàn bộ tâm pháp của Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn đã được trao truyền cho Thầy chúng ta là Ngài Thần Tú.

Vì thế hai trường phái trên tranh luận không thôi với nhau.

Khi Hòa Thượng Tuyên Hóa đọc những lời này Ngài nghĩ rằng: Làm sao có thể có Đốn và Tiệm được? Đốn và Tiệm có phải là hai không? Đốn và Tiệm có khác nhau không?

Cũng để diễn đạt tư tưởng của Ngài đối với đệ tử của hai Ngài Lục Tổ và Ngài Thần Tú, Ngài bèn làm bài kệ sau đây:

Đốn Tiệm tuy khác,
Thành công tại một.
Sao phân Nam Bắc,
Thánh Phàm tạm khác,
Căn tánh vẫn đồng.

ĐỐN có nghĩa là thành Phật tức khắc, còn Tiệm có nghĩa là thành đạo từ từ; Tuy nhiên khi một người đã thành Phật thì không còn có Đốn có Tiệm nữa; Tại sao cần phải phân biệt Bắc Tông của Ngài Thần Tú và Nam Tông của Lục Tổ?

Vì lẽ một người đã hành trì Phật pháp một cách tinh tấn trong quá khứ cho nên người ấy được giác ngộ tức thời và đạt Phật quả. “Thánh” chỉ cho đức Phật, còn “Phàm” là nói về chúng sanh; Hai ý kiến dường như khác nhau, nhưng bản chất của mỗi chúng sanh không khác. Đức Phật là một chúng sanh đã đạt được đạo quả, và chúng sanh là các đức Phật chưa thành Chánh-giác. Đức Thích Ca Mâu Ni đã thành đạo dưới cội cây Bồ-đề và Ngài tuyên bố rằng: “Kỳ diệu thay! Thật kỳ diệu; tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, chỉ vì vọng tưởng và tham ái mà họ chưa chứng Bồ Đề.”

Cho nên Ngài đã nói rằng:

“Đừng bảo rằng đức Phật A Di Đà ở bên Tây phương, còn ở Đông phương chỉ là chúng sanh, chớ nên phân biệt như vậy, bản chất giống nhau và nếu quý vị thật sự hiểu được Phật pháp, thì chẳng có gì khác nhau cả. Nếu quý vị tiếp tục tranh luận thì quý vị còn chấp trước và sẽ không hiểu được Phật pháp; Quý vị cũng đừng tuyên dương Sư phụ của quý vị, như là: ‘Thầy tôi từ bên Tàu qua, mang theo Pháp Tạng chính thống, tức là Phật pháp chân truyền.’ Thay vào đó, hãy nói với người rằng: ‘Điều gì Thầy của chúng tôi nói đều là hư huyễn.’ Giáo pháp không thể được diễn tả bằng ngôn từ, lời nói, và trên bản chất không có chánh có tà, chẳng có đúng có sai. Đừng bàn chuyện thị phi về người. Đừng hành động giống như các đệ tử của Lục Tổ và Ngài Thần Tú.”

 


 

8- Tất cả đều là thử thách.

Một hôm Ngài tình cờ phát hiện ra kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, đọc qua một lần Ngài cảm kích vô cùng, biết rằng Đức Địa Tạng thật đại từ bi quan tâm đến chúng sanh như thế mà chúng sanh lại không biết. Vì thế Ngài phát nguyện mỗi ngày quỳ trước chánh điện tụng kinh Địa Tạng. Nền chánh điện làm bằng xi măng thô lại không có nệm quỳ, Ngài thì mặc quần vải mỏng mà quỳ trên nền cứng đó tụng kinh Địa Tạng mỗi lần tụng hai giờ, càng tụng càng hỷ lạc đến nỗi đầu gối bị sướt trầy rướm máu mà Ngài vẫn không hay, mỗi ngày Ngài cứ y giờ quỳ trước chánh điện thành tâm tụng kinh Địa Tạng.

Lần nọ, có một cư sĩ mang phẩm vật đến Chùa cúng dường, thấy Ngài quỳ tụng kinh như thế hết lòng khâm phục và tán thán Ngài với các người khác là:

– Thầy đó dụng công như vậy, như vậy… thật là tinh tấn quá mức.

Sau khi cư sĩ kia rời khỏi, mấy huynh đệ ở Chùa cùng lại mắng Ngài:

– Thầy muốn biểu diễn cố ý cho cư sĩ thấy mình là người chân tu, nhưng chẳng qua là phan duyên đó thôi!

Ngài không một lời biện giải, nhưng rõ biết tâm mình là chỉ muốn tụng kinh thôi.

Từ đó về sau nhiều việc ồn náo, vô lý xảy ra; Trước khi Ngài tụng kinh có những người khác đến la rầy: “Ồ! chỉ giả bộ tu hành đó mà.”  Đến lúc tụng kinh xong họ lại giễu báng: “Ông Thầy giả bộ tu hành, tụng kinh xong rồi kìa.” Ngày ngày đều bị dèm pha nhưng Ngài vẫn nhẫn nại không nói một lời. Trải qua hơn một trăm ngày tụng kinh, ma chướng thật đến. Ngày nọ vừa tụng kinh xong, có một vị đại sư huynh, không nói một lời đến tát vào mặt Ngài một cái, Ngài thắc mắc không biết vì sao, nhưng vẫn không dám hỏi. Xong ông sư huynh quát lên rằng,

– Thầy là ai? Sao lười như thế trốn lánh công tác và an nhàn ở đây, người ta làm việc còn Thầy làm bộ tụng kinh, phô trương cho người ta xem hả? Trong chùa này Thầy làm gì có chỗ để tu? Thầy có công đức gì để tu hành ở đây?

Từ đó Ngài ngừng việc tụng kinh. Tu đạo thật không dễ dàng và luôn gặp chướng ngại, người dụng công tu hành có chút điểm thành tựu thì ma sẽ đến khảo nghiệm định lực của họ; Lúc bắt đầu tu đạo Ngài đã tu trong nghịch cảnh nhưng Ngài chưa từng thối tâm, luôn tinh tấn tu trì trước sau như một.

 


 

9- Định lực thắng ma.

Đến năm mười tám tuổi công phu tu tập thiền định của Ngài đã được thuần thục. Khi lên mười chín, đêm 29 tháng chạp, Ngài mơ thấy mình đi vào một túp lều tranh, góc phía Nam có một  Ông lão và hai Bà lão, phía Bắc có một Thiếu phụ trẻ, nhan sắc cực kỳ diễm lệ, ăn mặc diêm dúa, bồng con nhỏ khoảng một tuổi ngồi trên giường. Bên góc phía Đông có một cây đèn dầu trơ trọi để trên cái rương gỗ; rồi thấy nàng ta lấy tay dập tắt ngọn đèn, và cố ý nói:

– Đêm nay hắn lại không về nhà!

Khi đèn đã tắt, nàng ta nhẹ bước nhanh tới và dang hai tay ôm chầm lấy Ngài; biết thiếu phụ có tà ý nên Ngài quát to:

– Ngươi làm gì thế?

Ngài nói liền mấy lần như vậy. Không nghe tiếng trả lời, Ngài biết rõ đó chính là yêu ma quỷ quái, nếu không thì tại sao không biết hổ thẹn, Ngài bèn niệm lớn: “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, xin Ngài mau đến cứu con!”  Nhờ sức hộ trì của Đức Bồ Tát, vừa niệm xong Ngài giật mình tỉnh dậy, biết mình vừa trải qua cơn ác mộng.

Cũng lạ là phần thân thể mà Ngài bị con ma ôm trúng bị đau nhức khoảng một tuần lễ mới hết. Người nghe chuyện đều kinh dị vì không biết đây là thật hay ảo.

Sau biến cố này; Ngài dạy các môn đệ như sau:

Tất cả đều là những cuộc trắc nhiệm

Để đo lường phản ứng của ta

Nếu không tỉnh giấc để sa vào cám dỗ

Thì mất hết công đức tu hành.

 


 

10- Vui làm việc thiện.

Lúc còn đi học Ngài cũng tham gia vào các Hội đoàn Phật giáo,Từ thiện, Đạo đức… Sau khi ngưng học Ngài dốc hết tinh thần vào việc thiện, không những đã sáng lập trường học miễn phí, cử ban diển giảng mà còn tế bần cứu khốn nữa.

Năm mười sáu tuổi Ngài tham gia Hội Đạo Đức và chỉ một năm sau Ngài đã giảng pháp cho sáu, bảy mươi người đa số là người trung niên.

Khi thuyết giảng Ngài luôn dùng phương cách đơn giản, dễ hiểu. Một ví dụ là việc ăn vỏ khoai, mọi khi các Hội viên dùng bữa trưa tại Hội và không bao giờ họ chịu ăn khoai cả vỏ. Trước đó, Ngài đã giảng về việc ăn những gì người khác ăn không được và làm những gì người khác làm không được, và quan trọng nhất là thực hành điều này một cách chân thật. Những lời dạy của Ngài đã không rót được vào tai của các Hội viên vì họ đã không chú ý nghe.

Vào một hôm nọ, có một số Hội viên dùng bữa trưa với khoai, như thường lệ họ nhổ vỏ khoai cùng khắp sàn nhà. Ngài bèn lấy một cái bát đi vòng quanh nhặt tất cả vỏ khoai, rồi ngồi xuống ăn các vỏ ấy. Hội viên thấy vậy rất đỗi ngỡ ngàng vì chính Thầy mình đã ăn lại vở khoai do mình đã nhai và nhổ ra. Đến lúc đó, họ mới thấm sâu bài học của Thầy về việc ăn những gì người khác không ăn được; Từ đó các Hội viên ăn năn hối lỗi và thay đổi tánh nết.

Mọi người trong làng và các bạn trong Hội đều rất kính ngưỡng lòng hiếu hạnh của Ngài nên đã cử Ngài làm Hội trưởng, lãnh đạo Hội Thiện Nguyện bài trừ hút sách, rượu chè. Lúc đó một người bạn Ngài họ Thiệu, từng làm Phó Hội Trưởng, ông vốn khuyên người cai thuốc, bỏ rượu, không hiểu vì sao chính ông lại phạm giới uống rượu, mọi người trong Hội đều khuyên giải nhưng ông không nghe. Khi Ngài biết được việc này, Ngài nói rằng:

– Tôi sẽ cố gắng thuyết phục ông ta bỏ rượu nhưng nếu tôi thất bại tôi sẽ tự sát và sẽ không bao giờ trở lại thế giới ô trược này nữa.

Vì Ngài nhiệt tâm, đối xử chí thành khẩn thiết như vậy nên đã cảm hóa ông Thiệu, khi ông biết rằng một người bạn vì mình mà dám hy sinh cả tánh mạng nên lập tức ngưng uống rượu và hối lỗi. Sau đó ông được phục hồi chức vụ như xưa.

Vì duy chỉ có Đức mới mong cảm hóa được người khác giữ gìn Đạo lý, mà chính Ngài là người nghiêm trì trước tiên và Ngài tiếp tục ra công làm việc không hề biết mỏi mệt để cất trường học, phòng hội miễn phí cho việc thuyết giảng về các sự tai hại của rượu, thuốc lá, thuốc phiện.

 


 

11- Không nhiễm nữ sắc.

Câu chuyện dưới đây xảy ra lúc Ngài đang nhậm chức Hội Trưởng Hội Đạo Đức Huyện Song Thành,Thị Trấn Lạp Lâm. Một hôm Ngài ngồi dưới gốc cây đọc bài ký thuật, đến đoạn Trương Giám Lý trọng đức viễn sắc, Ngài cảm kích vô cùng bèn ngưỡng lên trời phát nguyện: Xin Trời cao chứng tri, từ đây về sau, con nguyện theo gương sáng của Ngài Trương Nhã Hiên.

Thông thường khi có người phát tâm tu hành tinh tấn thì họ thường gặp nhiều thử thách. Ngay đêm hôm đó có một người đàn bà nhan sắc mỹ miều, lẻn vô văn phòng Ngài rồi dùng sắc đẹp, tiền tài để cám dỗ Ngài, Ngài giữ chánh niệm và nghĩ rằng: Có lẽ người nữ này do Trời cao giả dạng để thử thách lòng thành của ta nên Ngài chí tâm niệm Phật. Nàng kia vẫn cố tình quyến rũ, Ngài nghiêm sắc mặt hỏi cô ta:

– Là một Hội viên của Hội Đạo Đức, ngươi hẳn biết luật nhân quả, vậy giờ ngươi muốn đi lên hay muốn xuống địa ngục?

– Lẽ tất nhiên tôi muốn đi lên.

– Thì ngươi không được hành động như vậy nữa, nếu không thì ngươi chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục thôi.

Thấy Ngài chánh khí lẫm liệt người nữ kia hổ thẹn và âm thầm bỏ đi.

 


 

12- Oai đức phục tà.

Khi Ngài làm việc trong Hội Đạo Đức biến cố sau đây xảy ra: Một hôm, có một hội viên tên Thái Thục Khôn bỗng nhiên trở nên điên loạn, tựa hồ như bị ma quỷ nhập, y nói toàn những lời xằng bậy tự xưng,

– Ta là Hoàng Đại Thiên vì các ngươi không kính phục ta nên ta đến để răn dạy các ngươi đây…

Khi ấy Ông Cảnh Tú Bân, Trưởng ban giảng huấn của Hội Đạo Đức bước lên giảng giải lời hơn lẽ thiệt nhưng Thái Thục Khôn vừa chửi mắng vừa làm náo loạn không nghe lời khuyên, Ông Trưởng ban Tư Pháp và ngay cả Ông Hội Trưởng bước ra khuyên giải nhưng đều bị nhục mạ không phục. Ngài bèn bước tới và tuyên bố rằng:

– Hội Đạo Đức là đoàn thể noi theo luân thường đạo lý của Đất Trời, ngươi đến phá rối hội này tức là nghịch Thiên lý; Vì lẽ đó ta nay phải “thế thiên hành đạo” để trừng phạt ngươi, tuyệt đối ngươi không thể thoát được.

Nghe xong Thái Thục Khôn sắc mặt run sợ, nói:

– Thôi…thôi…., tôi…đi đây.

Lúc đó người bị quỷ ám muốn đi mà không cất chân lên được, nên y càng kinh hãi liền quỳ xuống trước mặt Ngài dập đầu cầu thỉnh:

– Xin Ngài từ bi thứ tội cho, từ nay về sau tôi sẽ không bao giờ dám nhiễu loạn Hội này nữa.

Thấy y đã hối cải. Ngài bảo:

– Ngươi tự biết ăn năn, nay ta tha cho ngươi có thể đi, nếu còn tái phạm thì ta sẽ không dung thứ đâu.

Khi hồn ma vái lạy rồi bỏ đi, thì Thái Thục Khôn cũng chợt tỉnh lại. Từ đó không còn chuyện như thế phát sanh nữa.

 


 

13- Cư tang bên mộ từ mẫu.

Năm mười chín tuổi, Thân Mẫu Ngài lâm bệnh không cử động được, Ngài săn sóc mẹ giặt áo quần, đút thức ăn và chu toàn mọi sự với lòng chí hiếu. Gần Thị trấn Hợp Nhĩ Tân, Bối Âm Hà, có một con hồ ly tinh rất nhiều quyền pháp mà người ta gọi là Hồ Tiên; nó có thể biến hóa thành nhiều hình tướng khác nhau. Khi người Nhật xâm chiếm Mãn Châu, vị Hồ Tiên này kháng cự lại người Nhật, quân đội Nhật đã bí mật cất một lò nấu dầu sôi bằng điện, và họ đã chở những người mà họ muốn bỏ vào vạc dầu đến đó, cách thức thủ tiêu này rất hiệu nghiệm vì không để lại dấu vết gì.

Hồ Tiên bèn biến thành một người già và đi vào khu này. Người Nhật bắn vào ông, nhưng ông không hề hấn gì và ông còn làm nổ tung vạc dầu; nhiều quân Nhật đã bị chết trong vụ này và số còn lại phải rút đi nơi khác vì cho là bị ma ám.

Người ta cũng biết rằng Hồ Tiên có thể chữa nhiều bệnh, ai muốn cầu được trị, chỉ cần đến chỗ ông ta đặt một cái bát và phủ lên một miếng vải đỏ rồi nói lên lời khẩn cầu. Nghe vậy Ngài đến chỗ ông Hồ Tiên để xin chữa bệnh cho mẹ và đặt cái bát, quỳ xuống xin được giúp đỡ và chờ đợi, Ngài đã quỳ liên tiếp trong ba ngày ba đêm không động đậy, không đứng dậy cũng không ăn uống gì cả, nhưng chẳng có việc gì xảy ra. Cuối cùng đến ngày thứ ba Ngài bỏ ra về và chẳng bao lâu mẹ Ngài tạ thế.

Khi ấy là hạ tuần tháng ba âm lịch, những cơn gió ấm mùa xuân làm tuyết tan nên đuờng xá lầy lội khó đi; Vì lẽ mộ phần xa đến hơn mười dặm, trước ngày di chuyển quan tài gia quyến cùng thân hữu rất lo lắng không biết làm sao để khiêng quan tài đến nơi. Đêm đó (trước hôm tang lễ) Ngài thầm lặng cầu xin Long Thiên rằng: Xin cho tuyết rơi hay khiến nước đông lại; đến canh năm, khí hậu đột nhiên chuyển biến, lại thêm gió Bắc thổi đến nhiệt độ hạ xuống và tuyết liền rơi. Ngày thứ hai đất phủ tuyết trắng xoá, đường lộ bùn lầy hôm trước nay được tuyết phủ trở nên khô ráo. Dân làng thấy thế đều biết là do lòng hiếu hạnh của Ngài mà cảm động trời đất; khoảng bốn mươi người đã tham dự tang lễ. Lễ an táng xong, mọi người đều trở về nhà; duy Ngài vẫn ở lại bên mộ phần của mẹ tọa thiền, kiên trì thủ hiếu.

Sau khi mọi người đã đi, khó khăn bắt đầu; Ngài ngồi được một ngày thì hôm sau có một bầy chó sói tới, trông chúng thật là khủng khiếp, và người ta nói rằng chúng đã ăn thịt người; Ngài tự bảo rằng:- Ta hãy coi chúng như không có. Nếu chúng là cọp dữ ta cũng không sợ nữa vì ta đang hành trì hiếu đạo để trả hiếu cho mẹ, và nếu ta bị những con chó dữ này ăn thịt, thì âu cũng là một sự hy sinh tôn quý.

Những con chó sói khi tiến tới gần, chúng nép mình sát đất gầm gừ một cách hung dữ. Từ khoảng ba mươi bộ chúng bò tới cho đến khi chỉ còn cách Ngài khoảng mười bộ. Rồi bỗng nhiên cả bầy quay đầu lại và bỏ đi, nếu Ngài chạy có lẽ Ngài đã bị những con chó sói ăn thịt, nhưng vì Ngài ngồi bất động nên chúng tưởng rằng, Người này không làm phiền chúng ta, cho nên chúng ta cũng không làm phiền ông ấy.

Nhiều người dân vùng này thường bị những con chó sói rượt đuổi, nhưng chúng không bao giờ làm phiền những người đến thăm Ngài.

Xuất gia không được bao lâu thì Ngài đến thăm một người bà con, người này rất tin Hồ Tiên và đã mời Hồ Tiên đến nhà để cúng dường; khi Hồ Tiên đến và thấy Ngài, y liền quỳ xuống và xin Ngài nhận làm đệ tử. Ngài hỏi:

– Ông là ai?

– Tôi là Hồ Tiên ở Bối Âm Hồ.

– Thật sao? Tôi đã quỳ ba ngày liên tiếp để xin ông cho thuốc mà ông không cho và bây giờ lại muốn tôn tôi làm Thầy – Có lý nào?

– Dạ không phải vậy! Không phải là tôi không muốn cho Ngài thuốc. Tôi đã muốn đưa thuốc để được thân cận Ngài, nhưng mỗi lần tôi đến gần, tôi không mở mắt ra được; Lúc bấy giờ tôi đã muốn quy y Ngài, nhưng tôi không thể nào đến gần Ngài được.

Nghe lời này của Hồ Tiên, quý vị có thể lấy làm lạ tại sao cứ mỗi lần muốn đưa thuốc cho Ngài, Hồ Tiên không mở mắt ra được, nhưng nếu quý vị không hiểu, thì cũng chẳng có cách gì giải thích cho quý vị được; khi vẽ một hình người, người ta vẽ những đường nét vòng ngoài chớ không vẽ ruột gan. Để có thể biết Hồ Tiên đã thấy gì, quý vị cần phải tu hành chuyên cần nghiêm túc, và quý vị sẽ tự thấy câu trả lời.

In Manchuria: A Buddha Living in the World - Respectfully written by Upasaka Shi Qi

 

Ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch, Ngài đến Tam Duyên Tự gần ga xe lửa Thôn Bình Phòng ở phía Nam Thành phố Hợp Nhĩ Tân (Harbin) chánh thức xuất gia thọ mười giới Sa Di do Hòa Thượng, thượng Thường hạ Trí truyền giới rồi Ngài trở lại mộ phần của mẹ, một vị cư sĩ dùng rơm tranh cất một cái lều dài tám bộ rộng năm bộ chỉ vừa đủ cho một người ở, căn lều có thể ngăn gió che mưa, nhưng thật ra trong lều và ngoài lều không khác; chỉ mặc một chiếc áo rách Ngài nhận chịu cái lạnh ghê gớm của mùa đông và cái nóng kinh người của mùa hè Mãn Châu. Ngài hành trì hiếu đạo theo tục cổ truyền bằng cách canh chừng phần mộ của mẹ trong ba năm, Ngài chỉ ăn một bữa ngọ mỗi ngày và không bao giờ nằm xuống để ngủ.

Ngài đã đọc nhiều Kinh sách bên mộ phần của mẹ. Trước hết Ngài đọc kinh Pháp Hoa và hết sức vui mừng. Ngài kể: Tôi đã tụng Pháp Hoa trong khi quỳ liên tiếp bảy ngày bảy đêm quên ăn quên ngủ đến nỗi máu ứa ra từ mắt tôi; kế đến tôi đọc Kinh Lăng Nghiêm, tâm bừng ngộ thật khó diễn tả.

Ngài đã nói: Tu hành đơn giản chỉ là chịu đựng cái gì không chịu đựng nổi tôi phải quyết tâm, cái gì người khác làm không được, tôi làm, cái gì người khác chịu khổ không được, tôi chịu, cái gì người khác ăn không được, tôi ăn. Thanh tịnh tâm ý cho đến mức không có một niệm khởi lên vì ham muốn một miếng ăn hay một giọt nước. Quý vị bảo rằng tôi không làm được? Vậy hãy làm cái gì mà quý vị cho rằng không làm được! Đó là hành trì, và đó là điều duy nhất đáng kể.

 

 

Buông đao kiếm thành Hiếu tử.

Tại Mãn Châu, Ngài có một người bạn đạo tên Vưu Trí Huệ, lúc trước chuyên hành nghề trộm cắp nhưng nay đã cải tà quy chánh và thủ hiếu cạnh mộ phần cha mẹ ông. Nhờ công phu tu hành nên ông phát được chút trí huệ; Cho nên một vị sư đã đặt cho ông biệt danh là Hiền giả Vưu. Hoàn cảnh nào đã chuyển hóa ông ta từ một tên trộm để trở thành một người hiền lương?

Một lần nọ khi ông đang hành nghề trộm, bị người ta phát giác và bắn trúng tay ông; Theo thường lệ vết thương này có thể lành trong khoảng một tháng, nhưng đã trải qua cả năm mà chỗ bị thương vẩn chưa lành, do đó ông đã ăn năn hối cải tội lỗi của mình. Ông tự than: Ôi chao mình đi ăn trộm và bị người ta bắn, may mà chưa chết! nhưng không hiểu tại sao vết thương đã lâu không chịu lành thế này?

Nghĩ xong ông bèn phát lời nguyện rằng: “Nếu vết thương này được lành trong khoảng một tuần lễ thì tôi sẽ không bao giờ đi ăn trộm nữa và tôi sẽ ra ngồi tại mộ phần cha mẹ tôi để trả hiếu.”

Lạ thay chưa hết một tuần thì vết thương của ông tự nhiên lành hẳn, cho nên từ đó ông đã từ bỏ mọi chuyện để ra mộ song thân thủ hiếu.

Ngài nói: Bổn phận làm con nên hành hiếu đạo để tưởng nhớ công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục. Một người còn sống lại ra ngồi bên ngôi mộ thì phỏng có ích chi? Chuyện này rất có ý nghĩa và chẳng có ích lợi gì chỉ trừ khi nào các vị không thể làm được, vì đây là một việc rất khó làm. Theo truyền thống Trung Hoa, người con hiếu thảo thường thủ hiếu bằng cách ra ngồi bên cạnh mộ phần song thân đến ba năm. Chuyện này đối với những vị bốn, năm chục tuổi thì tương đối dễ hơn vì họ đã chững chạc và dễ điều phục tâm hơn; nhưng nếu đối với những thanh niên còn trẻ thì quả thật là thiên nan vạn nan. Vì lúc đó hành giả sẽ chẳng có một ai để chuyện trò lại không có một người bên cạnh đặng nhờ đở và phải tự đương đầu với bao nhiêu là khó khăn trắc trở.

Lúc bấy giờ Vưu Hiếu Tử chỉ mới hai mươi mốt tuổi. Thầy ông là người đức độ đã dạy ông ta tu pháp thiền quán và ông Vưu cũng đã dụng công tu hành thật nghiêm mật. Có một hôm đang lúc hành thiền có một con quỷ hiện thân dưới dạng một con rồng hung tợn với cặp mắt như nẩy lửa; Nó quấn chung quanh ông Vưu ba vòng rồi từ từ xiết chặt nhưng sau đó Thầy ông đã điều phục nó và còn nhận làm đồ đệ. Từ đó trở đi Rồng này trở thành vị Hộ pháp đắc lực cho ông Vưu.

Vưu Hiếu Tử hành trì được khoảng hai năm rưỡi, thì gặp lúc trời mưa liên miên, một hôm mưa tầm tả cuốn trôi tất cả hoa màu mới trồng. Ông Vưu bèn phát một lời nguyện: Nếu trời ngưng mưa trong ba ngày tôi nguyện sẽ cắt thịt mình để cúng tế cho Trời.

Lúc bấy giờ ông chưa biết Phật pháp nên ông mới phát nguyện cúng dường cho Trời. Chưa đến ba ngày sau thì trời ngưng mưa và Vưu Hiếu Tử liền cắt một mảnh thịt trên thân. Lần đầu cắt không đứt nhưng ông vẫn cứ cố, cố nữa và sau cùng ông đã cắt được khoảng nửa ký lô thịt mình; khiến ông qụy ngã bất tỉnh trên vũng máu đỏ thắm cả một vùng đất rộng. Khi người mang cơm đến, thấy cảnh tượng trên, vụt chạy báo nhà chức trách. Chính quyền địa phương liền phái một nhân viên đến điều tra, xong việc vị nhân viên này tham gia vào buổi cúng tế này. Sau vụ này rất nhiều người được cảm hóa qua hành động của Vưu Hiếu Tử và họ đã ca ngợi rằng ông như một vị đại Bồ Tát; và người ta đã lũ lượt kéo nhau đến viếng thăm ông. Có một chú chim nhỏ cũng trở thành bạn tốt của ông, con chim này biết nói tiếng người và còn hót rằng: Hãy làm điều lành; Hãy làm điều lành! Càng làm nhiều điều lành càng tốt.

Chim nhỏ thường đậu trên đầu, trên tay, trên vai ông một cách thân thích; Tuy nhiên khi có khách đến viếng nó liền bay đi nơi khác và chỉ trở về lúc khách viếng đã rời khỏi.

Ba tuần lễ sau khi vết thương của ông Vưu lành hẳn thì cũng là lúc chim bay đi luôn không trở lại nữa.

Khi Vưu Hiếu Tử đã mãn ba năm thủ hiếu, Hội Đạo Đức mời thuyết giảng cho Hội. Nhờ biện tài sẵn có, ông đã dạy cho nhiều người về lễ nghi, phép tắc cùng đạo đức và lòng nhân từ.

Lúc bấy giờ người Trung Hoa đã không còn lệ để râu tóc dài nhưng ông vẫn giữ lệ thường nên đã không bao giờ cạo râu tóc. Ông đã để râu tóc mọc dài đúng theo Hiếu Đạo dạy trong Cổ Thư: Thân ta, da ta, râu tóc ta là do cha mẹ sinh ra; không làm gì tổn hại cho thân thể mình thì đó mới chính là đúng với lẽ Đạo.

Thật vậy bảo trọng lấy thân mình là sự bắt đầu của Đạo Hiếu. Ngoài ra lời nói của ông luôn luôn hợp với đạo lý; Hiếu Tử Vưu cũng ăn chay trường và luôn niệm Phật.

Chắc các vị có thể lấy làm lạ là tại sao ông Vưu là một người luôn bảo vệ râu tóc mình mà dám cắt đi một miếng thịt nơi thân? Như vậy có được coi là có hiếu không? Nếu dưới suối vàng cha mẹ ông thấy điều này, họ có thể khóc thét lên không?

Nguyên vì Vưu Hiếu Tử muốn dâng cúng da thịt mình để xin Trời cao cảm ứng với lời khẩn cầu vì phúc lợi cho tất cả dân làng; mưa đã ngưng ngay sau lời phát nguyện của ông; một lời nguyện phát ra với dụng tâm cứu vớt tất cả mọi người. Vì lòng nhân từ và dũng cảm này, ông đã hy sinh cái mà người khác không dám hy sinh cho nên đã được cảm ứng.

Khi thuyết giảng tại hội Đạo Đức, Vưu Hiếu Tử đã nghe danh đồn về Ngài, như vì chúng ta đã biết Ngài cũng đã từng hành trì hiếu đạo và cũng được gọi là Bạch Hiếu Tử; tuy nhiên một chút ngã mạn đã khởi lên trong tâm người trẻ tuổi này: Ta mới có hai mươi mốt tuổi mà đã biết thủ hiếu; khi biết ra còn có người thủ hiếu lúc chỉ mới mười chín tuổi, mình chưa phải là người đầu phá kỷ lục nên nhất quyết phải gặp cho được Ngài. Đồng thời lúc ấy Ngài cũng muốn gặp người hiếu tử họ Vưu. Một ngày nọ, Ngài đến thăm Hội Đạo Đức và nhận ra ông Vưu ngay qua dáng vóc râu tóc của ông; trong khi đó Ngài đã là một tu sĩ với đầu tròn áo vuông. Ngài hỏi:

– Ông chắc là Vưu thiện nhân đây rồi!

– Còn ông là ai?

– Tôi không biết tôi, nhưng tôi biết ông; nhưng thật ra, tôi không biết tôi là ai. Có lẽ ông biết ông là ai, nhưng tôi không biết tôi là ai?

Nghe qua Vưu Hiếu Tử rất đổi ngạc nhiên và thốt lên:

– Thật sao?

Lúc bấy giờ có người đến giới thiệu hai người với nhau. Ông Vưu bèn hỏi:

– Ông từ đâu đến?

– Tôi đến từ chỗ tôi đã đến.

Ông Vưu lấy làm lạ bởi câu trả lời này.

Ngài bèn hỏi ông:

– Còn ông đang đi đâu?

– Tôi chẳng đi đâu cả.

– Thế thì tại sao ông lại hỏi tôi đã từ đâu đến?

Nghe đến đây Vưu Hiếu Tử ra chiều lý thú bèn nắm bắt lấy tay Ngài ví như đôi bạn tri kỷ.

Sau cuộc gặp gỡ và đối thoại thú vị này hai vị Hiếu Tử đã trở thành đề tài hứng thú cho mọi người bàn luận, truyền tụng khắp nơi.

Ngài đã nói rằng:

– Chẳng có nơi nào để đến mà cũng chẳng có nơi nào để đi. Không đến cũng không đi nhưng vẫn đến và đi; đến từ nơi đến và đi từ nơi đi. Kinh Kim Cang dạy: “Vì không đến từ đâu cả và cũng không có nơi nào để đi. Nên gọi là Như Lai;” Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật.

Như Lai giả
Vô sở tùng lai
Diệc vô sở khứ
Cố danh Như Lai.

Khi hai Hiếu Tử diện kiến lần đầu, cả Vưu Hiếu Tử lẫn Bạch Hiếu Tử đều không nói một lời. Nhưng Vưu Hiếu Tử vì hiếu kỳ nên đã hỏi Ngài từ đâu đến. Sư Phụ kể lại rằng: “Vừa mở miệng hỏi, Vưu Hiếu Tử liền biết rằng mình đã lầm. Tại sao?

Mở miệng ra là các vị đã lầm
Khởi lên một niệm là các vị đã sai
Bất luận điều gì có thể nói được bằng lời
Đều không phải là chân lý.

Điều nói được không phải là liễu pháp; Giáo pháp rốt ráo không nói được bằng lời mà cũng không được truyền. Cần phải thấy như vậy.”

 


 

14- Mười tám Đại Nguyện.

  1. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Bồ Tát ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp pháp giới, mà chưa thành Phật thì tôi thề không thủ Chánh giác.
  2. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Duyên Giác ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp pháp giới, mà chưa thành Phật thì tôi thề không thủ Chánh giác.
  3. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Thanh Văn ở Mười phương Ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp pháp giới, mà chưa thành Phật thì tôi thề không thủ Chánh giác.
  4. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Trời, người ở trong Tam giới, mà chưa thành Phật thì tôi thề không thủ Chánh giác.
  5. Nguyện rằng nếu có một người ở trong mười phương thế giới chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh giác.
  6. Nguyện rằng nếu có một vị trời, người, A-tu-la chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh giác.
  7. Nguyện rằng trong thế giới loài súc sinh, nếu còn một loài nào chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh giác.
  8. Nguyện rằng trong thế giới loài ngạ quỷ, nếu còn một kẻ chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh giác.
  9. Nguyện rằng trong thế giới loài địa ngục, nếu còn một kẻ chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh giác.
  10. Nguyện rằng trong tam giới, nếu những kẻ từng Quy y với tôi, hoặc là Trời, Người, A tu la, các loài bay, lặn, động vật, thực vật, linh giới, rồng súc sinh, quỷ thần mà chưa thành Phật, tôi thề không thủ Chánh giác.
  11. Nguyện rằng tất cả những phước lạc mà tôi được hưởng thấy, đều hồi hướng phổ thí cho tất cả chúng sanh trong Pháp giới.
  12. Nguyện rằng một mình tôi nhận chịu hết tất cả khổ nạn của chúng sinh trong pháp giới.
  13. Nguyện rằng tôi sẽ phân linh vô số, phổ nhập tâm chúng sinh nào không tin Phật Pháp, làm cho họ bỏ ác, hướng thiện, sám hối, sửa mình, Quy y Tam Bảo, rồi cuối cùng thành Phật.
  14. Nguyện rằng tất cả chúng sinh nào, khi thấy mặt tôi, cho đến chỉ nghe tên tôi, đều phát tâm Bồ-đề, mau đắc thành Phật đạo.
  15. Nguyện rằng luôn tôn kính điều Phật dạy, và thực hành mỗi ngày ăn một bữa.
  16. Nguyện giác ngộ loài hữu tình, phổ nhiếp thọ các loài có căn cơ.
  17. Nguyện trong đời này tôi sẽ đắc ngũ nhãn, lục thông, phi hành tự tại.
  18. Nguyện rằng tất cả mọi cầu nguyện đều được thành tựu viên mãn.

 


 

15- Mưa dầm nhịn đói.

Trong thời kỳ thủ hiếu và quyết chí tu đạo, Ngài phát nguyện tôn thủ giới luật Phật chế là ăn mỗi ngày một bữa trước ngọ, vì Ngài biết rằng trên thế gian này nhiều người bị đói và Ngài muốn cúng dường thức ăn của Ngài cho họ. Khi ngồi ngoài mộ phần mẹ, Ngài không nấu ăn cho mình và nếu không ai đem thực phẩm đến Ngài đành nhịn đói; Lúc bấy giờ có một lão cư sĩ tên là Đường Ngọc Minh tự phát tâm đem thức ăn cúng dường Ngài mỗi ngày.

Khi đó vào đầu mùa hè ngày ngày mưa rơi tầm tả đường xá lầy lội, đi lại khó khăn. Ngài thương cho cư sĩ Đường tuổi cao sức yếu nên bảo ông rằng:

– Ngày nào trời cũng mưa không dứt, không tiện đi lại, vả lại Thầy còn lương khô, cụ hãy đợi khi nào mưa tạnh hãy mang thức ăn trở lại, lương khô ở đây Thầy có thể dùng đến hơn hai mươi ngày, Lão cư sĩ tin lời Ngài cho nên khi mưa đến, ông ta ở nhà; Tất nhiên Ngài đã không có đến một hạt gạo trong lều.

Đợi hơn hai mươi ngày qua, khi trời đã tạnh mưa, thời tiết trong lành Lão cư sĩ mới mang thức ăn trở lại cúng dường Ngài. Nhưng khi đến lều tranh, ông Lão mới biết được rằng trong suốt hai mươi ba ngày liền Ngài nhắm mắt, đoan chánh tọa thiền dụng công, không ăn chi cả. Khi ông lão trở lại, Ngài hỏi:

– Từ lần chót ông viếng thăm cho đến nay đã được bao lâu rồi?

– Hai mươi ba ngày.

Lão cư sĩ trả lời và hỏi về tình trạng sức khỏe của Ngài với vẻ lo lắng; Ngài đáp rằng mỗi ngày, Ngài chuyên tâm tọa thiền nên không thấy đói. Ông Lão lại càng khâm phục hạnh tu trì của Ngài.

 


 

16- Y nguyện cứu người.

Trong mười tám đại nguyện của Ngài có nguyện thứ mười hai là: Tôi nguyện thọ nhận tất cả khổ đau của mọi chúng sanh trong Pháp giới để chịu thay cho họ. Để hoàn thành đại nguyện này, mỗi khi có người lâm trọng bệnh khó chữa xin Ngài giúp đỡ nếu Ngài thấy họ thành tâm, Ngài hết lòng tìm đủ mọi cách để giúp họ toại nguyện, vì Ngài biết rõ rằng tất cả bệnh hoạn đều không phải từ ngoài thân mà phát khởi và thân thể có được là do Tứ Đại: đất nước gió lửa giả hợp, nếu người ta không chấp vào nó và có thể xả thân thì làm gì có bệnh.

“Xả thân” tức không chấp, nghĩa là bỏ ra ngoài sự khoái lạc vật chất để học và hành Phật pháp gây lợi lạc cho chúng sanh, phá trừ chấp ngã, nhất tâm niệm Phật; hành trì phương pháp này giúp con người thoát khỏi sông mê bể khổ và đạt được thường, lạc, ngã, tịnh của Niết-bàn.

Những việc xảy ra ghi lại sau đây đều là những chứng tích cho thấy nhờ đạo lực của Ngài, phối hợp với sự thành khẩn của tín chủ nên Ngài đã cứu sống rất nhiều người. Do đó danh tiếng của Ngài ngày một vang xa.
a) Sám hối được cảm ứng
Trong thôn của Ngài có một vị phu nhân tên là Trương Lý Thị tuổi ngoài bốn mươi. Trong bốn năm liền, bà này bị bệnh nôn mửa kinh niên, cả Đông lẫn Tây y đều bó tay không chữa được chứng bệnh này, và mọi thứ thuốc đều vô hiệu. Bà nghe đức hiếu hạnh và sự cứu giúp vô số dân làng của Ngài nên bà đến bên mộ phần kính cẩn quỳ xin Ngài giúp đỡ. Ngài quán sát căn nguyên sanh bệnh rồi giảng cho bà rõ đạo lý làm người và nguyên do của bệnh tật là một sản phẩm của luật nhân quả. Ngài khuyên bà sám hối những tội lỗi xưa cùng kiền thành niệm Phật, Bà ta y lời, hành trì thật nghiêm túc và mỗi ngày thành tâm hối lỗi. Trong vòng hai mươi mốt ngày bệnh của bà lành hẳn mà không cần đến thuốc.
b) Sản phụ thoát hiểm.
Ngoài làng có một bà họ Đường lâm bồn qua bốn ngày liền mà chưa sanh con được. Bác sĩ đã không có cách gì cứu chữa, thấy cảnh sản phụ mạng sống mỏng manh, người nhà nóng lòng, dọ hỏi khắp nơi mới biết đến Ngài. Họ vội chạy đến mong Ngài cấp cứu, Ngài bảo họ hãy trở về nhà và bảo hết cả nhà đồng dâng hương niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” và phát nguyện ăn chay một trăm ngày; Nếu làm được như vậy thì sản phụ sẽ sanh con được bình an vô sự.

Họ trở về nhà làm y lời Ngài; chẳng bao lâu hài nhi được hạ sanh, mẹ tròn con vuông.
c) Bệnh liệt được chữa
Tại Thôn Bình Phòng có Trương phu nhân bị tê liệt toàn thân đã ba năm, chạy chữa biết bao bác sĩ, cùng các thuật sĩ mà bịnh vẫn không bớt. Khi nghe tiếng cứu người của Ngài, gia đình mướn xe chở bà đến tận lều của Ngài và xin chữa trị.

-Tôi không biết gì về y dược cả; nhưng những người có đức tin có thể được lành bệnh nhờ sự thành tâm của họ. Bà chỉ cần thành tâm sám hối tội lỗi của mình trong quá khứ cùng cải ác hành thiện. Nếu bà niệm Phật và ngưng không ăn thịt nữa thì nhất định sẽ được cảm ứng và bệnh bà sớm phục hồi.

Sau khi về nhà, mỗi ngày bà lễ bái trước chân dung Ngài, ăn chay niệm Phật. Qua một trăm ngày, bịnh tê liệt biến mất và bà có thể cử động được như thường. Toàn gia đình bà không khỏi kinh ngạc, quỳ lạy tôn Ngài làm Thầy cùng phát nguyện hộ trì Tam Bảo và tinh tấn làm lành.
d) Ăn chay được cảm ứng.
Cách làng Ngài khoảng bốn mươi dặm có một người tên là Đới Quốc Hiền bị bệnh phổi đến thời kỳ nghiêm trọng, các bác sĩ đều nói rằng bệnh của anh ta vô vọng, nhưng anh ta vẫn muốn sống, nên tìm đến và quỳ xuống khẩn cầu Ngài cứu giúp. Ngài thấy ông rất thành tâm, nên bảo ông ta nhất tâm xưng niệm “ Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”  cùng phát nguyện ăn chay trường, chấm dứt nghiệp sát sanh. Anh ta hoan hỷ tín thọ. Rồi Ngài vừa rưới nước nhè nhẹ lên đầu anh ta mà gia trì niệm Phật tụng chú. Ngay lúc đó anh cảm giác toàn thân mát rượi, tinh thần sảng khoái. Sau đó anh ta  quy y Tam Bảo, kiên thành trì chú Đại Bi cùng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát không ngưng nghỉ. Chẳng bao lâu sau ông được lành bệnh.
e) Trong mơ được cứu.
Càng ngày Ngài càng có đông đệ tử. Toàn gia đình hơn ba mươi người của Vương Phụng Nghi ở Làng Đông Tĩnh Tử đều quy y Ngài. Họ đều ăn chay và đắc lực ủng hộ hoằng dương Phật pháp, em của Vương Phụng Nghi là Vương Phụng Cửu, có một đứa con trai đột nhiên bị bệnh nặng.

Cha đứa bé đã khẩn cầu Ngài cứu đứa con, mỗi ngày ông đều ở trước bàn thờ Phật cầu nguyện, trải qua một tuần lễ, đêm nọ, ông mơ thấy Ngài đến nhà và cho con ông uống một viên thuốc, khi thức dậy ông Vương phát hiện con ông đã được lành bệnh; Kể từ đó ông càng thâm kính Phật pháp và khuyên khắp thân bằng quyến thuộc bạn bè Quy y Tam Bảo.
f) Lòng hiếu được cảm.
Cao Đức Phú tại Thành phố Hợp Nhĩ Tân, Đại Nam Câu, thiên tánh hiếu thảo. Khi mẹ ông bị bịnh hiểm nghèo, ông phát nguyện đến Chùa Tam Duyên chặt tay cúng Phật, cầu mong chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho mẹ mình sớm được bình phục. Đến Chùa lễ Phật xong, ông lấy dao ra định chặt cánh tay, nhưng người bên cạnh phát giác nên ngăn cản. Khi hỏi ra nguyên nhân, mới biết ông là người con chí hiếu, xả thân vì mẹ. Thấy vậy Cư sĩ Lý Cảnh Hoa dẫn ông đến cầu kiến Lão Hòa Thượng Thường Nhân, lão Hòa Thượng cho người dẫn ông đến gặp Ngài. Ngài rất cảm động về lòng hiếu thảo của ông, nên liền nhận lời đến nhà cứu bà mẹ ông; Ngài bảo Cao Đức Phúc hãy chạy xe đạp về nhà trước còn Ngài sẽ đi bộ theo sau. Nhưng khi Cao Đức Phúc vừa về đến nhà thì thấy Ngài đã có mặt trong nhà từ hồi nào rồi. Lúc vào nhà, Ngài phát hiện bà mẹ ông đã bất tỉnh mê man trong bảy tám ngày rồi tình huống thật nguy cấp, bệnh nhân lúc ấy môi và đầu lưỡi đã bị thâm đen, hơi thở dường như đứt đoạn, Ngài bắt đầu viết sao văn, rồi khép mắt trì chú cho đến nửa đêm, tới 3 giờ sáng mới nghỉ. Sáng sớm hôm sau, bịnh nhân chợt ngồi dậy trên giường kêu tên con bà. Cao Đức Phúc kinh hãi, vui mừng khôn xiết. Mẹ ông bảo:

– Mẹ bị lạc đường đã mấy ngày liền, không biết đã đi tới đâu nữa? May thay chiều hôm qua, mẹ gặp một vị Tăng đưa mẹ về nhà; Bây giờ mẹ cảm thấy đói lắm con mau nấu cháo cho mẹ ăn.

Cao Đức Phúc nghe thế cả mừng chỉ Ngài và hỏi mẹ rằng:

– Vị Tăng mà mẹ vừa nói đó, có phải là vị này không?

Mẹ ông nhìn Ngài một hồi rồi nói:

– Đúng rồi! Chính ông Sư này đã dẫn mẹ về nhà đó mà.

Qua việc nầy, toàn gia đình của Cao Đức Phúc lập tức Quy y Tam Bảo.
g) Hóa giải bệnh truyền nhiễm.
Mùa thu, năm Dân Quốc thứ ba mươi bốn, sau khi quân Nhật đầu hàng không lâu vùng Đông Bắc rất hổn loạn dân miền quê lại bị bệnh truyền nhiễm khiến rất nhiều người bị chết: trẻ có, già có…Tại Đồn Du Phường phía Nam Thành phố Hợp Nhĩ Tân, có gia đình họ Mai chỉ trong ba ngày mà tất cả mười một người trong nhà đều bị lây bệnh chết; Lúc bấy giờ chỉ còn có một người làm công và một người rể đang trong tình trạng nguy kịch.

Nghe qua chuyện thảm thương như thế, Ngài liền đi vòng đến các thị trấn, làng xã kề cận, vừa rảy nước sái tịnh, vừa trì tụng chú Đại Bi. Có điều là Ngài rẩy nước đến nơi nào thì nơi đó không còn nghe đến việc người chết vì bệnh truyền nhiễm nữa.
h) Giải nạn rít độc.
Lần nọ có một em bé đang chơi ngoài sân, vô ý bị con rít bò vào lỗ tai rồi bò lên não bộ của em, em bị nhức đầu dữ dội, sắc mặt tái mét, hơi thở hổn hển la khóc không ngừng. Rít này thuộc loại rít độc, thông thường nếu đụng phải rít này thì hết cách cứu chữa. Người nhà mang em đến Ngài cầu cứu, Ngài thành tâm trì chú. Qua vài giờ sau thần sắc em bé hồi phục như thường. Do đây mới biết công dụng của thần chú thật không thể nghĩ bàn; nhưng người niệm chú, nhất định phải chuyên tâm chánh ý, lại phải trì giới thanh tịnh, chân chánh tu hành thì tự nhiên sẽ được Bồ Tát hộ trì, Thiên Long ủng hộ. Nếu không thì dầu cho có mỏi hơi niệm chú, vẽ bùa mà không nghiêm trì giới luật tất sẽ đọa lạc vào đường ma, biến thành ma vương vậy.
i) Cứu người tự vẫn.
Tại Tỉnh thượng Hiệu Nam, Đồn Đông Bình Tử, Phố Hợp Nhĩ Tân, có một vị Đồn trưởng tên là Lý Thắng Tỉ vì một chuyện nhỏ mà sinh ra cải vả với người vợ. Vợ ông nhất thời nóng nảy không sáng suốt mà tự vẫn bằng cách uống cạn hai chén nước lỗ (Nước lỗ là một hóa chất cực độc, đừng nói chi uống một chén, chỉ cần uống một ngụm thôi cũng đủ chết người rồi.) Đến khi người nhà của bà phát giác ra thì bà đã trong hồi nguy kịch, mọi người trong nhà đều rất sốt ruột, lo âu.

Cũng may, lúc bấy giờ có một người biết Ngài đang ở trong đồn này bèn mách cho người nhà của bà ta hay:

– Thầy An Từ vừa đúng lúc có việc nên đến Đồn này, hiện giờ đang ở bên nhà họ Quách, các người hãy mau đi cầu cứu Ngài đi, may ra Ngài có cách cứu chữa.

Con trai của Lý Thắng Tỉ nghe vậy cấp tốc chạy qua nhà họ Quách, vừa mới gặp được Ngài sụp quỳ thỉnh cầu Ngài mau đến cứu mẹ.

– Ta không có cách nào hay, ngươi hãy mau đi tìm thầy thuốc đến trị đi.

Người con lủi thủi quay về báo cho cha hay. Người mách hộ rất  am tường Ngài, vì vậy một lần nữa kêu người con đến lạy cầu Ngài ra tay, người này còn dặn thêm:

– Con phải thành tâm khẩn cầu bằng không thì Ngài không màng chuyện rỗi đâu!

Người con lại một lần nữa chạy nhanh đến trước mặt Ngài, quỳ xuống cầu xin, khóc lóc suốt cả bốn mươi lăm phút. Biết người con thật có lòng thành, nên Ngài cùng đi với người con về nhà họ. Lúc đó tay chân của người mẹ đã phát lạnh, người nhà đang chuẩn bị tang sự cho bà.

Vừa thấy Ngài đến, mọi người đều hướng về Ngài cúi đầu đảnh lễ, thỉnh cầu Ngài cứu mạng. Ngài bảo họ đừng quá đau lòng, rồi dùng nước gia trì chú Đại Bi, kế lấy chiếc đũa tre vạch miệng của bệnh nhân mà đổ nước vào. Chẳng bao lâu, bịnh nhân bắc đầu ói mửa, ói một lúc thì dần dần tỉnh lại.

Cả nhà họ Lý đều cảm kích Ngài đến rơi nước mắt, và cũng thâm cảm sức linh ứng không thể nghĩ bàn của Phật Pháp. Về sau họ tặng cho Ngài một bức đối liễn.

Câu trên:

“Từ bi phổ độ, tín giả đắc cứu thành Chánh Giác.”

(Từ bi cứu độ được tất cả, người có tín tâm được giải thoát để chứng được Chánh Giác.)

Câu dưới:”Quá hóa tồn thần, lễ chi hộ phúc ngộ Vô Sanh.”

(Tai họa được tránh khỏi, phục lại tinh thần được  để giác ngộ Vô Sanh.)

Kèm theo một tấm biểu viết rằng: “Tự Tại Như Lai.”

 


 

17- Tùy cơ giáo hóa.

a) Tú tài Quy y.
Từ khi Ngài kết am thủ hiếu bên mộ phần mẹ, có khoảng hơn hai ngàn người đến quy y, không kể xa gần. Lúc ấy một vị tú tài triều Thanh tên là Cốc Giới Tam; học rộng, đa văn, Hán học uyên thâm. Bấy giờ là lúc giao thời mới, cũ. Cốc Giới Tam thuộc loại tú tài “không cần ra cửa mà vẫn biết chuyện thiên  hạ”  vì ông là hạng hiếm quý khó tìm như lông phượng sừng lân. Vì vậy mọi người đều rất tôn kính ông.

Công việc thường ngày của ông là dạy học. Đối với Phật Pháp ông nghiên cứu rất thâm sâu, chỉ tiếc là không lãnh hội được. Nghe hạnh tu trì của Ngài, ông đến cầu Ngài chỉ giáo. Ngài dạy ông những điểm trọng yếu trong sự tu hành cùng pháp môn tâm địa không lập văn tự. Vừa nghe nghe xong ông rất đỗi vui mừng cảm phục; và cầu xin Quy y Ngài.

Năm Dân Quốc thứ ba mươi hai Ông ngồi xếp bằng mà tịch, gương mặt vẫn an nhiên, hòa nhã như lúc còn sống.
b) Cùng, quý do nhân quả.
Có một vị ăn mày tên là Kỷ Đại Phúc, mỗi ngày đến lều thủ hiếu đảnh lễ Ngài. Ngày nọ sau khi lạy xong, không dằn được, ông bật hỏi:

– Xin Ngài giải thích cho con biết tại sao con bị lâm vào tình cảnh bần cùng như vậy?

Ngài giảng giải cho ông nghe đạo lý nhân quả trong ba đời, và thêm rằng:

– Kinh dạy, vì sao có người đời này sinh ra được hưởng phú qúy? Bởi vì đời trước họ đã từng trì trai, cúng dường Tam Bảo, bố thí cho người nghèo. Tại sao có người đời này phải chịu quả nghèo hèn? Cũng bởi đời trước họ chưa từng cứu giúp người nghèo.

Nghe xong ông cảm nhận được đạo lý nhân quả, nên nói:

-Con tự hỏi rằng trong đời mình chưa làm gì sai trái; mà sao bị nghèo khốn đến nỗi phải đến nhà người xin ăn. Nay mới biết vì trước kia đã bỏn sẻn, không biết báo ứng của sự bố thí. Vậy xin Ngài chỉ dạy, có cách nào để cứu vãn cho hoàn cảnh hiện tại của con không?

– Người Quân tử học cách tạo mạng, nay ông phải nỗ lực tạo nghiệp lành, quảng tích ân đức cho nhiều, tự mình thay đổi vận mạng thì phước gì lại không đến! Xưa kia Chu Kỷ là ăn xin, nhưng hiểu rõ đạo lý nhân quả báo ứng, dốc lòng tạo công đức, ra công làm việc thiện. Đời sau ông ta được sanh vào nhà Đế vương hưởng thọ phước báo tôn vinh của một vị Hoàng tử. Đấy có phải là biện pháp tự cải vận mạng không?

Ký Đại Phúc nghe thế cả mừng, nhìn về tương lai tràn trề hy vọng và thỉnh cầu Quy y Tam Bảo làm đệ tử của Ngài. Từ đó trong lúc hành khất, ông luôn niệm thầm “Nam Mô A Di Đà Phật.” Xin được tiền, gạo ông đều dành dụm chia sẻ lại cho những người khác nghèo khó hơn ông. Ngày thường nếu có cơ hội, ông đều tùy thời làm việc thiện, giúp đỡ người. Sau vài năm tích tụ công đức như vậy vào mùa đông năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, ông dự biết ngày vãng sanh. Đến đúng ngày ông niệm Phật an nhiên mà tịch.
c) Chuyển tánh Bà hung hãn.
Trong làng Ngài có một người đàn bà tên Viên Mộ Hàng nổi danh hung ác, ngang ngược. Thường ngày đánh mắng chồng, vô lễ với cha mẹ chồng, không thuận với chị em dâu. Đối với thân bằng quyến thuộc, bà con láng giềng thì cộc cằn thô lỗ. Bà ta coi thường và hủy báng quỷ thần lại càng không tin nhân quả; Nói chung bà ta đã không làm một việc lành nào, còn bao nhiêu điều xấu thì bà đều có phần. Thế nên mọi người trong làng đều gọi bà là”âLão Cọp Cái”. Nghe danh Ngài, vì hiếu kỳ bà ta muốn đi tìm hiểu nên ngày nọ, bà cùng những người khác đến lều thủ hiếu. Thấy Ngài đang ngồi kiết già chắp tay, mặt quay về hướng tây, và niệm Nam Mô A Di Đà Phật không dứt. Vì không biết Ngài làm thế với mục đích gì, nên bà hỏi:

– Thầy đang làm gì vậy?

– Mẹ tôi đã làm lụng vất vả để nuôi dưỡng tôi, cho nên tôi muốn báo đáp ân đức sanh thành dưỡng dục bằng cách niệm Phật để cầu cho mẹ được siêu thoát, hy vọng mẹ tôi sẽ sớm vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đây cũng là đạo căn bản làm người.

Bà vốn không tin Trời Đất, nghe Ngài nói thế lại càng thêm nghi mà hỏi rằng:

– Có phải sau khi chết, con người thật biến thành quỷ không?

– Sao chỉ nói người chết rồi mới thành quỷ? Có người lúc còn sống, tâm chứa toàn tâm quỷ,

nói lời quỷ, làm việc quỷ, vậy có khác gì với ma quỷ đâu? Người thường sân hận tức là quỷ mặt đỏ, người thường oán hờn tức quỷ mặt vàng, người hay buồn não tức quỷ mặt trắng, người dễ nóng giận tức quỷ mặt xanh, người thường phiền muộn tức quỷ mặt đen. Nếu dùng sân, oán, não, nộ, phiền mà đối đãi với người thì là năm loài quỷ trên, sẽ luôn quấy phá gia đình, trong nhà tuyệt đối không an, lại tổn tài hao khí, tai hoạn xảy đến liên miên.

Ngài lại dạy:

– Tâm là thần; thần cũng là tâm. Nếu bà làm chuyện chi cũng khởi từ lương tâm, tức là trọng kính đối với thần, nếu bội ngược lương tâm thì cũng như là khi dối thần. Sau khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục, chịu bao thứ khổ. Khi ấy muốn thoát khổ, e rằng không còn kịp nữa. Nhân vì chúng sanh đã quay lưng với sự giác ngộ, hợp với trần lao, mê chân theo vọng, xa rời bổn tánh của mình, tìm cầu vật chất ảo huyền ở thế gian, nên phải tự thọ lãnh quả báo. Nếu biết xoay chuyển lại, bỏ trần hiệp giác, xã vọng qui chân, thì đồng Phật không khác, mãi mãi thoát ly lục đạo luân hồi, chấm dứt sanh tử.

Bà nghe xong chợt nhớ lại bao tội ác của mình xưa kia, nên run động, khinh hoàng sợ hãi, khóc lên rằng:

– Lúc trước con không hiểu đạo lý làm người, lại không tin báo ứng nhân qủa nên đã gây biết bao nhiêu tội. Nay nhờ Thầy từ bi chỉ dạy, mới biết tội mình quá ư thâm trọng, con nay thật ăn năn hối hận, nhưng e không còn kịp để hối lỗi. Vậy con phải làm sao đây?

– Bà đã nhận rõ những việc sai quấy lúc trước là dấu hiệu cho thấy rằng thiện căn phát khởi, mầm thiện căn này sẽ đâm chòi nẩy nở. Bà nên thường sám hối tội lỗi chớ quá bi thương; vả lại là người chớ nào phải Thánh Hiền, ai mà không có tội lỗi? Tội ác của Bà dầu thâm trọng nhưng nếu bà thành tâm sám hối, thì những tội nặng sẽ được tiêu trừ, điều cần thiết là phải chí thành sám hối, Bà hãy quán xét hành động trong quá khứ y như bà đã chết hôm qua và sanh trở lại ngày hôm nay. Sau khi thành tâm sám hối, bà phải nên phát nguyện làm trọn bổn phận của người cư sĩ, gắng sức hoằng dương Phật Pháp, khuyên người làm lành, Quy y Tam Bảo. Khi công đức của bà được viên mãn, thì những tội lỗi xưa tất sẽ tiêu tan. Tại sao? Vì khi người đại ác biết xoay đầu cải thiện thì thành người đại thiện; còn ngược lại người đại thiện tạo tội, lần lần cũng sẽ thành người đại ác.

Nghe thế tâm bà vui mừng khôn xiết, đứng dậy hướng Ngài lạy ba lạy, cầu thỉnh Quy y, chánh thức thành đệ tử của Ngài. Sau khi Quy y Tam Bảo, không những sửa đổi tâm tánh mà còn tự thân đi khắp nơi chỉ dạy người đời làm lành bỏ ác; hơn tám trăm người được bà cảm hóa đến quy y Ngài.

Khi ấy thân bằng quyến thuộc trong làng thấy bà thay đổi tâm tánh hoàn toàn nên rất kinh ngạc, xem bà như một con người mới, do đó biệt hiệu Lão Cọp Cái tự nhiên không còn nhắc mà đổi lại gọi bà là “Quán Âm tiếp dẫn.”

Bà ăn chay niệm Phật, khuyến hóa người đời trong mười năm, ngày nào cũng như nào. Vào hạ tuần tháng tám năm Dân Quốc thứ ba mươi ba, bà biết trước được ngày vãng sanh nên bảo người nhà:

– Tôi xưa vốn tạo bao ác nghiệp, nhưng sau khi Quy y Tam Bảo, sửa đổi tâm tánh hướng thiện, cùng khuyến hóa người do công đức đó tôi nay biết được rằng 19 tháng 9 là ngày tôi sẽ vãng sanh Tịnh Độ. Xin các vị chớ nên buồn bã khóc lóc mà nhớ niệm Phật giúp tôi!

Quả nhiên đến ngày ấy bà tắm gội sạch sẽ, mặc chỉnh tề chấp tay mĩm cười niệm Phật mà vãng sanh, hưởng thọ sáu mươi chín tuổi.
d) Phương thức học giỏi: “Ba Trong, Ba trên”
Vùng cạnh Thôn Ngài, có một học sinh họ Đường mười bốn tuổi, thân thể yếu ớt, thường hay bệnh hoạn, lại rất ngu độn, học chi rồi cũng quên hết. Tuy cha mẹ, Thầy cô giáo bao lần đốc thúc nghiêm khắc dạy dỗ nhưng chẳng được kết quả gì. Chính bản thân em cũng phiền não về sự ngu si của mình.

Khi ấy, em thường nghe người trong Thôn kể về sự tích của Ngài, nên có ý định đến xem vị cao Tăng này có thể giúp được em không? Ngày nọ, em hẹn với mười lăm bạn đồng học đến lạy Ngài, cầu xin Quy y và khẩn cầu Ngài từ bi chỉ dạy làm thế nào khai mở trí tuệ, thuộc bài dễ dàng, và nhớ dai hơn?

Ngài bảo chúng:

– Muốn học giỏi, phải theo phương pháp Ba trong, ba trên. Ba trong là khi học bài phải đặt vào ba chỗ:

  1. trong tâm,
  2. trong miệng,
  3. trong mắt.

Tức là dùng mắt xem bài, dùng miệng đọc bài, và dùng tâm để tư duy bài học.

Ba trên nghĩa là phải học luôn luôn:

  1. trên đường,
  2. trên gối,
  3. trên cầu vệ sinh.

Lúc đi trên đường thường nên suy gẩm, nhớ lại bài học mà thầy cô vừa dạy, về nhà, lúc lên giường, trước khi nhắm mắt ngủ, phải đọc qua một lần những bài vừa học ở Trường, và lúc ngồi trên cầu vệ sinh đừng để uổng phí thời giờ nghĩ viễn vong mà nên chuyên tâm, nhớ lại những gì mình học vừa qua.

– Khi học bài phải để hết cả tâm trí vào bài vở và chỉ thấy có quyển sách thôi, nếu có ai thổi kèn bên tai các con, các con cũng không nghe. Nếu có những màu sắc sáng chói, lộng lẫy chiếu trước mắt, các con cũng không thấy. Các con nếu cứ thế mà chuyên tâm nhất ý, thì không việc gì mà không đạt được, huống chi nói về việc học thuộc bài?

Bọn học trò nghe qua hiểu rõ, và ghi khắc lời dạy vào lòng. Sau khi trở về, chúng y theo lời dạy của Ngài, quả nhiên trí tuệ khai sáng. Từ học sinh bình thường, chúng trở thành xuất sắc, thông minh. Cha mẹ và Thầy Cô giáo của các em đều không khỏi kinh ngạc. Chuyện truyền ra xa, học sinh từ khắp nơi không ngừng tìm đến Ngài xin Quy y và cầu Ngài dạy dỗ.

e) Hiếu tử Trịnh Đức

Tại Tỉnh Kiết Lâm Huyện Ngũ Thường, có một em bé tên Trịnh Đức, lúc năm sáu tuổi đã bắt đầu lễ lạy cha mẹ, rất mực hiếu thuận. Danh hiếu thảo của em vang khắp nơi, có nhiều Đạo sĩ, Thuật sĩ muốn nhận em làm đệ tử. Tuy còn nhỏ, nhưng em thẳng thắn vô cùng, em nói với họ rằng:

– Nếu các vị chuyên bày chuyện dị đoan, gạt gẩm, hù hiếp để hại người đời, tất không phải là người tốt.

Năm em mười một tuổi, Ngài nghe đến hạnh hiếu thảo của em bé nên đích thân tìm đến, xem em bé hiểu hạnh hiếu thuận với cha mẹ như thế nào?

Từ song cửa nhìn ra thấy Ngài đang bước vào sân nhà em liền thưa với mẹ:

– Thưa mẹ Thầy của con đang đến kìa.

– Ai là Thầy của con?

Trịnh Đức chưa đáp lời mẹ đã vội vàng chạy ra ngoài sân nghinh tiếp, cúi đầu đảnh lễ Ngài. Sau khi vào nhà ngồi xuống xong Ngài hỏi:

– Ai dạy con lễ lạy cha mẹ vậy?

– Con nghe danh mười bốn người con chí hiếu ở Huyện Song Thành nên con mới noi theo gương họ.

Cha của Trịnh Đức ra chiều hãnh diện, vui vẻ nói:

– Đây thật nhờ phước đức tổ tiên nên chúng con mới có đứa con hiếu thảo này, mong cầu Phật, Bồ Tát từ bi gia hộ.

Đàm đạo một hồi, Ngài từ trên bộ ván bước xuống thì không thấy đôi giày đâu cả chỉ thấy em quỳ dưới đất khẩn cầu:

– Thầy đã đến đây, con kính thỉnh Thầy ở lại dùng cơm trưa với gia đình con. Ngài chấp thuận lời thỉnh cầu của em.

Dùng cơm xong, Ngài dạy em Trịnh Đức:

– Con đã Quy y gọi ta bằng Thầy vậy con nghe lời Thầy hay Thầy nghe lời con?

Em thật rất thông minh lập tức nhận ra lỗi của mình.

– Bạch Thầy, đương nhiên đệ tử phải nghe lời Thầy, con nay xin sám hối.

– Tu đạo tâm phải thẳng thắn, như con vừa giấu đôi giày của Thầy, đó là thủ đoạn trước tiên khống chế người để bắt người theo ý mình, đây không phải là cách tôn trọng đạo.

Nghe thế em xấu hổ muốn khóc Ngài bèn đọc bài kệ dạy em:

Niệm Phật năng niệm vô gián đoạn
Khẩu niệm Di Đà đả thành phiến
Tạp niệm bất khởi đắc Tam muội
Vãng sanh Tịnh Độ định hữu phần.
Chung nhật yếm phàn Ta Bà khổ
Tài tương hồng trần tâm niệm đạm
Cầu sanh Cực Lạc ý niệm trọng
Phóng hạ nhiễm niệm, qui tịnh niệm.

Tạm dịch:

Niệm Phật phải niệm không gián đoạn,
Miệng niệm Di Đà mãi thành phiến,
Chẳng khởi tạp niệm đắc Tam muội,
Vãng sanh Tịnh Độ sẽ có phần,
Cõi Ta Bà phiền khổ cả ngày,
Nhàm bụi trần lao, tâm coi nhẹ
Chủ ý cầu sanh về Tịnh Độ
Xả bỏ niệm nhơ, qui niệm tịnh.

Đối với các đệ tử trẻ tuổi, Ngài thường dạy họ phương pháp tọa thiền, riêng Trịnh Đức Ngài dạy em chuyên tu pháp môn Tịnh Độ. Y chiếu các câu kệ trên mà tu, nếu không phải người có trí thì sẽ không nhận thức được chân lý thâm sâu bên trong: “Tiền nhân hậu quả”  tức trước là nhân, sau là quả vậy.

 


 

18- Am tranh không cháy.

Ba năm hành trì hiếu đạo bên ngôi mộ Mẫu Thân đã gần mãn. Vào một buổi hoàng hôn, người trong làng bỗng nhiên thấy một luồng ánh sáng phát ra từ túp lều của Ngài. Luồng hào quang cao đến ba mươi bộ sáng rực cả một vùng như ban ngày. Họ la lên:

– Lều của Bạch Hiếu Tử đã phát hỏa chắc sẽ có  chuyện không may xảy ra cho Pháp sư Độ Luân.

Họ bèn cấp báo cho nhau rồi tức tốc chạy ra nghĩa trang mang theo những bình nước để cứu

hỏa, nhưng khi họ tới nơi, túp lều của Ngài vẫn bình an vô sự và Ngài thì vẫn an nhiên đang ngồi niệm Phật cạnh một ngọn đèn dầu nhỏ; ai nấy cũng cho là chuyện huyền diệu thật khó nghĩ bàn.

 


 

19- Mộng gặp Độ công (Thầy Độ Luân)

Mặc dù Ngài thủ hiếu trong một túp lều tranh nhỏ bên phần mộ Mẹ giữa vùng đất hoang vắng, vậy mà người đến cầu kiến Ngài không ngừng. Họ đều thỉnh cầu Quy y Tam Bảo vì hoặc được Ngài chữa lành bệnh, hoặc vì cảm mến oai nghi đức độ và hạnh thủ hiếu của Ngài. Lều tranh nhỏ dần biến thành ngôi miếu tự được dân làng tôn sùng nhất.

Sau khi mãn ba năm, Ngài đến ẩn cư tại Động Di Đà, phần núi Đông Bộ thuộc nhánh Trường Bạch, nơi đây cây cối rậm rạp nhiều chim muôn và dã thú không dấu chân người; thích hợp cho những vị hành tu khổ hạnh. Ngài miên mật tọa thiền và tu hạnh đầu đà, chỉ ăn rau dại uống nước suối, tự tại trong cảnh giới thoát trần này.

Thỉnh thoảng Ngài xuống núi mua nhang dầu và các vật dụng cần thiết. Lần nọ, trên đường đến phố Ngài đi ngang qua Trấn Lạp Lâm, Thôn Bối Âm Hà, dừng nghỉ tại nhà Quan Trạm Hải và người chú là Quan Trung Hỉ. Quan Trung Hỷ là một tà sư thường truyền mật pháp gọi là “Đạo Nhiếp Duyên.” Ông ta có trên bốn ngàn đệ tử. Ông nói với các đệ tử rằng ông có hằng trăm báu vật bán với giá một ngàn đồng mỗi cái, vì những báu vật này chỉ có danh mà không có thực nên Quan Trung Hỷ nói rằng:

– Thời cơ chưa tới cho nên bây giờ ta không giao cho các ngươi những báu vật này được. Đợi thời cơ thuận tiện lúc thế giới này thay đổi thì các ngươi sẽ thọ nhận những báu vật ấy.

Khi đúng năm mươi tuổi, ông Quan Trung Hỷ giác ngộ rằng sự giàu sang phú quý không thể nào bảo đảm cho mạng sống của ông; vì biết rằng mình sắp sửa qua đời và lo không kịp tu Đạo nên cùng người cháu lên đường tìm Minh nhãn Thiện tri thức, người có “mắt sáng” để hướng dẫn họ về thiền quán. Trong suốt ba năm, hai chú cháu đi lang thang khắp nơi tầm Sư học Đạo, họ đã viếng thăm nhiều danh Sư tại các Tu viện nổi tiếng, những Học giả tại các Trường lớn, những nhà tu khổ hạnh trong các sơn động, nhưng chẳng gặp được ai có thể dạy họ tu pháp thiền quán nên thất vọng đành bỏ cuộc và trở về nhà.

Vừa thấy Ngài, Quan Trạm Hải vội kéo người chú sang một bên hỏi:

– Chú ơi! Vị Sư này là ai vậy? Bộ chú có quen hay sao?

– Chú nghe tiếng vị Sư này từ lâu, Ngài chính là Pháp sư An Từ, thủ hiếu nơi mộ phần đó mà!

– Thật kỳ lạ! Đêm qua cháu mơ thấy Pháp sư đến đây và ngồi trên chiếc giường bằng gạch này. Cháu quỳ xuống thỉnh Ngài dạy cho chú cháu mình cách tu đạo. Ngài dạy cháu rằng: Lớp da trên thân cháu cần phải lột vứt đi thì mới có thể tu đạo được. Nói xong, Ngài bèn dùng tay kéo từ trên đầu cháu ra một miếng da và quăng xuống đất. Cháu mới phát hiện ra đó chính là miếng da heo. Ngài còn nói: Ngươi không ăn chay, và đã ăn thịt heo. Trong tương lai, ngươi sẽ chuyển kiếp thành một con heo. Cháu sợ điếng người và thưa rằng: Không, không! Con heo  dơ dáy và ngu si lắm! Rồi cháu hoảng hốt giật mình thức dậy. Cháu vừa mơ đêm qua thì hôm nay Pháp sư này đã đến đây vậy không biết là điềm lành hay điềm dữ?

Người Chú kinh ngạc hỏi:

– Thật sao? Thật là cháu đã mơ như vậy phải không? Tất nhiên đó là một điềm tốt rồi. Pháp sư Độ Luân luôn cho việc hoằng dương Phật pháp lợi ích chúng sanh là trọng trách của mình và đối với chúng sanh Ngài tùy thời quán xét căn tánh ban giáo pháp. Chú đã từng đi lễ bái Ngài nhưng chưa bao giờ được gặp mặt. Nào ngờ hôm nay Ngài thân hành đến chắc vì chú hằng ngày kiên thành lễ Phật nên được cảm ứng.

Hai chú cháu quỳ trước mặt Ngài, cầu thỉnh Ngài ban cho yếu chỉ tu đạo, Ngài bèn giới thiệu nhiều thiện tri thức cho họ nhưng họ vẫn nài nỉ được làm đệ tử Ngài; vì còn đang là một chú Tiểu trẻ nên Ngài chưa muốn thu nhận đồ đệ. Sau cùng Ngài bảo họ:

– Thôi trước hết hãy tập ngồi kiết già rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau.

Sau đó họ tập ngồi thiền mỗi ngày, người cháu ngồi kiết già rất dễ dàng nhưng người chú gặp khó khăn vì xương xóc đã già nên cứng đơ. Ở miền Đông Bắc Trung Hoa, người miền núi có xương bánh chè rất lớn. Khi họ ngồi xếp bằng, đầu gối và xương bánh chè cách mặt đất đến ba mươi phân. Dù vậy nhưng ông chú vẫn nhất quyết kiên trì cố đè đầu gối xuống cho bằng được, và trong vòng bảy mươi ngày ông ta có thể ngồi kiết già được.

Khi Ngài trở lại thấy chân ông sưng vù, đau đến nỗi không thể bước qua được một cái rãnh nhỏ. Ngài bảo ông ta:

– Ông không nên tập ngồi kiết già. Ông còn tập không?

– Dạ thưa còn.

– Thôi đừng nên tiếp tục nữa.

– Ngài bảo sao? Tôi đã gần đất xa trời và nếu bây giờ tôi không tập thì còn chờ đến bao giờ? Vì vậy bất luận đau đớn thế nào đi nữa tôi cũng ráng ngồi kiết già cho bằng được. Nếu tôi chết, thì đó là một việc khác. Nhưng giờ đây tôi còn sống thì tôi cứ tập.

– Vậy thì tùy ý ông.

Một trăm ngày trôi qua, Ngài trở lại và thấy hai chân của ông chú không còn sưng nữa. Ngài hỏi:

– Chắc ông đã hết ngồi thiền rồi phải không?

Quan Trung Hỷ cười đáp:

– Bây giờ tôi có thể ngồi kiết già được rồi, và bất luận ngồi lâu bao nhiêu, tôi cũng không thấy đau nữa, còn chân của tôi thì cũng không còn sưng nữa.

– Giờ tôi sẽ dạy cho các vị phương pháp tu hành. Tại sao chúng sanh tu mà không đắc đạo? Chính vì vọng tâm quá nhiều. Nếu có vọng tâm thì chân tánh luôn bị nhiễu loạn, ắt sẽ khiến người ta dễ chấp vào sắc dục. Khi tâm đã vướng vào vòng ái dục, sự tham cầu vật chất nối liền phát sanh và tâm chứa đầy phiền não. Khi vọng tưởng khởi, phiền não sanh, khiến thân tâm ưu khổ không được tự tại.

Chúng sanh lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi không thoát ra được, nên Chân Đạo ngày một xa vợi. Biển khổ không bờ, nếu mình biết hồi đầu thời sẽ đến bờ giác cứu cánh Niết Bàn, hồi phục bổn lai diện mục của mình. Chủ yếu cần phải tỉnh giác trong mỗi niệm, như gà ấp trứng, mèo rình chuột, rồng giữ hạt châu thì tự nhiên chẳng bao lâu sẽ nhận được tin lành.

Dạy xong Ngài truyền Quy y và chỉ rõ cho hai chú cháu pháp tu TÂM.

Hai chú cháu được như ý nguyện vui mừng khôn tả, họ y theo lời dạy của Ngài tu trì không một chút lơ là hay biếng nhác. Vài năm sau Quan Trung Hỷ gọi tất cả người nhà lại và nói rằng:

– Ngày đó giờ đó tôi sẽ ra đi và điều mong ước cuối cùng của tôi là được gặp mặt Thầy tôi một lần cuối. Nhưng tôi không biết hiện nay Ngài ở đâu?

Rồi đến ngày đã định, ông ngồi kiết già ngay ngắn niệm Phật vãng sanh chẳng mảy may đau ốm chi. Đêm hôm đó nhiều người trong làng cùng có một giấc mơ giống nhau; họ mơ thấy có hai vị Đồng Tử mặc áo xanh, dẫn Quan Trung Hỷ bay về hướng Tây.

Sau đó trên đường đi theo Ngài đến khoảng đất trống người cháu bỗng sụp quỳ xuống nắm lấy tay áo Ngài và xin làm đệ tử. Ngài gỡ tay anh ta ra và định bỏ đi. Người thiếu niên quyết xin cho được, nói rằng: “Còn sẽ không đứng dậy cho đến khi được Thầy nhận làm đệ tử.”

Mặc dầu gia đình không giàu có nhưng mỗi Tết Quan Trạm Hải đều thành tâm dâng lên Sư phụ một chút lễ vật. Anh thật lòng hiếu kính không bao giờ quên ơn huệ Ngài đã giải thoát cái lốt heo của anh ta trong giấc mơ xưa kia.

 


 

20- Quả Năng xuất gia.

Quả Năng họ Lô là đệ tử xuất gia đầu tiên theo Ngài, xưa kia ông là một người thợ may. Mặc dầu ông làm được rất nhiều tiền nhưng cô bạn gái của ông ta lại nghiện thuốc phiện cho nên ông làm được bao nhiêu cũng không đủ. Ngày nọ, ông chợt tỉnh ngộ biết mình làm chuyện sai lầm nên quyết định bỏ bạn gái và xuất gia tu đạo. Trong mình ông lúc bấy giờ không có bao nhiêu tiền nên khi đến vài ngôi chùa cầu xin lưu trú đều bị từ chối. Một hôm ông trở về quán trọ tạm trú, nơi đây đang khai trương một tiệm cơm chay. Bà chủ nói với ông:

– Thầy của tôi hiện đang ở đây, ông có muốn bái kiến Ngài không?

Khi tham bái Ngài, ông cảm thấy bối rối, hổ thẹn.

Ngài cố ý hỏi:

– Tại sao con lại buồn rầu như vậy?

– Con không có tiền…. Pháp Sư đến đây có việc gì?

– Thầy đến đây vì con đó.

– Bạch Thầy, sao Thầy lại vì con mà đến?

– Thầy vì muốn độ cho con xuất gia.

Quả Năng giật mình kinh ngạc, vì ông ta chưa từng đề cập việc mình muốn xuất gia cho ai nghe cả.

– Thôi, đi mau lên, nếu không thì bạn gái sẽ đến kéo con về đó.

– Nhưng con không có đến một chiếc y!

Ngài liền cởi ngay y bên ngoài ra cho Quả Năng rồi hai ThầyTrò cùng đạp tuyết đi về Chùa Tam Duyên.

Quả Năng phụ trách những công việc nặng ở chùa mà không ai chịu làm như gánh nước, nấu ăn, giặt giũ… Một ngày kiaThầy tự xây cho mình một cái kháng (giường) bằng gạch khá tốt. Khi Ngài thấy được liền hỏi:

– Ai cho phép con cái giường này?

Không dám ngẩn lên, Quả Năng thưa:

– Dạ không ai cho phép cả, con tự làm lấy.

– Bộ con là Giám viện ở đây sao mà muốn làm gì thì làm. Mau thu xếp lại rồi lên chánh điện quỳ ba cây nhang sám hối.

Lát sau Ngài không thấy Quả Năng quỳ trên chánh điện mà đang vá quần áo. Ngài hỏi:

– Tại sao con không lên chánh điện quỳ?

– Sư phụ bảo con quỳ thật sao?

– Ta thật xấu hổ, con không quỳ là lỗi của ta, nếu ta có đức độ thì đệ tử chắc phải nghe lời, đây là lỗi của ta vậy ta phải quỳ vậy.

Nói xong Ngài liền quỳ trước chánh điện.

Quả Năng hoảng hốt thưa:

– Không, không xin Sư phụ đừng quỳ! Đó là lỗi của con, xin để cho con quỳ, kính thỉnh Sư phụ đứng dậy.

Chẳng màng đến lời van xin của Quả Năng Ngài vẫn tiếp tục qùy; thế rồi cả hai Thầy Trò cùng quỳ.

Kể từ đó các đệ tử của Ngài nhất nhất vâng lời dạy bảo của Ngài, vì từ xưa đến nay Ngài chưa từng nói đùa bao giờ.

 


 

21- Tiểu thần thông Quả Tá.

Lúc đang trú tại Chùa Tam Duyên một sáng nọ Ngài bảo Quả Năng:

– Hôm nay sẽ có một đứa bé đến xin xuất gia, khi nó đến con hãy báo cho Thầy biết.

Đến trưa, Quả Năng hăm hở chạy vào phòng thở hổn hển thưa:

– Bạch Sư phụ, đứa bé mà Sư phụ nói hồi sáng đó, nó đến rồi.

Ngài bước ra ngoài thấy một đứa bé trai trạc mười một, mười hai tuổi khuôn mặt bướng bỉnh, áo quần lem luốc nhưng dáng người đoan chánh, tướng mạo giống như một vị Tỳ kheo.

Bé vừa thấy Ngài dường như đã gặp được người thân thuộc, vui mừng không thể cầm được nước mắt.Ngài cố ý hỏi thử:

– Con đến đây làm gì?

Với lòng tin vững chắc em trả lời:

– Con muốn xuất gia.

– Cái gì? Có phải con vì không có cơm ăn, áo mặc, nhà ở mà đến đây nương náu cửa chùa phải không?

– Dạ không phải! Bởi vì con có một chứng bệnh kỳ lạ lắm, làm con nằm ngồi gì cũng không yên, con thật rầu vì tự biết mình đã bị ma chướng.

– Làm sao con biết được?

– Lúc lên năm tuổi, con có thể chữa bịnh cho người khác được, nếu con bảo họ mau hết bịnh, thì họ sẽ mau hết bịnh ngay. Cách đây khoảng hơn một tháng trong ba ngày liên tiếp con đều mơ giống nhau, thấy một Ông Sư như vị này (bé chỉ tượng Ngài Phật Di Lặc). Ông Sư mập này bảo con rằng: Hãy đến chùa Tam Duyên cầu xuất gia với Pháp sư An Từ thì bịnh con sẽ hết. Con đã đi bộ hơn một ngàn ba trăm dặm trong ba tháng trường nay mới đến được đây. Trên đường đi đêm xuống con ngủ trên các cánh đồng hoang. Đêm nọ, có một bầy chó sói đến vây quanh con, con quát chúng rằng: Chúng bây muốn ăn “đạn”  không? thì tự nhiên chúng nó bỏ đi ngay. Con thật sự chỉ muốn xuất gia nên tìm đến đây!

Khi ấy quân Nhật mới vừa đầu hàng, vùng Đông Bắc chưa có xe cộ lưu thông. Trên đường đi Quả Tá lượm được quả lựu đạn, nên đuổi được bầy sói. Đây là do chư Phật, Bồ Tát gia hộ cho em.

– Xuất gia không dễ đâu, làm việc mà người ta không thể làm, thọ những gì mà người khác không thể thọ. Tiện tay Ngài với lấy cái bánh bao đang cúng trên bàn Phật, nhai rồi nhả xuống đất mà nói: Nếu con có thể lượm bánh lên ăn thì mình sẽ tính sau.

Không chút nhờm gớm bé bốc bánh đó lên ăn liền tức khắc. Qua sự thử thách này, Ngài chánh thức nhận em làm tiểu Sa Di, pháp danh là Quả Tá. Sau khi xuất gia Qủa Tá không còn bệnh ma chướng nữa, chú nỗ lực dụng công tu hành, chưa đầy nửa năm đắc được thiên nhãn thông cùng tha tâm thông. Chú có thể biết được đời quá khứ và đọc được tư tưởng của người nên mọi người đều gọi chú là Tiểu Thần Thông.

Ngày nọ, có người hỏi chú:

– Chú có thần thông, vậy thầy chú có thần thông không?

Nghe hỏi thế chú kiêu ngạo trả lời:

– Tôi cũng không biết Thầy tôi có thần thông hay không nữa?

Ngay lúc ấy thần thông của chú bị biến mất hết. Bệnh ma chướng lúc xưa nay bỗng trở lại vì lời nói hồ đồ của chú. Ngài vì chú mà tận lực cầu xin chư Phật, Bồ Tát gia hộ nên bệnh ma chướng của chú từ từ tiêu mất. Ngài liền tưởng khởi bốn câu kệ:

Tu đạo như leo sào trăm trượng,
Khi xuống thì dễ, trèo lên khó,
Nếu năng vượt qua đầu ngọn sào,
Mười phương thế giới đều hiện tiền.
Vậy chúng ta sao không luôn cảnh giác?

 


 

22- Nước ngập Đông Tĩnh.

Có câu “Đạo cao một tấc, Ma cao một trượng”  vì chữa bịnh cho Quả Tá, Ngài phải chống chọi với các loài Hải quái trong nhiều tuần lễ đến khi chúng phải rút lui nhưng đứa bé đã không được thần thông trở lại. Bị bại trận bọn thủy quái hết sức tức tối vì mất một quyến thuộc tương lai nên quyết phải báo thù, làm ngập lụt nhiều nơi rất nguy hiểm đến mạng người. Sau này tàu bè đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, cũng mấy lần bị hải yêu tác quái, mỗi lần đều nhờ sự cảm ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm, mà tàu bè đến nơi được bình yên. Có hôm Ngài cùng với các đệ tử đi ngang qua Làng Đông Tĩnh trú tại nhà cư sĩ họ Quách; ông là một đệ tử đã Quy y Ngài. Làng này có tên như vậy vì tọa tạc trên vùng đất trũng, bốn bên có tường cao giống như miệng giếng. Ngài vừa đến đây thì đột nhiên trời chuyển mưa to, và một trận lụt tốc cuốn qua làng với sóng nước chảy cuồn cuộn như vỡ bờ. Đồng thời, nước giếng trong thôn cũng vụt chảy ra. Hơn tám trăm căn nhà bị lụt, nhiều người bị nguy khốn, leo lên nóc nhà ở.

Gặp nạn Ngài bảo các đệ tử và mọi người trong nhà họ Quách đều nên tụng Chú Đại Bi. Tuy chung quanh nhà chỉ có một hàng rào cây cao khoảng tám tấc, vậy mà có thể ngăn được nước lũ chảy xiết. Hàng rào thật sự đã bảo vệ cho mấy thầy trò vì chỉ có một ít nước rỉ vào, cộng thêm nước mưa, trong nhà chỉ bị ngập chừng một tấc nước. Đại lực thần Chú Đại Bi thật thông thiên triệt địa. Chỉ một lát sau mưa tạnh nước từ từ rút xuống nhưng không may trận lụt này có hơn mấy mươi người chết, nhiều người thấy quái vật giống như trâu nước bơi lội man dại trong sóng nước.

Có thể là Ngài và các đệ tử đã được chư Phật và Bồ Tát cùng Trời Rồng bảo hộ. Nhưng lần đó không phải là lần chót mà quái vật muốn trả thù Ngài. Ngài lại gặp chúng một lần nữa, như chúng ta thấy trên chuyến tàu từ Thiên Tân đến Hồ Bắc. Thế nên trị bịnh giúp người đôi khi gặp nguy hiểm, vì có thể làm cho ma quỷ nổi giận, oán hờn, thật không phải là chuyện đùa.

Ngài cũng từng nói: Lúc trẻ chuyện gì cũng can dự vào, tu hành đến giai đoạn bị ma chướng thử thách này; mới phân lường được thấp cao.

 


 

23- Long Vũ Mao Bồng.

Tại Đồn Đại Nam Câu, Khu Hương Phường, Phố Hợp Nhĩ Tân, có người họ Diêu mọi người đều gọi ông là lão Diêu. Khi chưa quy y Tam Bảo ông là người giang hồ lãng tử, không những hút nha phiến mà còn chích ma túy cờ bạc rượu chè không tật xấu nào mà ông không có.

Khi ấy Nhật Bổn đang thống trị vùng Đông Bắc, thành lập nước Mãn Châu. Triều Thanh bị phế bỏ và vua Tuyên Thống được tôn làm Hoàng đế Mãn Châu, nhưng ông vua này chỉ là bù nhìn, làm tay sai cho Nhật Bổn, mọi việc trong chánh quyền đều bị người Nhật thao túng lạm quyền. Nhật Bổn lại sợ quân Nga xâm lược vào Mãn Châu, nên xây những công sự phòng thủ dọc theo sông Hắc. Khắp nơi họ bắt lao công phục dịch không trả thù lao. Những người bị bắt đi trại lao công rất ưu sầu vì không biết bao giờ mới được trở về đoàn tụ với gia đình nơi quê nhà ấm cúng. Đời sống trong các trại lao công thống khổ không kể xiết, chẳng khác chi địa ngục trần gian. Những người nghe sợ phát run, giống như địa ngục chốn trần gian, khổ không thể nói. Những người nghe biết điều này không ai khỏi rùng mình ớn lạnh.

Ông Diêu vì không nghề nghiệp nên bị quân Nhật coi là một “âdân lang thang” và bị tống đi sống Hắc thuộc vùng biên giới Mãn-Nga làm lao công. Ban ngày làm việc như trâu ngựa, tối

đắp rơm ngủ. Vì không thể chống nổi đêm băng hàn giá buốt, ông thường nghĩ cách thoát thân. Bốn bề doanh trại đều có dây điện cao thế nếu lở chạm phải sẽ bị điện giựt chết. Tuy vậy, ông luôn tìm cơ hội đào tẩu vì không chịu được sự áp bức và ngược đãi vô nhân đạo của những người cầm quyền. Một đêm nọ ông mơ thấy ông nhất định trốn khỏi doanh trại để tìm tự do không kể thân mạng. Vừa định chạy trốn, đột nhiên có một ông Lão tóc bạc phơ tiến đến nói với ông:

– Giờ không phải lúc trốn vì ông chưa thọ hết khổ. Ông hãy nhẫn nhục thêm một thời gian nữa. Khi đúng thời cơ, tôi sẽ báo cho ông biết. Hy vọng ông luôn đề cao cảnh giác chớ bỏ lỡ dịp may.

Nói xong ông Lão liền biến mất. Ông Diêu tin lời ông Lão và trở vào doanh trại.

Khoảng hai tuần sau, ông Diêu lại mơ thấy ông Lão tóc bạc lúc trước nói đến với ông rằng:

– Hôm nay thời cơ trốn trại của ông đến; ngoài cửa có con chó trắng, ông hãy nhớ cho kỹ là phải đi sát theo sau nó đừng bị lạc. Ông sẽ không bị thất bại đâu! Hãy nhớ!

Ông hết sức mừng rỡ và chợt tỉnh. Đi ra ngoài cửa, quả nhiên thấy con chó trắng đang đứng chờ ông. Nghe lời ông lão, ông đi theo sau con chó. Khi đến hàng rào điện, thoáng một cái con chó đã nhảy qua hàng rào, ông thì lấy rơm phủ trên hàng rào rồi cũng nhảy qua bình an vô sự. Ông cảm thấy như được thoát ra miệng cọp. Đến khi quay đầu lại chẳng thấy con chó trắng đâu cả, ông mới biết là đã được quý nhân giúp đở.

Vì sợ quân Nhật đuổi bắt, ban ngày ông trốn trong lùm cây, đói ăn rau dại, khát uống nuớc suối, tối mới dám tiếp tục hành trình. Trải qua nhiều ngày gian khổ như vậy ông mới về đến quê hương. Biến cố này kích động mạnh tâm thức ông ta. Ông giác ngộ rằng đời người thật là khổ nên quyết định xuất gia tu đạo. Nhưng khi đến chùa nào xin xuất gia, ông cũng đều bị từ chối. Khi tới Chùa Tam Duyên, vì thấy ông áo ăn mặc quần rách rưới, dơ bẩn, người trong Chùa tưởng ông là kẻ ăn xin chỉ vì muốn có cơm ăn mà xin xuất gia, nên không nhận ông. Trong lúc Chùa lớn không thâu, Chùa nhỏ không thâu không chứa, ông ta gặp một quái nhân không biết từ đâu đến, hình dạng giống như người ăn mày. Quái nhân tự xưng là một người tu hành chân chánh, biết ba mươi sáu ngôi sao Thiên cương, bảy mươi hai phép pháp thuật, có thể bay trên không, cỡi mây lướt gió, gọi gió kêu mưa, trị được những bịnh nan y, biết pháp cải lão hoàn đồng. Không ai tin lời người lạ, chỉ trừ ông Diêu tin và lạy y làm thầy. Sau đó ông dùng thủ đoạn bất chánh kiếm tiền để phụng dưỡng ông thầy mới. Mãi sau, ông Diêu mới phát hiện ông “Thầy”  chỉ là kẻ vô loại chẳng có tài cán chi nên bỏ đi.

Một thời gian sau, lão Diêu biết được Ngài An Từ Độ Luân đang ở tại Đồn Đại Nam Câu (vì việc Cao Đức Phước nguyện chặt tay cúng Phật, cầu cho bệnh mẹ ông sớm bình phục, bài 16 -Y nguyện cứu người -phần thứ 6.) Ông đến trước mặt Ngài quỳ mãi không đứng dậy, cầu xin xuất gia. Lúc ấy Ngài không màng đến ông, hướng vào vách tọa thiền. Khoảng một giờ sau, Ngài xoay đầu lại nhìn thấy ông Diêu vẫn quỳ nơi ấy. Ngài hỏi:

– Ông làm gì vậy?

– Xin Thầy từ bi nhận con làm đệ tử.

– Ông muốn theo tôi xuất gia à? Nhưng tôi thì không có đức hạnh, lại không có công phu gì để dạy ông, tôi chỉ sợ ông sẽ bị thất vọng đó thôi.

– Con chỉ thỉnh cầu Ngài nhận con làm đệ tử là con mãn nguyện lắm rồi, ngoài ra con không cầu xin gì cả.

– Tại gia tu đạo không dễ, xuất gia tu đạo lại khó hơn. Luận ngữ có câu: “Việc lớn chưa rõ, như để tang cha mẹ, việc lớn rõ rồi, lại như để tang cha mẹ.”  Xuất gia là việc khổ nhọc, nhẫn những gì người khác không nhẫn nổi, nhường nhịn những gì người khác không nhường nhịn được, ăn những gì người khác không thể ăn, thọ nhận những gì kẻ khác không thể thọ, quên mình vì người, bỏ việc riêng tư mà lo việc công ích. Vậy ông làm được không? Nếu làm được tôi sẽ nhận  ông làm đệ tử; nếu không làm được thì đừng theo tôi xuất gia.

Ông Diêu không chút lưỡng lự, liền thưa:

– Bạch Thầy! Tất cả khổ nhọc con đều nhẫn nổi, xuất gia tuy khổ, nhưng con tin rằng không khổ bằng bị bắt đi làm lao công trong doanh trại Nhật. Con tự tin rằng con sẽ chịu đựng được hết.

Ngài liền nói kệ rằng:

Niệm niệm chớ quên sanh tử khổ
Tâm tâm nghĩ tưởng thoát luân hồi
Rời bến mê trở về nguồn cội
Đập vỡ hư không, Phật tánh minh
Nay chính thời mạt pháp
Kẻ xuất gia tuy nhiều
Chân chánh tu hành đếm được bao nhiêu
Theo đường Đạo, vạn người dưới thế
Mấy ai đặng chứng quả độ đời
Nếu ông thành tâm muốn xuất gia
Hãy nên lập chí nguyện sâu xa
Phát tâm Bồ Đề thù thắng
Thấp đuốc sáng trong bão táp
Như lửa hực luyện tinh kim
Ngày sau đạo nghiệp viên thành
Tinh tấn hoằng dương Phật pháp
Đem Phật giáo soi sáng khắp nơi
Mới không cô phụ nguyện xuất gia.

Qua những lời đối đáp, Ngài biết ông có thể thọ nhẫn được khổ cực, nên dẫn về Chùa Tam Duyên, thế phát xuất gia, thọ giới Sa Di, pháp danh Quả Thuấn; Ngài bảo Chú đảm nhận công việc nhà bếp. Chú siêng năng, làm việc cẩn thận, chân chánh dụng công tu hành, mỗi ngày ăn một bữa, ngủ ngồi, trước khi ngủ đều hành thiền và có thể nhập định suốt đêm. Những khi Ngài có điều gì dạy bảo, chỉ cần dùng tâm tưởng là Quả Thuấn đáp ứng ngay. Có lần, Quả Thuấn thấy bên cạnh miếu Long Vương ở Tây Sơn, vùng Đại Nam Câu, có một mãnh đất trống, và được sự đồng ý của Ngài, nên cất am tranh làm đạo tràng tu hành.

Quả Thuấn đến Chùa Tam Duyên thỉnh Ngài đến làm Lễ Khai Quang, cùng An vị Phật trong am, Ngài dẫn Quả Năng, Quả Trực, Quả Tá đến đó làm lễ. Đêm đó có mười vị Long Thần nơi Miếu bên cạnh am đến đảnh lễ Ngài, cầu thỉnh thọ quy y Tam Bảo. Lúc đó vào mùa Hè, trời nắng không mưa, lúa mạ héo vàng, nông dân nương nhờ thời tiết mà sống, nên buồn rầu than van mạng khổ, chỉ biết cầu trời từ bi thương xót ban nước cam lồ! Ngài nói với chúng Rồng:

– Công việc của các vị là làm mưa, tại sao lại để trời khô hạn thế này mà không cho mưa xuống?

– Bạch Ngài! Vì chưa được lệnh của Ngọc Hoàng Đại Đế, nên chúng con không dám phun mưa, nếu không sẽ bị trừng phạt.

– Các vị hãy lên Bảo điện Lăng Tiêu của Ngọc Hoàng Đại Đế, thỉnh Đại Đế từ bi, cho mưa trong phạm vi bốn mươi dặm. Nếu ngày mai phun mưa thì ngày mốt các vị sẽ được Quy y.

Quả nhiên hôm sau trời đổ mưa đúng trong vòng bốn mươi dặm, nhờ vậy lúa mạ như được

nước cam lộ thấm nhuận nên sinh sôi nẩy nở, đến mùa Thu ngủ cốc được thâu hoạch nhiều hơn năm trước. Ngày thứ ba, chư Thần Rồng đến trước chánh điện nơi am tranh, thọ tam Quy y. Để kỷ niệm việc này, Ngài đặt tên cho Am là Long Vũ Mao Phụng tức Am Rồng vâng lệnh phun mưa và treo tấm biển này trước am để kỷ niệm.

Quả Thuấn vào trú trong am chẳng bao lâu, có hai vị cư sĩ đồng thôn của họ Lưu và Dương An Tử đến ở cùng, cả hai đều là Phật tử thuần thành. Dạo ấy mỗi ngày họ đều cùng Quả Thuấn tụng kinh công phu khuya chiều tinh cần trì Chú Đại Bi. Chẳng bao lâu, Lưu cư sĩ xuất gia, còn Dương An Tử thì tòng quân, tham gia đội Bát Lộ Quân.

Trong hai năm đầu gia nhập quân đội, Dương An Tử thường xuyên thư từ về nhà, đến mùa thu năm Dân Quốc thứ ba mươi bảy (1948), đột nhiên dứt bặt tin tức, đợi cả sáu, bảy tháng sau vào một hôm nọ Quả Thuấn đang ở trong am tụng trì Chú Đại Bi, ngay lúc đó bên cạnh có Cha Cao Đức Phúc là Cao Vạn Phong; đột nhiên Dương An Tử trở về, gọi ở ngoài cửa.

Quả Thuấn nghe tiếng kêu vội ra mở cửa, Dương An Tử vừa vào đến cửa, phóng thẳng vào nhà trong, đến ngay lò lửa nằm xuống rồi nói:

– Tôi đi Hàn Quốc đánh giặc bị thương nặng, giờ đây tôi rất ư mỏi mệt, nên về đây nằm. Quả Thuấn vẫn điềm nhiên tiếp tục trì Chú Đại Bi. Nào ngờ trong giây phút ấy, Dương An Tử đột nhiên biến thành con hồ ly, khoảng trong chốt lát hình dáng con Hồ Ly biến mất.

Thật ra nguyên do của chuyện này ra sao?

Dương An Tử sớm đã vong thân trên chiến trường, hoặc giả não bộ của ông đã bị con hồ ly ăn, nhân đó nó hóa thành hình dáng của ông, cốt đến đây phá hoại sự tu hành của Quả Thuấn. Cũng may là ngay trong lúc ấy Quả Thuấn đang trì tụng Chú Đại Bi, cộng thêm công đức tu hành hằng ngày của Quả Thuấn, nên yêu quái dã thú hồ ly khinh sự rồi lẫn trốn.

Sự kiện này phát sanh chẳng bao lâu, Quả Thuấn cảm thấy đương thời Phật-giáo trong cảnh suy vi, Tăng chúng bị áp bức tra tấn, tượng Phật bị hủy hoại, kinh sánh bị đốt cháy nên Quả Thuấn phát nguyện thiêu thân cúng dường Phật.

Dân Quốc năm thứ ba mươi ba, ngày 15 tháng 7 năm 1944, Quả Thuấn đã phát đại nguyện xin thiêu thân cúng dường Phật. Lúc đó Ngài dẫn số đệ tử đến trước Phật đài thấp hương xin phát nguyện rằng, nếu con sống đến trăm tuổi, nguyện xin thiêu thân cúng dường Phật. Quả Thuấn noi gương Ngài cũng trước Phật đài phát nguyện rằng, chỉ cần thời cơ thích hợp nguyện sẽ thiêu thân cúng dường Phật, như Dược Vương Bồ Tát mà không đợi đến trăm tuổi.

Đến năm Dân Quốc thứ ba mươi tám, ngày 18 tháng 4 năm 1949 là ngày Quả Thuấn thiêu thân, Thầy tự trang bị trăm cân củi và ba cân rưỡi dầu đậu, ngồi kiết già trên đồng củi, châm lửa tự thiêu, thân hóa thành tro. Ngày sau, người trong thôn phát hiện Am Rồng Phun Mưa đã cháy bởi trận lửa lớn, luống khói vẫn còn nghi ngút. Khi đến quan sát, mới hay rằng Thầy thiêu thân cúng dường Phật. Tuy thân thể của Thầy đã thành tro, nhưng trái tim vẫn còn nguyên vẹn, không bị lửa cháy, mọi người đều rơi lệ thương tiếc khôn nguôi, họ đem cốt và trái tim của Thầy mai táng tại nơi đó.

Cái chết của Dương An Tử và việc Thầy Quả Thuấn tự thiêu, do cư sĩ Cao Phúc Đức viết thư cho hay, Nhật báo Hoa Kiều tại Hương Cảng cũng có đăng toàn bộ tin tức vào Ngày 22 tháng 9 năm 1949. Lá thư kể về chuyện họ Dương được một ký giả Nhật báo Hoa Kiều họ Mao lưu giữ.

 


 

24- Minh bạch nhân trước.

Lúc còn làm việc trong hội Đạo Đức ở Trấn Lạp Lâm, Ngài có một người bạn thân vừa đồng hương vừa đồng đạo tên Hàn Võng Cát, nhậm chức Tổng vụ trưởng Hội Đạo Đức ở Huyện

Song Thành. Ông luôn làm việc thiện, xả thí gia sản không lẫn tiếc, chỉ cần việc gì mà có ích lợi cho người thì ông đều dốc lòng làm. Sau khi Ngài xuất gia, thì HànVõng Cát vẫn nỗ lực tu hành và khai mắt trí huệ thấy rõ lý nhân quả; biết được là ông cùng Ngài có duyên thầy trò trong tiền kiếp nên thỉnh cầu Quy y và làm môn đệ của Ngài, thật không lầm nhân đời trước, nhưng Ngài không đáp ứng. Chẳng bao lâu ông lại lần nữa cầu xin làm đệ tử, Ngài cũng không trả lời. Lần thứ ba tại nhà lão cư sĩ Hạ Tôn Tường, ông quỳ mãi không chịu đứng dậy, cầu khẩn Ngài nhận ông làm đệ tử, Ngài thấy ông thành tâm khẩn thiết nên nói:

– Ông Quy y tôi, trước tiên chúng ta phải xóa bỏ tình bè bạn thuở xưa, mới không đi ngược lại giới luật Phật chế, trong mọi hành vi ông phải y theo giáo pháp phụng hành, giúp tôi hoằng dương chánh pháp.

Ông Hàn liền đảnh lễ Ngài thọ giới Quy y. Từ đó, ông giúp Ngài hoằng dương Phật Pháp khắp bốn phương, là cánh tay phải đắc lực của Ngài.

 


 

25- Ma nữ Như Ý.

Tại Làng Sương Bách Kỳ, Huyện Song Thành, có Lão cư sĩ Hạ Tôn Tường tánh tình hiền hòa đức độ được dân làng tôn kính; mùa Xuân ngày 25 tháng 2 năm 1945 Ngài làm Lễ Quy y cho bảy mươi hai người tại nhà ông, đồng thời cũng dạy họ phương pháp trì Chú Đại Bi và rằng : Nếu các vị gặp cảnh nguy nan chỉ cần chuyên tâm thành ý niệm thì nhất định sẽ được cảm ứng. Ngay hôm sau nhân vì Phật sự Ngài phải rời khỏi đây để tới Huyện Song Thành. Vào mồng 9 tháng 3, có một bà Lão ngồi trước nghĩa trang của làng thúc thít khóc. Trong làng có Hạ Phu nhân thấy thế liền đến an ủi:

– Bà ơi! Thôi đừng khóc nữa!

Bà vẫn không nghe, cứ khóc mãi, Bà lão này mặc chiếc áo vải màu xanh lam, quần vàng, chân mang đôi giày màu vàng, trong tay cầm chiếc nón đen, tóc đánh thành hai bính. Bà khóc một hồi rồi nín, sau đó đến trước cổng làng, ngồi ngay giữa con đường lớn; Khi ấy Hạ Tôn Tường đang đánh xe ngựa trở về làng, ngựa thấy trên đường có người, nên kinh hãi rống to vang lộng tứ phía, thừa dịp này bà Lão lẻn vào làng.

Dân làng thấy Bà tướng mạo quái dị với cách ăn mặc lạ thường nên tò mò xúm quanh hỏi chuyện:

– Bà tên gì? Nhà ở đâu?

Bà đều trả lời rằng: Không biết. Lát sau Bà đứng dậy tập tễnh đi về phía trước, dân làng vì hiếu kỳ, nên đi theo. Khi đến phía sau nhà Hạ Văn Sơn, bà đột nhiên liệng nón vào trong vách tường cao chín thước, rồi nhảy vụt qua tường. Mọi người thấy tận mắt đều sửng sốt và kinh hãi. Vào tới nhà Bà định lên giường nằm, nhưng vợ của Hạ Văn Sơn ngăn lại, hỏi rằng:

– Bà định làm gì vậy?

Bà lão không trả lời. Bà Hạ và đứa con gái là đệ tử Quy y Ngài, nhớ lại lời dạy của Ngài về sự diệu dụng không thể nghĩ bàn thần Chú Đại Bi nên hai mẹ con đồng thanh niệm, Bà lão nghe niệm Chú Đại Bi bỗng ngã lăn trên giường giống như xác chết Dân làng chứng kiến mọi sự liền báo cho cảnh sát, nhân viên cảnh sát đến khiêng bà đi về bót tra hỏi:

– Bà từ đâu đến?

– Tôi là thây chết không biết việc đời.

Dân làng nghe thế đều run sợ nên yêu cầu Bà lão hãy rời khỏi làng, nhưng bà không nghe,

cuối cùng rồi Bà chịu rời. Sau khi Bà đi khỏi thì cô gái họ Hạ đột nhiên phát bệnh quái dị, đầu nhức kịch liệt, thần trí hôn mê, không ăn không ngủ, không nói năng, cả nhà đều lo lắng cuống cuồng. Đến ngày 22 tháng 3, Ngài rời Huyện Song Thành đi đến làng ấy và trú tại nha

Ông Hạ Tôn Tường. Vợ Hạ Văn Sơn nghe tin liền chạy đến cầu cứu. Ngài bảo:

– Tôi không biết trị bệnh nhưng Hàn Võng Cát biết xem nhân quả.

Lúc bấy giờ Hàn Võng Cát cũng có mặt, ông đang tọa thiền. Ngài bèn nhờ ông quán xét nhân duyên sanh bệnh của cô gái.

Hồi lâu Hàn Võng Cát bạch:

– Bạch Thầy, không thể giúp họ được, vì nếu nhúng tay vào sẽ nguy hiểm đến tánh mạng của mình. Cô ấy đã bị Quỷ Cái Như Ý nhập vào. Quỷ này tu luyện lâu năm nên tà thuật và ma lực rất thâm hậu, e rằng Thầy không đủ bản lãnh để hàng phục nó.

– Vậy bệnh tình của cô ta như thế nào?

– Bạch Thầy! Nhất định sẽ chết!

– Cô ta đã Quy y Tam Bảo, Ta không đành lòng nhắm mắt làm ngơ để cô ấy bị ma nữ hại chết. Ta phải cứu cô ta, dầu có chết ta cũng vui lòng vì không những cứu người mà còn cứu ma nữa. Nếu không sau này lại sẽ có người bị ma hại nữa. Vậy ông hãy theo ta xem sự việc này ra sao?

Ngài cùng Hàn Võng Cát đến nhà họ Hạ và biết chắc rằng tà không thể thắng chánh. Quả nhiên phép tà của Ma nữ không thể thắng được Chánh Pháp, Ma nữ muốn chạy trốn mà không được, nên quỳ xuống cầu Ngài tha thứ. Ngài thuyết pháp Tứ Thánh Đế, Mười Hai Nhân Duyên cho Ma nữ nghe. Nghe xong Ma nữ liền giải ngộ, nguyện bỏ tà quy chánh, cầu Ngài truyền Tam Quy, phát nguyện hộ trì Tam Bảo. Ngài bảo Ma nữ hãy qua Tỉnh Cát Lâm, Huyện Giao Hà, núi Lỗi Pháp, Động Linh Long mà tu hành, cùng ban pháp hiệu là “Kim Cang Như Ý Nữ.”ï

Ma nữ đi rồi thì bệnh nhân được bình phục ngay. Bao ngày qua dân làng mục kích những cảnh trạng như thế nên càng tin sâu Phật pháp. Sau đó đã có hơn trăm người cầu xin Quy y phát tâm thọ trì Chú Đại Bi.

 


 

26- Cảm ứng đạo giao.

Trong Làng Tam Tánh, Huyện Song Thành có Dương Thiếu Anh, con thứ ba của Dương Dục Côn một tướng quốc đời Mãn Châu, đang đóng quân tại Tỉnh Tam Giang (nay là Tỉnh Hợp Giang.)

Năm Dân Quốc thứ ba mươi mốt, Dương Thiếu Anh cùng mẹ và em gái đồng trú trong doanh trại. Cô em tên Thục Lan chưa lập gia thất, Dương Thiếu Anh rất nôn nóng tìm đối tượng cho em, không lâu thì đính hôn cô cho bạn đồng sự là Bạch Giáo Quản. Trong ngày hôn lễ, Dương Thục Lan đột nhiên bị bệnh liệt giường hôn mê bất tỉnh cả mấy ngày, người nhà đành chịu bó tay. Ngày nọ Dương Thục Lan chợt tỉnh lại, nói với mẹ:

– Mẹ ơi! Ngài Quán Âm mặc áo trắng đang đến kìa, mau đi đốt nhang đi mẹ!

Nói xong, cô liền đứng dậy lễ lạy. Mẹ cô thấy cô dường như đang nói chuyện với ai, rồi chập sau vẫy tay ra dạng như đang tiển biệt một vị khách quý. Sau đó, cô xoay đầu lại nói với mẹ:

– Bồ Tát Quán Âm vừa bảo con rằng; Nếu con không kết hôn mà xuất gia tu hành thì con sẽ khỏi bệnh, con đã vâng chịu rồi. Vả lại Ngài cũng đồng ý cho con xuất gia sau khi cha mẹ đã qua đời. Tiếp đó cô nói:

– Ngày mai sẽ có vị Sư đến trị bệnh cho con.

Ngày thứ hai Dương Thục Anh nghe có ba tiếng khánh kêu trên bàn Phật. Ngay lúc đó lại thấy có một vị Tăng bước vào nhà. Vị Tăng này mặc một chiếc Tăng y rách nát, đầu đội nón vải, đi chân không, tay cầm cây phất trần và quất lên thân cô. Cứ thế mỗi ngày vị Tăng ấy đến ba lần trong chín ngày liên tiếp. Sau cùng vị Tăng đó hỏi cô:

– Cô có thật tâm, thật ý muốn xuất gia tu đạo không?

– Sau khi hết bịnh con quyết định sẽ xuất gia tu hành.

Vị Tăng bèn cho cô một viên thuốc. Cô ta uống và quả nhiên hết bệnh.

Trong khi Thục Lan đau nặng, bà mẹ liền đánh điện tín về nhà báo cho cha cô hay nên ông vội đến thăm; nhưng đến lúc ấy bệnh cô đã thuyên giảm rất nhiều nên khi nghe vợ thuật lại những việc đã xảy ra, cha cô phẩn nộ nói:

– Vì do hỏa khí trong người nó quá nóng nên mới mê sảng như thế, chớ làm gì có chuyện một người bình thường có thể thấy được Bồ Tát Quán Âm?

Nói xong ông còn trách mẹ cô sao quá mê tín như vậy. Dương Thục Anh nghe cha nói thế đâm nghi ngờ giấc mộng xưa. Cô vốn sự cương quyết xuất gia nay bị dao động, không lâu sau cô theo cha mẹ trở về làng Tam Tánh. Đêm nọ cô lại mơ thấy BồTát Di Lặc bảo: “Thọ mạng của cha con chỉ còn có bảy ngày thôi! Con hãy niệm Phật để tiêu giảm tội nghiệp cho cha.”

Sáng hôm sau, cô thuật lại giấc mộng đêm qua cho cha nghe, không những ông không tin mà lại còn mắng cho cô một trận. Vì thế cô cứ nơm nốp lo sợ không yên. Đến ngày thứ sáu, khi người cha chuẩn bị ra Huyện Song Thành mua chút vật dùng, Cô một mực ngăn cản ông đừng nên ra khỏi nhà, nhưng ông kiên quyết không nghe vẫn cố chấp ra ngoài.

Sau khi mua bóng đèn và các vật cần thiết, ông ra bến xe Song Thành để trở về. Vừa qua trạm xét vé, ông chợt xây xẩm mặt mày, té lăn hôn mê bất tỉnh. Nhân viên trạm kiểm soát liền sai người cấp tốc đến nhà ông thông báo. Người nhà đến khiêng ông về và ông đã từ trần đúng vào ngày thứ bảy như trong giấc mơ của con ông.

Người con trai thứ hai của ông là Dương Thế Siêu, cũng không tin bất cứ lời gì của em mình nói. Người này không những ngăn cản không cho em gái xuất gia, mà thường hay phỉ báng Tam Bảo. Đêm nọ anh ta mộng thấy Bồ Tát bảo anh ta rằng:

– Trong vòng một tháng ông sẽ chết.

Anh ta tỉnh dậy biết đây là giấc mộng kỳ dị nhưng tâm anh ta vẫn không chút ăn năn hối cải. Quả nhiên đúng một tháng sau, ngày 13 Tháng 5 năm Dân Quốc thứ ba mươi bốn, anh tạ thế.

Đến ngày 25 tháng 12 có dịp Ngài bèn ghé đến nhà họ Dương, khi thấy Ngài bước vào cửa, cô Dương Thục Anh liền nói với mẹ:

– Vị Tăng trị bệnh cho con ở Tỉnh Tam Giang chính là vị này đây, hôm nay Ngài lại đến.

Cô liền chạy ra nghinh tiếp và cung kính đảnh lễ Ngài.

Ngài hỏi:

– Con vẫn còn nhận ra ta à?

– Bạch Thầy, vâng ạ!

– Con có còn muốn xuất gia nữa không?

– Bạch Thầy! Xưa kia vì trong lúc bệnh hoạn, tâm trí con ngu muội, lại không có chứng thể, nên tâm sanh nghi hoặc. Nay con biết được rằng tất cả mọi việc đúng thật, đương nhiên con vẫn muốn xuất gia.

Từ đó cô ăn chay niệm Phật, chân thành khẩn thiết tu hành. Cô xin Quy y Tam Bảo rồi sau đó khuyến hóa thuyết phục được ba người anh và các bà con quyến thuộc đồng Quy y Ngài.

 


 

27- Cầu con được mãn nguyện.

Phan Tế Thời là người giàu có ở Huyện Song Thành, hai vợ chồng đã ngoài bốn mươi mà vẫn chưa có mụn con nối nghiệp nên rất buồn rầu. Vì ngưỡng mộ đức hạnh của Ngài nên họ

tìm đến Quy y và chuyên cần học Phật pháp với Ngài. Ông bà thường cầu nguyện trước Bồ Tát Quán Thế Âm gia bị cho họ có một đứa con để nối dõi. Ông Phan cũng thành tâm khẩn thiết cầu Ngài dìu dắt, Ngài bảo:

– Ông phải nên làm nhiều việc lành, ông có thể bố thí phân nửa gia tài của ông không? Nếu làm được như thế ông sẽ tích tụ được nhiều công đức. Khi nhân duyên thành thục, tôi tin chắc rằng ông sẽ được mãn nguyện.

Nghe Ngài nói thế ông liền y lời, đem tiền của ra tu sửa chùa chiền, tạo tượng Phật, cúng dường Tam Bảo, bố thí vật thực cho các hội từ thiện, giúp người nghèo khổ không nơi nương tựa. Một năm sau quả nhiên vợ ông sanh được một bé trai, đặt tên Thí Đức. Đứa bé chóng lớn, thiên tánh thông minh lanh lợi. Sau khi sanh được con trai, ông lại càng tin tưởng Phật Pháp, ngày ngày tụng kinh niệm Phật chuyên cần tu hành thiện pháp.

 


 

28- Thấu suốt nhân quả.

a) Sám hối giải nghiệp.
Theo lời dạy của Lão Hòa Thượng Thường Nhân, Ngài trở về Chùa Tam Duyên giúp đỡ tăng chúng xây cất Tự viện. Tất cả vật liệu như cây cối, ngói gạch đều phải chuyên chở bằng xe, nhưng nhằm vào mùa thu hoạch, nên Chùa không thể mướn xe được. Ngài đích thân lặn lội tìm đến nhà ông Trưởng khu Lưu Trung Cần mượn xe, tiếc thay ông Lưu từ chối rằng:

– Bạch Thầy đây là việc thiện con muốn làm lắm, nhưng ngặt vì lúc này đúng vào mùa gặt lúa, nên con không có cách chi giúp Thầy!

Khi ấy người em dâu của ông từ trong phòng bước ra thấy Ngài, bà liền cầu Ngài cứu vớt con bà, thằng bé đang bệnh nặng sắp chết.

Sau một hồi quán sát Ngài nói:

– Bà có biết vì sao con bà sắp bị chết không?

– Dạ con không biết.

– Vì bà không hiếu thảo với cha mẹ chồng, nếu bà tin lời tôi mà đến trước cha mẹ chồng quỳ lạy sám hối tội lỗi, thì mới mong cứu vãn tánh mạng đứa nhỏ.

Vì thương con nên bà đã làm y theo lời dạy, nhưng bệnh tình con bà vẫn không thuyên giảm. Ngài bảo rằng hãy đem đứa bé đến, khi bà mang con đến, Ngài vỗ trên đầu đứa bé ba lần và đứa bé bắt đầu khóc. Bệnh của bé cũng tự nhiên phục hồi. Ông Lưu chính mắt thấy rõ sự tình lòng rất thán phục nên chủ động chiêu tập tất cả xe cộ lớn nhỏ trong toàn khu để chở vật liệu xây cất cho Chùa luôn mấy ngày liền. Sau đó bất luận Ngài đi đâu cũng có người tranh nhau cho mượn xe chở. Chỉ trong vòng một tháng người ta đã cho mượn đến tám trăm chiếc xe.
b) Tiên đoán.
Chuyện Ngài cứu sống em bé truyền ra rất mau nên Lý Thanh Sơn ở thôn Dương Gia Điềm, có một người em bị bệnh nặng bèn đến cầu Ngài cứu giúp. Ngài đáp ứng, cùng theo về nhà ông; khi vừa vào đến cửa, Ngài liền nói với Lý Thanh Sơn:

– Ám khí trong nhà ông quá nặng, tôi không đủ khả năng để cứu giải. Vài ngày tới đây e rằng trong nhà ông sẽ xảy ra chuyện không may.

Qua bảy ngày sau, quả nhiên Lý Thanh Sơn vì bực tức người em mà tự tử. Chẳng bao lâu, người em của ông và người cháu gái cũng bị bệnh mà chết.
c) Tiền căn.
Cùng Thôn Dương Gia Điềm có em Vương Thân mười hai tuổi bị bệnh lao đã ho ra máu và còn bị đau bụng. Cha mẹ em tìm đến Ngài xin cứu sống con mình.

Sau khi xem đứa bé, Ngài bèn hỏi ông Vương một câu hỏi lạ lùng:

– Ông có muốn cho con ông sống không? Tôi không thể cứu con ông được, chính ông phải cứu nó.

– Tôi muốn nó sống nhưng làm cách nào mà tôi có thể cứu nó? Tôi không biết phải làm sao đây?

– Đây là phương pháp: nếu ông muốn con ông sống thì ông phải cho nó xuất gia, quy y cửa Phật. Nếu nó xuất gia, nó sẽ sống bằng không nó sẽ chết. Hai đường phải lựa một và chẳng có cách nào khác.

Cha mẹ em liền đồng ý. Chẳng bao lâu sau, em hết bệnh hẳn. Thấy con mình mạnh khỏe trở lại, hai vợ chồng hối tiếc và không cho em đi tu, mặc dầu Ngài viết thơ ba lần khuyên họ phải giữ lời hứa. Trong lá thơ cuối cùng Ngài cảnh tỉnh họ: Nếu ông bà không tức khắc cho con mình xuất gia tu đạo thì e rằng bệnh tình của em sẽ bộc phát trở lại, khi ấy khó mà trị được. Cha mẹ em vẫn không quan tâm đến lời nhắc nhở trong thơ.

Qua hơn một năm sau bệnh của em bỗng tái phát, cha mẹ em lo lắng, chạy chữa biết bao bác sĩ, thuốc men nhưng đều vô phương cứu chữa, mấy ngày sau em qua đời.

Dù hai ông bà có khóc lóc thảm thiết thế nào đi nữa, đứa bé cũng không sống lại. Cả hai người lại khẩn cầu Ngài cứu sống cho đứa con họ một lần nữa, nhưng Ngài nói:

– Cái phương pháp làm cho nó sống là của ông bà. Tôi đã cho ông bà cái phương pháp ấy. Chính ông bà đã không dùng, tôi không không thể làm gì khác hơn.

Cha mẹ em Vương Thân thật tâm hối hận vì trước kia đã không tin lời của Ngài.

Tại sao Ngài dạy đứa trẻ xuất gia? Vì nó có cái đức tướng của một người xuất gia, và trong các kiếp trước, nó đã phát nguyện sẽ xuất gia trong mỗi kiếp sống.

 


 

29- Tham phương hành cước.

Sau khi Nhật Bổn đầu hàng, sự giao thông giữa vùng Đông Bắc và nội địa Đại lục được dễ dàng, nên Ngài đến Quảng Đông đảnh lễ Hòa Thượng Hư Vân, vị Hòa Thượng mà Ngài đã ngưỡng mộ từ lâu. Đến mùa thu năm 1946 từ Chùa Tam Duyên tại Hợp Nhĩ Tân, Ngài cất bước đi tham bái vị đại thiện trí thức, không quản đường xá xa xôi vạn dặm. Khi đến Chùa Bát Nhã ở Trường Xuân, hai đệ tử của Ngài là Quả Năng và Quả Thuấn ở lại nơi đó thọ giới Tỳ-kheo, còn Ngài một mình tiếp tục trên cuộc hành trình mà thẳng bước về phương Nam, Ngài chỉ mặc một bộ y phục, ngoài ra không có hành trang chi, tiền thì chỉ đủ chi tiêu vào vé tàu. Khi đến Thiên Tân, Ngài tạm trú tại Viện Đại Bi. Nơi đây có Lão Hòa thượng Đàm Hư, đang giảng Kinh Lăng Nghiêm và Lão Hòa Thượng Định Tây (Như Quang) thì từ Viện Đại Bi trở lại Đông Bắc.

Hoàn mãn các thời kinh này, Ngài cùng với Lão Pháp sư Thể Kính và mười ba vị Tăng khác đáp tàu đi Thượng Hải. Khi thuyền đi ngang qua Hoàng Hải, bỗng nhiên một cơn bão lớn thổi đến; những đợt sóng vĩ đại đánh vào làm thuyền chao động không thể tiến tới mà cơ hồ như sắp lật úp. Mưa bão và sóng bể kéo dài mười mấy ngày làm cho thức ăn, nước uống trên thuyền đều cạn. Tám phần mười người trên thuyền đều bị say sóng ngất xỉu kể cả Ngài. Ngài nôn tất cả thức ăn và mửa ra cả mật xanh mật vàng. Ai ai cũng đều hoảng hốt lo sợ và nghĩ rằng: Chắc không thoát khỏi cơn hoạn nạn này.

Dưới đây Ngài làm bài “Kệ Nôn Mửa” (Ẩu Thổ Tụng) để tường thuật lại cảnh hiểm nạn lúc bấy giờ. Xem đây cũng sẽ rõ được lòng từ cảm ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Kết bạn nam hành thập tứ tăng
Hồ tử trưởng lão, Sa di thanh
Bích hải tiếp thiên thiên vạn lý
Hắc ba trục lãng lãng thiên trùng
Pháp hàng yêu tà chu vị phúc
Luân phụng thánh trợ ẩu phương ninh
Hỷ chỉ Hỗ Hãi trừ cơ khát
Võ Xương Chánh Giác bảo loa minh.

Tạm dịch:

Kết bạn nam hành mười bốn Tăng
Trưởng lão râu dài, Sa di trẻ
Biển trời xanh biếc tiếp vạn dặm
Sóng đen lớp lớp lắm thiên trùng
Đối pháp hàng tà thuyền không ngã
Ân triêm thánh đức ói mửa ta
Mừng đến Hỗ Hải trừ đói khát
Võ Xương Chánh Giác bảo âm vang.

Kết bạn nam hành mười bốn Tăng nghĩa là: Trên thuyền đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải có mười bốn vị Tăng gồm mười vị Tỳ kheo và bốn Sa di.

Trưởng lão râu dài Sa di trẻ: Ngài là một trong bốn Sa di trẻ trên tàu. Trưởng lão râu dài tức Lão Pháp sư Thể Kính, Trưởng chúng của nhóm này, ra lệnh cho chư Tăng phải nộp tất cả tiền bạc cho Sư trước khi lên tàu. Sư bảo:

– Không ai được giữ tiền riêng.

Biển trời xanh biếc tiếp vạn dặm: Khi ấy biển trời đồng một màu xanh, nhìn xa không bờ mé, chỉ có thuyền lướt trên sóng gió thôi.

Sóng đen lớp lớp lắm thiên trùng: Đột nhiên, sóng nước biến thành màu đen, sóng nổi cuồn cuộn cao năm, sáu thước. Theo bình thường cuộc hành trình từ Thiên Tân đến Thượng Hải mất khoảng một tuần lễ, nhưng lần này đi phải mất hai tuần vì nạn phong cuồng bão táp này.

Đối pháp hàng tà, thuyền không ngã: Trước kia vì phải cứu bệnh cho Quả Tá và loài Thủy quái bị động nên mới oán ghét Ngài. Xưa kia ở làng Đông Tĩnh chúng muốn trả thù Ngài và đã muốn Ngài cùng cả dân làng đều bị chết trong cơn lụt. Nào ngờ nay chúng muốn lật úp chiếc tàu và nhận chìm Ngài để báo thù. Ngài đã bị say sóng mửa ra mật xanh, mật vàng, mất hết sức lực và gần như sắp chết, nhưng Ngài vẫn âm thầm không ngừng  niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, cầu nguyện Bồ Tát cứu giúp: “Nếu con sống mà không lợi ích chi cho chúng sanh thì con nguyện tiếp thọ tất cả.” Trong cơn bão tố thuyền lung lay thế nào cũng không lật được.

Ân triêm Thánh đức ói mửa tan: Bồ Tát Quán Âm thật đại từ, đại bi, đáp ứng sự thành khẩn vô bờ của Ngài, cơn bão đã ngưng, Ngài và mọi người trên thuyền được bình an vô sự.

Mừng đến Hỗ Hải trừ đói khát: Khi thuyền vừa cập bến, Lão Pháp Sư Thể Kính bảo mua mì về cùng ăn. Lúc mọi người đã ăn no rồi còn dư lại chút ít, họ định đổ xuống biển. Thầy trai soạn liền hỏi Ngài có muốn ăn không? Ngài tuy không ăn quá Ngọ nhưng lại nghĩ: Đã hơn mười mấy ngày trời trên thuyền không có đủ để ăn, nay họ có ý đổ thức ăn xuống biển, chắc sẽ gieo thêm nghiệp dữ. Nghĩ thế mà Ngài bưng uống luôn hai tô canh mì. Vị thầy kia thấy thế liền vội báo với lão Hòa Thượng: Ông Thầy nó đó nói là không ăn quá Ngọ, thế mà ổng lại trộm ăn vụng đó.

Ngài bị Lão Hòa Thượng la mắng thậm tệ nhưng không hề biện giải.

Võ Xương, Chánh Giác bảo âm vang: Từ Thượng Hải Ngài đến tỉnh Võ Xương, Hồ Bắc và tạm trú tại chùa Chánh Giác, ngày đêm mặc bộ y phục củ trăm miếng vá, ngồi thiền ở cạnh cánh cửa ra vào chánh điện, lúc bấy giờ Ngài phụ trách hương đăng khi rảnh việc thì dụng công tu thiền. Chánh điện nơi đây thường tỏa mùi hương lạ. Tất cả công việc trong chùa Ngài đều từng đảm trách như: nấu ăn, gánh nước, lau nhà, quét dọn nhà vệ sinh…

Năm 1947 Ngài đến Đạo tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm ở núi Phổ Đà thọ Cụ-túc giới. Sau khi thọ giới xong Ngài đi về miền Tây và tu tại Chùa Linh Nham Sơn gần Tô Châu. Nơi đây Ngài tham dự các lớp thuyết giảng và nghiên cứu kinh điển. Mùa Thu năm ấy Ngài tới núi Không Thanh tham gia mười tuần thiền thất. Ngài đã gặp Lão Hòa Thượng Liễu Thừa và Hòa Thượng Minh Quán trong khóa thiền này. Lão Hòa Thượng Liễu Thừa là Phương Trượng của Không Thanh Sơn Tự. Trong thiền đường duy chỉ có Lão Hòa Thượng Minh Quán và Ngài đã miên mật thiền quán suốt bảy mươi ngày không hề nằm nghỉ.

Sau đó vào một đêm Ngài từ Long Đàm trở về Chùa Không Thanh bỗng có một đàn sói ngoan ngoãn đi theo, chẳng những chúng không hề tấn công Ngài mà còn tỏ vẻ quy phục nữa, thấy thế Ngài liền Quy y cho chúng. Vì vậy trong số đệ tử của Ngài, nay lại được thêm hai mươi mấy chú sói nữa.

 


 

30- Từ bi trị bệnh.

Từ Thượng Hải Ngài ghé Hán Khẩu trước khi tiếp tục đi Quảng Châu. Lúc bấy giờ các Chủ tàu thường cho chư Tăng đi miễn phí vì họ tin rằng sự có mặt của các vị tu hành là một điềm lành và sẽ đem lại bình an.

Trên tàu Ngài thấy một người què đi thọt chân thật đáng thương và ngay khi gặp người này, Ngài biết rằng Ngài có thể chữa lành cho anh ta, nhưng nếu chữa cho anh ta ngay thì có thể sanh chuyện cho nên Ngài chờ đến ngày cuối cùng, khi tàu sắp cập bến thì trời cũng vừa hừng sáng Ngài hỏi ông:

– Sao ông đi đứng coi bộ khó khăn quá vậy?

– Ôi! tôi bị người ta vu cáo bán than chợ đen nên bị bắt giam dưới hầm đất vừa ẩm ướt vừa giá lạnh nên bị bệnh phong thấp nặng, đau thấu các khớp xương; hơn nữa vì chỗ giam rất chật hẹp không có chỗ đi tới đi lui được nên khi được phóng thích thì không đi được nữa và ra nông nỗi này. Nếu không có cây nạng nầy thì phải chịu thôi!

Xương của anh ta bị cong queo còn người thì xiêng lệch như một con vịt ngủ.

– Ông có muốn lành bệnh không?

– Tất nhiên là muốn rồi.

Vậy ông hãy liệng cây nạng của ông xuống biển đi.

Người què ấp úng:

-…nhưng thưa nếu không có cây nạng thì tôi làm sao đi đây?

– Tôi sẽ giúp ông, không lẽ tôi gạt ông hay sao?

Ông ta nghe lời bèn vứt cây nạng qua thành tàu. Ngài vừa xoa chân ông vừa tụng Chú Đại bi khoảng mười lăm phút. Xong Ngài bảo:

– Hãy đứng dậy!.

Thật là ông đã đứng lên được, Ngài tiếp:

– Bước đi!

Người què bắt đầu bước. Ngài bảo tiếp:

– Và bây giờ ông hãy chạy thử xem.

Ông ta liền chạy quanh Ngài, reo mừng khấp khởi. Thấy sự việc này có khoảng bốn, năm mươi người trên tàu tới xúm quanh Ngài, cầu Ngài chữa bệnh cho họ. Người này nói: Tay tôi nhức; Người kia nói: Lưng tôi đau… và đều xin Ngài chữa cho.

Ngài khôi hài hỏi:

– Các vị có sợ bị ăn đòn không?

Nói xong Ngài đấm vào tay của một người bị nhức tay thì người đó liền hết nhức. Ngài đá nhẹ vào một người chân bị nhiễm trùng và hỏi:

– Anh cảm thấy thế nào?

– ồ! Tôi hết đau rồi. Người kia ngạc nhiên trả lời.

Mỗi người bệnh đều được chữa bằng những cái đấm đá mà họ đều cho rằng bệnh họ được lành. Sau đó hành khách lại bao quanh Ngài xin hẹn để chữa bệnh cho thân nhân và bạn hữu của họ như:

– Chị tôi ở Nam Kinh đã bị đau từ mấy năm nay, xin Ngài…..

Ngài phương tiện nói:

– Vâng, vâng…tôi sẽ cố đến…

Khi tàu ghé bến Ngài phải dùng một ngõ tắt để lên bờ.

Bởi lúc đến Thượng Hải Lão Pháp Sư Thể Kính (truyền lệnh cho chư Tăng phải nộp tất cả tiền bạc cho Sư trước khi lên tàu đi Thượng Hải) từ chối không trả lại phần tiền cho Ngài, cho nên trên người Ngài chẳng dính lấy một xu và trên tàu Ngài đã được người ta cúng tám mươi ngàn quan (tiền Trung Hoa đương thời) nên đã dùng hai mươi ngàn để mua vé xe lửa đi Quảng Châu. Tại trạm xe lửa Ngài gặp Pháp sư Chu Nhất, Sư cũng đi Quảng Châu nhưng lại không tiền mua vé, đợi đi quá giang. Ngài vui vẻ mua vé cho Sư rồi cùng đi. Như thường lệ, Ngài chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Nhưng Sư Chu Nhất thì cứ đến mỗi trạm xe lửa ngừng đều muốn mua thức ăn, sau cùng Sư muốn mua cháo đắt đến mấy ngàn quan. Ngài bèn móc hết tiền còn lại trong túi đưa cho Sư rồi nói: Thầy hãy tự giữ lấy và cũng để giảm bớt phiền phức cho tôi. Tôi cũng không muốn bị phân tâm vì nó; từ đó Ngài đã không đụng tới tiền bạc nữa.

 


 

31- Bái Kiến Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân.

 

Năm 1948 Ngài đến Chùa Nam Hoa, Bảo Lâm, Tào Khê Tỉnh Quảng Đông, triều bái chân thân Lục Tổ Huệ Năng và Đại Giám Thiền Sư, kế Ngài bái kiến Lão Hòa Thượng Hư Vân, bấy giờ đã một trăm lẻ chín tuổi.

With the Elder Master Hsu Yun at Nanhua Monastery in China, 1948

Trong lúc đàm đạo Lão Hòa Thượng đã nhận ra Ngài là bực pháp khí, xứng đáng được truyền pháp gia bảo. Sau đó ủy nhiệm Ngài làm Giám Luật của Chùa Nam Hoa, Chủ nhiệm giáo vụ và là A Xà Lê Tôn chứng sư trong những kỳ giới đàn. Ngài nghiêm trì giới luật, đồng chí hướng và đạo hạnh của Lão Hòa Thượng.

Ngài cùng Lão Hòa Thượng tâm ấn tâm đàm luận, ý hợp tâm đồng. Chúng ta có thể khảo lược bài kệ sau đây:

Hư Công thấy tôi bảo Như Thị
Tôi thấy Hư Công bạch Như Thị
Hư Công và tôi đồng Như Thị
Phổ nguyện chúng sanh cũng Như Thị

 

Lúc đầu Lão Hòa Thượng Hư Vân yêu cầu Ngài ở lại làm giáo thọ tại tu viện Nam Hoa. Ngài từ chối, bạch rằng:

– Đệ tử từ vạn dặm đến đây để được gặp vị Thiện tri thức, nếu Hòa Thượng có thể bảo đảm rằng đệ tử sẽ chấm dứt sanh tử, thì dầu có phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, dẫu có phải cúng dường nhục thân này đệ tử cũng sẽ hoan hỷ phụng hành.

-Người nào ăn thì người ấy no, người nào tu thì người ấy chứng và sẽ chấm dứt luân hồi sanh tử. Tu hành thì phải quán chiếu nội tâm và ngoại chướng, người tu không nên chỉ nhằm đạt đến quả vị A La Hán và chỉ nghĩ đến sự chứng đắc của mình. Phải tu Bồ Tát đạo, hộ trì Tam Bảo, hành thiện và phục vụ cho mọi chúng sanh. Như vậy phước huệ viên thành thì sẽ chấm dứt sanh tử.

Hòa thượng Hư Vân lại tiếp tục khuyến tấn Ngài dạy:

– Nhân giả từ miền Đông Bắc vạn dặm đến đây để gặp tôi, nếu người không nghe theo lời tôi thì thử hỏi có ích gì?

Ngài bèn y giáo; được dịp quan sát và học hỏi lời nói, hành động của Lão Hòa Thượng Hư Vân, Ngài cảm phục đạo hạnh của Hòa Thượng vô cùng. Ở chức vụ Giáo thọ Ngài đã tận lực làm việc để xứng đáng là một vị Thầy, một bậc đàn anh gương mẫu. Ngài nhận chịu tất cả những khó khăn và chướng duyên trong sứ mạng hoằng truyền giáo pháp.

Năm 1949 Lão Hòa Thượng Hư Vân về núi Vân Môn Tỉnh Quảng Đông lo việc tu sửa lại ngôi Đại Giác Thiền Tự. Từ đó Ngài cũng xin thôi việc chủ nhiệm giáo thọ, rồi đến Vân Môn bái biệt Hòa Thượng.

Hòa Thượng Hư Vân đã viết thư khẩn thiết lưu Ngài ở lại giữ chức Viện Trưởng, nội dung như sau:

“Kính bạch Pháp sư An Từ,

Tôi đã nhận được thơ Nhân giả và tôi đã đọc rất kỹ. Nhân giả đã quá khiêm tốn. Thật ra trong năm vừa qua, luật viện đã trông cậy phần lớn nơi sự giúp đỡ của Nhân giả. Tôi hy vọng rằng từ nay về sau chúng tôi lại còn có thể nhờ cậy nơi Ngài. Xin đừng nghĩ đến chuyện đi bất cứ nơi đâu. Tôi hy vọng rằng Nhân giả sẽ quyết định thường trú tại đây để hỗ trợ và bảo vệ Tự Viện. Đó là sự mong ước tha thiết nhất của tôi. Tôi không còn gì để nói thêm ngoại trừ kính chúc Nhân giả pháp thể khang an, tuệ giác viên thành.

Nhà sư áo rách Hư Vân Cẩn bái

Mồng 6 tháng 2 năm 1948”

Nhưng Ngài nghĩ rằng có rất nhiều người mà ngay cả danh từ “Phật Đà”  cũng chưa biết đến cho nên Ngài quyết định đem Pháp Phật hoằng dương khắp chốn.

 


 

32- Giang Tây hoằng pháp.

Vào tháng 5 năm 1948, sau lễ truyền giới mùa Xuân tại Chùa Nam Hoa Ngài đã nhận lời mời của nhóm chuyển pháp luân là nữ Lão cư sĩ Lâm Hoàng Chú Tai đến Huyện Nam Thanh Tỉnh Giang Tây để giảng Kinh A Di Đà.

Khi ấy có hơn trăm người tham dự và do thành tâm nghe pháp nên trong pháp hội đã có nhiều sự cảm ứng không thể nghĩ bàn.
a) Nghe Kinh tiêu nghiệp.

Trong nhóm này có cư sĩ Vạn Quả Lạc bị bệnh ma ám trên mười năm. Tuy có bệnh mà ông vẫn đi thường tới Chùa tu tập, nên ông chắc chắn rằng đây là một căn bệnh do ma ám. Ông đã từng thỉnh chư Tăng, đạo sĩ, pháp sư giảng kinh thuyết pháp, ông cũng lạy Đại Bi Sám, Lương Hoàng Bảo Sám, tụng Kinh Du Già, phóng sanh, phóng âm hồn, cúng vong, thí thực cô hồn….Tất cả công đức Phật sự ông đều làm nhưng vẫn không có hiệu quả. Nhưng khi ông nghe giảng kinh A Di Đà, ma chướng trong người ông tự dưng biến mất và ông không bao giờ bị nó quấy rầy nữa.

b) Bệnh liệt được khỏi.

Một người khác trong chúng là nữ cư sĩ trẻ họ Từ tuy bán thân bất toại nhưng vẫn cố đến nghe giảng Kinh Di Đà, dần dần bệnh cô bình phục.

Lúc bấy giờ hai sự việc trên đã được lưu truyền rộng ra. Điều này cho thấy không những niệm Phật, bái Sám trừ được ma chướng mà nghe Kinh thuyết pháp nghiệp chướng cũng được tiêu trừ.

Sau khi giảng kinh A Di Đà xong, Ngài trở về Chùa Nam Hoa. Trong tháng kế đó có một bọn cướp xông vào Chùa có ý cướp phá. Trong đêm khuya chúng đấm cửa và la to rằng chúng là Đại diện của Chánh quyền đến vì việc quân cơ. Ngài đã không chịu mở cửa. Nghe tiếng cướp đến những người trong Chùa vội chạy tìm chỗ trốn. Hai đệ tử của Ngài thì núp dưới gầm giường, chỉ còn Ngài đứng một mình trơ trọi và sau cùng phải mở cưả. Bọn cướp xông vào dơ cao gậy gộc súng ống hùng hổ hỏi:

– Tại sao ông không mở cưả?

– Các ngươi là một bọn cướp, các ngươi đến đây với ý đồ cướp của, không phải để bố thí. Các ngươi nghĩ sao? Nếu các ngươi là tôi, các ngươi có mở cửa không?

Chúng liền chĩa súng vào phía Ngài rồi thét lên:

– Đem tiền ra đây mau!

Đang mặc chiếc áo rách cố hữu, Ngài điềm nhiên trả lời:

– Các ông thấy áo tôi đang mặc đây rồi nghĩ coi tôi có phải là một người giàu có không?

– Không, nhưng…

Chúng nhìn quanh rồi nói thêm:

– Nhưng Đồ đệ của ông chắc là phải có tiền.

– Nếu Thầy không một xu dính túi, hẳn là Trò phải nghèo xác nghèo xơ.

Tuy nhiên bọn cướp vẫn xông xáo lục lọi Chùa, Ngài theo chúng bén gót quở trách:

– Này, các ngươi đừng có lấy đi một thứ nào à nghen!

Sau cùng bọn cướp phải ra về tay không.

 


 

33- Từ biệt Vân Môn

Mùa Đông năm 1948, có một nữ cư sĩ người Mỹ tên Ananda Jennings. Bà thuộc một gia đình Thiên Chúa giáo, vì quyết tâm nghiên cứu Phật pháp và ngưỡng mộ đức hạnh của Lão Hòa Thượng Hư Vân nên tới Chùa Nam Hoa lễ bái Hư Lão. Đúng lúc này Ngài vừa tới Nam Hoa Tự nên ba vị chụp hình lưu niệm. Mùa Xuân 1949 sau khi Đại Giới Đàn viên mãn, bà theo Hư Công ra Bắc đến Đại Giác Thiền Tự ở núi Vân Môn, Huyện Khổng Minh, Tỉnh Quảng Đông và lưu lại đó một thời gian ngắn. Cho đến cuối năm ấy, Ngài từ chức Giám Luật và dồn thời giờ đọc bộ Đại Tạng, ấn bản Long Tạng.

Trong lễ truyền giới năm 1949 tại Chùa Nam Hoa, Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân là Pháp chủ truyền giới sư, còn Ngài là một trong bảy Chứng minh sư. Sau lễ truyền giới, Ngài đã cùng Lão Hòa-thượng đi lên miền Bắc. Rồi Hòa-thượng tiếp tục đi Vân Môn còn Ngài trở về Nam Hoa.

Sau đó Ngài đã một mình từ núi Vân Môn đi đến Chùa Đại Giác trên đường núi cheo leo khúc khuỷu, dài khoảng tám dặm lại có nhiều dã thú và các quái vật hung tợn nhưng Ngài không chút sợ hãi vẫn tiến bước. Trời sập tối, trước mặt Ngài là một đám mây đen nên khó mà nhận ra phương hướng để tiếp tục đi. Đột nhiên Ngài thấy có một nhóm đèn nhỏ hiện ra trong hư nên liền đi theo đốm sáng đó. Ngài đi được chừng một trăm bước thì ánh sáng đó bỗng biến mất và đang lúc định thần nhìn thử xem mình ở đâu, thì Ngài đã thấy mình đang đứng trước cổng Chùa Đại Giác.

Sau khi đảnh lễ Lão Hòa Thượng, khi hỏi về việc cuộc hành trình của Ngài, Hòa Thượng đã không khỏi ngạc nhiên vì trong đêm tối mà Ngài đã tìm ra được lối đi trên con đường hiểm trở này. Hòa Thượng nói;

– Ngay cả ban ngày mà người ta còn dễ bị lạc trên con đường này huống chi nói đến việc đi trong đêm. Con đến đây được trong đêm tối đen như mực này thì thật là lạ.

Sau đó Hòa Thượng đã giao cho Ngài chức Tri chúng tại Chùa Đại Giác ở Vân Môn, cũng như Ngài đã được cử giữ chức này tại Nam Hoa. Lúc bấy giờ vào mùa hè, vì không quen thủy thổ ở đây nên Ngài đã nhuốm bệnh và xin phép Hòa Thượng đi Quảng Châu trị bệnh.

Thấy Ngài quyết chí ra đi, Lão Hòa Thượng cầm tay Ngài ân cần dạy:

– Chuyến ra đi này có lẽ chúng ta không còn dịp gặp lại nữa. Con hãy nỗ lực trên con đường hoằng dương chánh pháp, nhân danh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói lên chánh pháp và hãy thiết lập Đạo tràng để nối tiếp sự nghiệp của Lịch Đại Tổ Sư. Như vậy đường con đi sẽ được chói sáng bằng vô lượng hào quang. Hãy dõng mãnh tinh tấn và vun trồng giới đức đừng cô phụ niềm kỳ vọng ta đặt nơi con.

Muà hè 1949 Ngài đến Chùa Lục Dung ở Quảng Châu mà vị Trụ trì là Lão Hòa Thượng Minh Quán. Hòa Thượng là một vị sư già có bộ râu dài đã từng cùng Ngài dự khóa thiền thất trong suốt mười tuần lễ tại núi Thanh Sơn khi xưa. Vừa đến Ngài được Hòa Thượng cử làm Tri chúng, Ngài đáp ứng, là chỉ lưu lại trong thời gian một tháng và định Trung Thu rằm tháng tám sẽ trở về Vân Môn nhưng nào ngờ hai tuần lễ sau thì con đường đi Vân Môn bị cắt ở Thiều Quan vì tình hình chiến cuộc. Không thể đi Vân Môn được Ngài phải lưu lại Chùa Lục Dung.

Lúc bấy giờ trong quỷ Chùa Lục Dung có năm trăm lạng vàng và ba ngàn Mỹ kim bằng bạc (tương đương năm mươi ngàn Mỹ kim đương thời.) Sau khi Thiều Quan thất thủ, Ngài khuyên phương trượng Minh Quán:

– Tôi đề nghị ba cách sau đây, Thầy xét dùng bất luận cách nào cũng có ích cho Thầy. Một là lấy tất cả tiền bạc hiện có tại Lục Dung và phân cho tất cả trên ba mươi vị Tăng ở đây, đừng kể tôi vì tôi không muốn nhận bất cứ cái gì. Sau khi phân chia, các thầy hoặc rời Chùa hoặc ở lại nhưng nếu họ muốn ở lại thì phải tự túc. Đừng để lại khoản tiền chung nào cả.

Cách thứ hai là đem tất cả tiền đi Hương Cảng gởi tại một ngân hàng ở đó, giữ tiền tại đây chỉ vô ích. Thiều Quan đã thất thủ và Quảng Đông sẽ mất theo. Nếu Thầy gởi tiền tại Hương Cảng thì trong tương lai, khi Thầy đến đó, Thầy có thể dùng được.

Cách thứ ba là đem tất cả tiền đi Hương Cảng, mua một miếng đất và cất một Tu viện rồi di chuyển chư Tăng ở Lục Dung đến đó và Thầy lại làm Phương trượng như cũ. Bất cứ cách nào trong ba cách ấy đều có lợi.

Nhưng sư Minh Quán không có tự tin để thực hành một trong ba cách mà Ngài đã đề nghị, Sư đứng trơ ra nói:

– Nhân quả việc này quá lớn! Tôi không dám di chuyển món tiền này, tôi không đủ tư cách.

Sáng ngày 18, Ngài không đến công phu khuya vì bị đau đầu. Mặc dầu Ngài là một trong ba vị lớn trong Chùa có quyền vắng mặt trong khóa lễ sáng, khi Sư Minh Quán nghe trình rằng Ngài đã vắng mặt, Sư quở Ngài lười biếng. Vì biết rằng có biện bạch với Sư cũng vô ích, nên Ngài chuẩn bị ra đi mặc dầu không có lấy một xu trong túi. Lúc bấy giờ sư Minh Quán van nài:

– Thầy không đi được! Không có Thầy thì tôi biết xoay xở làm sao?

Nhưng Ngài đã quyết định qua Hương Cảng hoằng pháp nơi mà Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo rất thịnh hành, và lối sinh hoạt ở đây rất Tây hóa. Tuy không tiền nhưng Ngài vẫn ra nhà ga và đã gặp hai vị cư sĩ Tạ Khoan Huy và Trần Khoan Mãn cũng đi Hương Cảng, họ liền mua vé cúng dường Ngài. Nhận vé xong Ngài trở lại Chùa Lục Dung để từ biệt Phương trượng Minh Quán. Phương trượng liền sai Thị giả chạy theo nhét vào tay Ngài mười Mỹ kim nhưng Ngài vứt xuống đất nói:

– Thầy đưa tôi cái thứ tiền không thanh tịnh này làm gì?

Đây là lần ra đi cuối cùng của Ngài từ Lục địa Trung Hoa. Ba ngày sau, ngày 22 tháng tám Quảng Đông bị mất. Lão phương trượng và các đệ tử ra ga mang theo nhiều vali và rương nhét đầy vàng bạc nhưng khi họ lên tàu thì tất cả của cải đều bị tịch thu. Mãi sau khi Sư Minh Quán gặp lại Ngài ở Hương Cảng, Sư than rằng:

– Nếu trước kia tôi sớm nghe lời Thầy thì đâu đến nỗi!

– Này Thầy, Thầy có nghĩ rằng Thầy đã mắc một lỗi lầm lớn về nhân quả hay không? Nhưng Thầy có gì đâu mà lo? Thầy còn bộ râu của Thầy mà..

 

Ngài từng nói: Bất cứ ai cũng có thể giác ngộ nhưng hãy rủ bỏ tất cả những gì mà bạn không rủ bỏ được, và rủ bỏ một cách thật mạnh mẽ.

Từ đó Ngài lưu lại Hương Cảng, vì thời thế loạn lạc không thể trở về núi Vân Môn thân cận Lão Hòa Thượng nhưng Ngài vẫn thường thơ tín qua lại vấn an và còn tận lực trợ giúp Lão Hòa Thượng trùng tu Thiền Tự.

Năm 1958 Hư Công tự tay biên thảo, giải thích ý kệ trong quyển “Tăng Đính Đạo Ảnh Phật Tổ.” Đây là một cống hiến giá trị cho Phật giáo. Đồng thời Hư Công cũng gởi cho Ngài một lá thơ như sau:

“Độ Luân Nhân giả huệ giám:

Đã lâu xa cách, gần đây Nhân-giả hoằng pháp độ sanh ra sao? Mới đây tôi vừa viết thêm một bộ “Phật Tổ Đạo Ảnh.”  Xin gởi tặng Nhân-giả tham khảo lưu niệm, hy vọng cùng được lợi cho mình và lợi cho người.

Nay trân trọng,

Pháp Hỉ,

Hư Vân cẩn bái. Ngày 2 tháng 12 năm 1958”

 


 

34- Tâm huyết của hai Vị Cao Tăng.

 

Hòa Thượng Lai Quả và Hòa Thượng Hư Vân tại Thượng Hải (1952)

Hai vị Đức độ cao Tăng của Thiền tông Trung Hoa thời cận đại là Lão Hòa Thượng Hư Vân và Lão Hòa Thượng Lai Quả. Chúng ta đã không có duyên trực tiếp thọ nhận những lời dạy từ hai Ngài nhưng qua thơ của Hư Công và Lai Công gởi đến cho Sư phụ, chúng ta có thể cảm thọ được phong cách và đạo hạnh của nhị Lão Hoà Thượng.

Dưới đây là một bức thơ Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân gởi cho Ngài năm 1955:

“Độ Luân Nhân-giả huệ giám,

Hôm qua Quảng Diệu lên núi mang theo nhiều thẻ vàng lá cùng với số tiền một ngàn năm trăm HK (tiền Hồng Kông) mà Nhân-giả đã có lòng nhân ái trợ giúp. Vậy chi khoản cần thêm để hoàn thành công trình đúc tượng Phật A Di Đà mà dạo trước Nhân-giả đã phát nguyện là một ngàn hai trăm chín mươi HK. Vậy xin Nhân-giả khi nào thuận tiện, nhớ chuyển giao số còn lại này cho Quảng Diệu. Hiện nay Thiền Viện Chân Như đang tiến hành việc trùng tu và tình trạng tài chánh đã kiệt quệ, rất mong Nhân-giả phát tâm ủng hộ. Hy vọng Nhân-giả lãnh đạo Kiều bào đến núi hành hương một chuyến. Đây là sự trông mong của tôi.

Pháp Hỉ,

Hư Vân Ngày 23 tháng 5 năm 1955.

Núi Vân Cư, Chân Như Thiền Viện.”

Để phúc đáp những bức thơ cảm ơn của Đại lão Hòa Thượng Hư Vân về những đóng góp cho Tu viện ở Vân Cư, Ngài viết:

“Con đã ghi nhận mối quan tâm sâu xa của Hòa Thượng cho thế hệ mai sau. Sự khiêm cung tự coi nhẹ bản thân mình để tùy thuận chúng sanh thật là vĩ đại. Tâm từ vô biên, đạo hạnh tuyệt đối không thiên vị của Hòa Thượng đã khiến cho nhiều người hoan hỷ tự nguyện hộ pháp Ngài.”

Đang lúc Trung Hoa sắp giải phóng, Ngài viết thơ thỉnh Thiền sư Lai Quả sang Hương Cảng:

“Lai Quả Hòa Thượng từ bi,

Vì Phật pháp hiện đang thắm sâu trong huệ mạng của Ngài, nên con mong Ngài hoan hỷ hộ trì Phật pháp chính như bảo trọng thân mạng Ngài. Con hết lòng tôn kính cuộc đời bảo vệ đạo pháp của Ngài. Hiện nay Phật pháp trong thế nguy cơ, con nguyện cầu Ngài không bị tổn hại dù đến một mảy lông. Khi xưa Nhị Tổ chặt tay để cầu pháp, Lục Tổ vì bảo vệ Phật pháp nên ẩn tích trong nhóm thợ săn mười sáu năm trường. Con sẽ an tâm và không còn khắc khoải lo âu nếu Ngài noi gương các Tổ và đến Hương Cảng, xem như chuyến đi này không phải là vì sợ sệt mà chính là để bảo vệ Phật pháp và quảng độ chúng sanh

Xin nắm lấy thời cơ.

Pháp an,

An Từ cẩn bái.”

Ít lâu sau Ngài Lai Quả hồi âm:

“An Từ Đại sư quang giám,

Hôm qua tôi kính cẩn nhận được thơ của Đại sư. Một khi Đại-pháp đã được hoàn toàn hoằng hóa và hướng thượng, thì sá chi phân biệt xứ sở?

Khi thọ mạng con người chỉ còn dài khoảng mười năm, tôi dự định sẽ trở lại thế giới Ta-bà này để quảng tuyên Đạo-tràng Pháp-khí, gieo trồng lối sống Tu viện làm trường cột. Là con cháu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ cần chân thật tu hành, nào có sá chi khi phải đương đầu với ngại hiểm. Xin Ngài an tâm. Sau cùng kính chúc Ngài pháp đạo an.

Lai Quả thủ bút.”

Từ nội dung thơ của Hòa Thượng Hư Vân, chúng ta thấy rõ Ngài không quản khó nhọc, khổ tâm lo trùng tu các đạo tràng, tu viện cùng bảo hộ Tăng-đoàn. Thơ của thiền sư Lai Quả đã thể hiện ý chí vì pháp quên thân. Chính hai vị Đại Sư thiền tông này đã phục hưng Phật giáo với tinh thần đại vô úy, khiến nhiều người khâm kính.

 

Phần II: Tùy Duyên Tại Hương Cảng

 


 

35- Tham thiền trong Động Quán Âm.

Cuối năm 1949 nhân vì Thiều Quan giải phóng, không trở về Vân Môn được, nên Ngài đi xe lửa từ Quảng Châu tới Hương Cảng. Tới Hương Cảng được một thời gian, Ngài đi thẳng qua Thái Lan tham gia phái Tăng-già và quán sát công cuộc truyền bá Phật pháp ở phương Nam, đồng thời tham cứu học hỏi những điểm khác biệt giữa Nam, Bắc Tông. Ngài tạm trú tại chùa Long Liên khoảng hơn bốn tháng rồi trở về Hương Cảng. Trên thân vẫn với bộ y phục cũ mèm, lại không có một đồng trong túi. ít lâu sau Ngài gặp một nam cư sĩ, người này biết có một cái động ở núi Phù Dung, Toàn Loan phía Bắc Hương Cảng thích hợp cho Ngài tu hành, nên mời Ngài về động an tu. Hang động là một cái lỗ nhỏ tối tăm nằm ngay mặt tiền của triền núi. Khi vào động phải cúi mình sát xuống, phía trong có một phiến đá lớn bằng phẳng là nơi Ngài dùng để ngồi thiền. Ngoài ra, trong động tuyệt nhiên không có giường, bàn ghế hay dụng cụ nấu ăn.

Guanyin Cave, Furong Mountain, Hong Kong

Tham thiền trong Động Quán Âm

Có lần Ngài đã ngồi thiền theo thế kiết già khoảng một trăm giờ; đến lúc muốn đứng dậy, thì hai chân của Ngài không thể động đậy được. Có lẽ vì trong động quá ẩm thấp nhưng Ngài không vì đó mà lo sợ, Ngài liều bỏ thân mạng, coi thường sống chết và tiếp tục ngồi trở lại thế kiết già, tham thiền suốt ngày đêm thêm hai tuần lễ nữa. Sau đó khi xả thiền, thì hai chân của Ngài hoạt động lại như xưa. Kể từ đó, vì phải duy trì thân mạng cho sự tu hành nên vào mỗi buổi sáng Ngài xuống núi đến chùa Đông Phổ Đà gần bên để xin cơm. Ngài dành thời giờ còn lại, bế quan trong động nghiêm trì hành thiền.

Sau đó không lâu, Ngài di chuyển tảng đá lớn bên ngoài chuẩn bị dựng một am tranh ở đó. Có một Sư biết được việc này bèn nói với vị Trụ trì chùa Đông Phổ Đà rằng: Thầy An Từ ỷ mình có tiền nên muốn cất am trên núi. Ngay hôm sau đó khi Ngài xuống núi để xin thực phẩm thì liền bị từ chối. Từ đó Chùa đã cắt đi phần ăn của Ngài. Ngài chỉ biết lặng thinh và trở lên núi tiếp tục hành thiền thêm hai tuần lễ nữa. Bấy giờ Chùa Đông Phổ Đà là nguồn cung cấp thực phẩm duy nhất của Ngài. Ngài cũng chẳng hề than van với ai về điều này.

Trong làng dưới núi Phù Dung có một Ông cư sĩ họ Trần khoảng năm mươi tuổi, dáng người nhỏ bé. Chân ông bị chó cắn đã qua ba tháng nhưng vết thương cứ làm mủ không lành. Nhiều y sĩ và lương y chuyên môn đã cố gắng giúp Ông chữa vết thương nhưng chẳng có hiệu quả gì. Rồi trong một đêm kia ông đã ba lần liên tiếp mơ thấy giống nhau. Ông mơ thấy Ngài đang ngồi thiền trong động và thấy Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát đến bảo rằng: “Ngày mai nếu con mang thức ăn cúng dường pháp sư An Từ đang tu trên núi Phù Dung trong động Quán Âm thì vết thương nơi chân con sẽ được lành.”

Sáng hôm sau, theo lời dạy trong giấc mơ Ông bèn mua hai mươi ký gạo và gom góp được bảy mươi đồng rồi mang lên núi. Vì chân đau nên ông leo núi thật khó khăn. Khi bà đi ngang cửa sau chùa Đông Phổ Đà và bắt đầu đi theo con đường mòn dẫn lên động Quán Âm, thì một vị Sư nhận biết ông là một cư sĩ Hộ pháp đang mang đồ cúng dường lên núi, nên Sư đón tiếp niềm nở. Ông vừa thở hổn hển vừa hỏi:

– Bạch Thầy, Thầy An Từ có ở đây không ạ?

– Tôi là người quản lý vùng này, bà hãy để những phẩm vật cúng dường lại đây. Tôi sẽ giúp bà phân phối cho các thầy thật chu đáo.

– Thầy trông không giống như vị Sư mà tôi thấy trong mộng. Ngài Hộ pháp Vi Đà Tôn Thiên dạy tôi cúng dường cho Pháp Sư An Từ và tôi chỉ xin cúng cho Sư đó thôi.

Nghe lời này Sư kia nổi giận la:

– Tôi là quản lý ở đây, ai đến đây cúng dường đều phải giao cho tôi hết.

– Nhưng Thầy không phải là vị sư mà tôi thấy trong mơ. Tôi phải cúng cho Sư ấy, không phải cho Thầy.

Hai bên to tiếng qua lại với nhau. Nghe tiếng ồn ào bên ngoài, Ngài liền bước ra khỏi động xem xét.

Vừa chợt thấy Ngài, ông Trần vui mừng thốt lớn:

– A! Đây chính là Thầy An Từ mà tôi thấy trong mơ.

Thấy họ dằn co không thôi, Ngài hòa hài bảo ổng:

– Ông cúng dường cho tôi hay cúng dường cho các thầy khác đều không có gì khác biệt cả. Nếu ông muốn cúng dường cho tôi cũng được, nhưng bây giờ lại có thêm một Pháp sư nữa thì bà nên chia thành hai phần vậy.

Ngài bèn phân gạo và tiền thành hai phần.

Nhờ sự cúng dường này, mà Ngài thoát cơn đói kém và chân của ông Trần cũng được lành. Vì được cảm hóa bởi lòng từ bi của Ngài, từ đó Ông trở nên chăm chỉ học hỏi Phật pháp và rất thích nói Pháp đến nỗi người ta đặt cho ông cái biệt hiệu là “Bổn Địa Pháp Sư” (hay Pháp Sư của vùng).

Vừa lúc đó, có Cư sĩ Trần Thụy Xương thỉnh Ngài ra Hương Cảng lập Đàn Thông Thiện để giảng Kinh. Cũng nhân vì vị Sư láng giềng chưa giải tỏa được sự bất bình, Ngài quyết định rời khỏi động Quán Âm.

Một nữ cư sĩ khác tên là Dư Quả Mãn thường hay lui tới động Quán Âm để viếng thăm Ngài. Mỗi lần đến bà đều thỉnh nước suối ở động uống, vì nước này có vị rất ngọt như nước Cam-lồ của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhưng lần sau cùng khi bà lên núi đảnh lễ Ngài, bà đã thất vọng vì Ngài đã đi, và hai con suối dẫn đến hai hồ nước ở hai bên Động Quán Âm cũng từ đó mà khô cạn đi.

 


 

36- Đức độ hàng phục tà ma.

Ông Trần Thụy Xương, chủ công ty Đại Xương nổi danh ở Hương Cảng có cô cháu tên Trần Kiến Khai, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Ông bà Trần nuôi dưỡng thương cô như con ruột. Khi Trần Kiến Khai đến tuổi lập gia đình, ông bà lo lắng tìm người tương xứng cho cô. Sau cùng họ gả cô cho một gia đình họ Phan ở Cửu Long. Kết hôn chẳng bao lâu cô khóc tang chồng. Do thương tâm thái quá nên tinh thần bấn loạn. Cả ngày cô nói lảm nhảm nhí và có những cử chỉ như điên dại.

Ông bà Trần thấy cháu gái lâm bệnh như vậy, ruột đau như cắt, hoài nghi là do tà ma nhập vào, cho nên đã thỉnh nhiều Thầy đến nhà để tụng kinh, niệm chú cho Cô. Họ hy vọng sẽ đuổi con ma ra khỏi cô cháu, và tiêu trừ oan khiên đời quá khứ, giúp cô chấm dứt tình trạng điên cuồng. Nhưng trải qua năm, sáu ngày vẫn không có kết quả. Trong các Sư đó có một vị sớm đã biết rõ về Ngài nên nói với ông bà Trần nên tìm đến Pháp sư Độ Luân cầu cứu.

Ngày nọ đúng lúc Ngài vừa rời động Quán Âm đến Tánh Viên có việc cần. Ông Trần nghe biết vội đến tìm Ngài.

Ngài nghĩ rằng đối với loài ma này một mình Ngài không đủ năng lực để nhiếp phục nên từ chối. Ông Trần đã không nản chí, kiên quyết khẩn cầu Ngài một lần nữa vì cháu ông mà giải nạn. Thấy ông kiền thành nên Ngài nhận lời đến nhà quán sát bệnh tình cô cháu.

Khác biệt với các Sư đang ở trong phòng khách, y áo chỉnh tề với nhiều ảnh tượng, pháp khí, hương đèn, hoa quả… Ngài đã không chú trọng đến các hình tướng bên ngoài đó. Ngài vẫn mặc chiếc áo rách cố hữu ngồi lặng yên trên ghế trong phòng bệnh nhân. Ngài không tụng kinh cũng không lớn tiếng trì Chú. Khoảng nửa giờ sau bệnh nhân đứng dậy chạy đến Ngài, quỳ xuống cầu sám hối và xin Ngài tha tội. Ngài liền bảo ma rằng: Ngươi không được nhập vào bất cứ người nào để tác quái nữa nghe chưa? Ma kia chấp nhận và bỏ đi. Từ đó thần trí cô Trần được khôi phục, ngày một mạnh khỏe, dung mạo đoan nghiêm. Ông bà Trần thấy thế mới biết rằng duy chỉ có bậc tu hành chân chánh mới đủ oai đức để hàng phục tà ma. Vì vậy toàn gia đình họ xin Quy y Tam Bảo và tôn Ngài làm Thầy.

 


 

37- Đá tuôn nước cam lồ.

Năm 1951 Ngài từ Thái Lan trở về Hương Cảng, và được tín đồ Phật giáo nơi đây rất sùng kính nên thỉnh Ngài đến Đàn Thông Thiện giảng Kinh Địa Tạng. Ngài đã giảng thuyết suốt hơn bốn mươi ngày. Mỗi ngày đều không dưới một trăm người đến tham dự. Thượng tuần tháng chạp, khi khóa giảng kinh Địa Tạng kết thúc, có nhiều vị cư sĩ bàn thảo với nhau về việc tìm mua một khoảng đất cúng dường để Ngài cất Tịnh xá.

The Master in a Group Portrait
Chẳng bao lâu họ đã mua được một mảnh đất hoang trên vùng đất cao, thuộc làng Mã Sơn, Tây Loan Hà, Hương Cảng. Tuy vùng đồi núi khá cao đường xá lại quá xa xôi. Nhưng mỗi tấc đất ở Hương Cảng như một tấc vàng, vì vậy việc tìm được mảnh đất này không phải là chuyện dễ. Duy chỉ có một việc không may là trên triền núi này lại không có mạch nước nào, nên việc dùng nước ở đây là cả một vấn đề nan giải.

Dân cư vùng phụ cận phải dùng đường mòn xuống núi, rồi tiếp đi trên đường lộ đến khu phố chợ để lấy nước, nguồn nước này do thành phố Hương Cảng tiếp tế. Lấy nước xong họ phải gánh trở lên núi và phải leo lên cả ba trăm bậc tam cấp mới đến nơi. Nhiều người dùng nước mà chỉ có một nơi cung cấp, nên họ phải sắp thành những hàng rất dài để chờ đến phiên. Thảo nào dân chúng ở đó khi nghe bàn về vấn đề “nước”  là họ sợ thất sắc.

Lúc khởi công xây cất Chùa, các vị cư sĩ đã trình lên Ngài vấn đề hiếm nước nhưng Ngài chẳng chút màng lo mà chỉ để tâm vào việc kiến dựng tu viện. Ngài đã không loan tin quảng cáo xin cúng dường, không phan duyên với các cư sĩ giàu có, và cũng không đến từng nhà để quyên góp; vì làm như vậy coi như lợi dụng sự hưng thịnh của dân Hương Cảng là đi ngược lại với những Tông chỉ mà Ngài đã từng dạy cho các đệ tử:

Dù chết vì rét, không phan duyên
Dù chết vì đói, không xin xỏ
Dù chết vì nghèo, không cầu cạnh
Tùy duyên nhưng không đổi lòng
Không đổi lòng nhưng vẫn tùy duyên
Ba tông chỉ ấy, ta phải giữ gìn

 

Xả thân vì Phật sự
Tạo mạng vì bổn sự
Chánh mạng vì Tăng sự
Gặp sự, rõ lý
Rõ lý, hiển sự
Lưu hành mạch phái Tổ sư đã truyền.

Western Bliss Gardens

Tây Lạc Viên

Tất cả công trình xây cất đều do lòng tự nguyện phát tâm của tín chúng, chủ yếu là nhờ đạo lực quyết tâm dõng mãnh của Ngài, luôn muốn cho Đạo-tràng này sớm được đơm hoa kết trái. Ngài đã trang trí khung viên Chùa với những cây thông non nho nhỏ, những hàng đu đủ sai trái và những rặng trúc xinh xinh. Một đạo tràng thanh tịnh đã được hoàn thành vào cuối năm 1951, Ngài đặt tên là “Tây Lạc Viên”. Năm sau đó, lễ khánh thành Chùa Tây Lạc Viên cùng Lễ An vị Tây Phương Tam Thánh đã được tổ chức đúng vào ngày Phật Đản mồng 8 tháng 4.

 

 

 

The Venerable Master at Western Bliss Gardens
Sau khi dọn về Chùa mới, Ngài phát giác ra một tảng đá có khe nứt ở phía sau Chùa. Ngài bèn cắm vào đó một nhành dương rồi cầu nguyện chư Phật, Bồ Tát gia hộ ban cho một mạch nước nơi khe đá này. Thế rồi mỗi ngày ở bên tảng đá bể, Ngài chân thành khẩn thiết trì chú Đại-bi. Chẳng bao lâu mặt đất nơi ấy trở nên ẩm ướt và sau đó một mạch nước từ khe nứt của tảng đá phun ra, nước chảy ra vừa ngọt vừa sạch thành ao nước đầy. Ngài liền nhờ người xây hồ chứa nước ngay nơi đó. Từ đó nạn khan hiếm nước đã được chư Phật, Bồ Tát từ bi giải quyết.

Khi nghe nói ở Chùa có một hồ nước nhiệm mầu, mọi người trong vùng thảy đều kinh ngạc. Họ đã không tưởng tượng ra được là làm sao mà nước lại có thể chảy ra từ trong một tảng đá khô cằn tại một hòn núi hoang dã này? Họ vốn không tin Phật pháp, nhưng khi thấy rõ sự việc này, họ mới bắt đầu thâm tín ngôi Tam Bảo.

 

Vào dịp Lễ Quán Thế Âm thành đạo ngày 19 tháng 6 năm 1959, Ngài tổ chức Pháp hội trong bảy ngày tại chùa Tây Lạc Viên, có đến vài trăm người đến tham gia. Khi ấy trời hè nóng bức, chánh phủ Hương Cảng ra lệnh tiết kiệm việc dùng nước. Mỗi ngày chỉ mở nước công cộng ba giờ nên nhân dân Hương Cảng đều than van khổ. Vậy mà hồ nước tại Chùa Tây Lạc Viên vẫn đầy tràn với mạch nước chảy ra không dứt, đủ sức cung cấp nước cho cả trăm người dùng. Đây là một kỳ tích thật không thể nghĩ bàn.

 


 

38- Vị “A La Hán” sống

Vào mùa hè sau hai năm kiến lập Chùa Tây Lạc Viên vì muốn tạo duyên tu tập cho đa số Phật tử còn sơ cơ nên Ngài tổ chức đả thất Quán Âm. Sáng sớm ra lúc Lễ Phật ai nấy đều thấy có một cây gỗ giống như thanh kiếm để trước bàn thờ Phật, có người hiếu kỳ hỏi Ngài:

– Sư Phụ! Đó có phải là thanh kiếm gỗ không ạ?

– Không phải kiếm gỗ mà là cây Hương bản dùng để đánh người nào không giữ quy luật và cũng đánh luôn những người ngủ gục biếng nhác ở trong Chùa.

Nghe xong họ nghĩ rằng: Cây hương bản dày như vậy nếu bị đánh chắc là đau lắm, nên thấy ớn vô cùng rồi nghĩ: Không biết ai là người đầu tiên sẽ thử mùi cây hương bản mới này đây? Khóa Quán Âm Thất đã sắp mãn mà cây hương bản vẫn còn nằm yên ở chỗ cũ. Đến ngày thứ bảy khi Chùa làm Lễ Đại hồi hướng, mọi người chợt thấy Ngài cầm cây hương bản đặt ngang tầm mắt rồi đi ra vườn chùa. Ai nấy đều ngơ ngác đưa mắt nhìn theo. Họ thấy có một vị Tăng tuổi trung niên vừa lên núi. Khi thấy Ngài vị này liền quỳ xuống dập đầu sám hối. Mọi người thắc mắc muốn biết nguyên cớ. Sau đó Ngài bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho đại chúng như sau. Vị Tăng đó vốn tên là Vô Tấn khi còn ở núi Linh Nghiêm, Tô Châu đã tự xưng là “A La Hán sống”  có thần thông, và có thể chữa bệnh cho người. Lúc bấy giờ có rất nhiều người tin tưởng, tôn kính và cúng dường cho ông ta.

Có lần Ngài hỏi ông:

– Ông có tài gì để được coi là một vị A La Hán?

– Tôi chữa bệnh cho người.

– Ồ! Ông chữa bệnh cho người nhưng ông phải tự trị bệnh cho chính ông mới phải, mà ông đã tự chữa cho ông chưa?

– Tôi đau bệnh gì?

– Bệnh cầu danh và trong tương lai ông sẽ mang thêm bệnh cầu lợi.

Rồi Ngài cảnh cáo ông:

– Nếu định lực không kiên cố mà đi chữa bệnh cho người, lại thọ người cúng dường thì nhất định sẽ bị đọa lạc!

– Đại sư An Từ, nếu tôi bị đọa lạc xin Ngài ra tay cứu tôi với!

– Tôi sẽ giúp nếu ông bị đọa, nhưng cốt yếu vẫn chính nơi ông, ông phải tự cứu lấy cho ông thôi!

Chẳng bao lâu sau Ngài rời khỏi Trung Hoa đến Hương Cảng và chợt gặp lại ông, nhưng lúc đó ông đã hoàn tục và lập gia đình; Người vợ chính là một vị đại Hộ pháp lâu năm cho ông khi xưa. Cho nên thành quả bao năm tu hành khổ cực của ông, nay bổng như chim kia tung cánh bay xa. Khi gặp lại Ngài, ông ấy cảm thấy thật là hổ thẹn nên lại phát tâm xuất gia. Nhưng chưa đến được nửa năm ông hoàn tục. Sau này vì hoàn cảnh bức bách ông lại cầu Ngài cho phép xuất gia lần thứ hai. Ngài cũng giúp đỡ, khuyên tấn ông ta. Thế nên ngày đó ông Sư này quyết định tìm đến Tây Lạc Viên để cầu sám hối trước Ngài. Một thời gian sau, nghe nói ông ta lại tiếp tục bước trên con đường lầm lạc và cũng lại hoàn tục.

Chúng sanh thoạt điên điên, đảo đảo vừa sanh lên trời liền rơi xuống đất. Nếu ai có thể phát Bồ-đề tâm mãi không thối chuyển thì nhất định sẽ thành Phật đạo, không nghi ngờ chi cả!

 


 

39- Lê Mẫu cầu độ.

Chùa Tây Lạc Viên trở thành một đạo tràng thanh tịnh và tín chúng ngày một thêm đông. Để thuận theo sự tu tập của Phật tử, chùa thường cử hành pháp hội, thiết lập bài vị vãng sanh và truyền U-minh giới ( truyền giới cho người quá vãng.)

Khi Chùa chuẩn bị hành Lễ truyền U-minh giới, đệ tử quy y ngài là Lê Quả Hợp sớm đã đại diện tổ tiên ghi danh để thọ giới U-minh, nhưng lúc đó lại quên mất ghi tên mẹ ông. Sau đó ông ta theo mọi người xuống núi trở về nhà. Trên đường về, bỗng nhiên chân ông đau nhức dữ dội đến nổi muốn nhấc chân bước tới thêm một bước nữa cũng không được. Nhưng khi ông quay lại để trở lên chùa thì đi được như thường, không đau đớn chi cả, mặc dầu phải leo dốc núi và ông thử vài lần đều y như thế cả. Cuối cùng ông chỉ còn cách là quầy đầu đi trở lên chùa. Vừa thấy Ngài, ông liền thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Ngài cười đáp:

– Có phải con đã quên thay mặt mẹ con để ghi danh thọ U-minh giới không?

Lê Quả Hợp nghe thế, lòng thầm biết ơn Ngài đã biết ra sự sơ sót của ông nên mau mắn ghi tên cho mẹ cầu thọ U-minh giới. Sau đó ông xuống núi trở về nhà được dễ dàng không hề hấn gì.

 


 

40- Vịt đến nghe Kinh.

Mùa Hè năm 1952 tại chùa Tây Lạc Viên, Ngài giảng Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn. Thính chúng tham dự lãnh hội được nhiều điều lợi lạc. Một hôm khi Ngài giảng đến đoạn cuối của phẩm Phổ Môn, chợt có một con vịt nhỏ từ bờ giậu phía ngoài cửa chùa lẻn qua hàng rào, đủng đa, đủng đỉnh băng qua sân vườn và bước vào nằm trước cửa chánh điện. Nó im lặng và chăm chú giống y như là một người đang nghe pháp vậy. Có người thấy vịt nằm chấn lối đi nên dùng quạt đuổi nó, vịt đi không lâu rồi trở vào, họ lại xua nó ra. Vịt ta ỏng ảnh bỏ đi, một lát rồi lại trở vào, cứ vài lần như thế. Cuối cùng vịt ta trở vô ngừng ngay ở cửa chánh điện, kỳ này nhất định không chịu đi.

Khi biết nguyên nhân của tiếng ồn náo phía trước cửa, Ngài bảo đại chúng đừng đuổi vịt nữa rồi truyền Tam Quy cho nó trước sự ngạc nhiên của mọi người. Khi Ngài thuyết Tam Quy xong, vịt bỗng đứng dậy lạch bạch đi thẳng vào chánh điện nhiễu vòng quanh bồ đoàn về phía phải, rồi cúi đầu nằm xuống ra dáng như đảnh lễ. Đợi mãn khóa giảng vịt ta mới rời khỏi pháp hội.

Như lời Phật thuyết, “Chúng sanh đều có Phật tánh,” câu chuyện này là một chứng minh cụ thể vậy.

 


 

41- Lòng thành thông Thánh.

Lúc Ngài từ Chùa Nam Hoa đến Hương Cảng không bao lâu thì có một nữ Phật tử thuần thành là La Quả Minh đã dẫn ba đứa con đến quy y Ngài. Mùa Thu năm 1952, Bà La vì quá phiền muộn nên lâm bệnh nặng. Con gái bà là Hoàng Quả Tùng kể lại câu chuyện như sau:

“Mùa Thu năm Nhâm Dần, mẹ tôi không may gặp phải bao chuyện không như ý, nên mắc trọng bệnh, muôn phần thống khổ. Bà trở nên gầy yếu xanh xao đến nổi không thể bước xuống giường. Chúng tôi mời nhiều bác sĩ tới khám nhưng vẫn không chữa trị được. Sau một thời gian, các bác sĩ bảo rằng mạng sống của mẹ tôi chỉ còn kéo dài thêm vài đêm nữa thôi.

Nghe tin này mọi người trong nhà ai nấy đều lo âu, buồn khổ, riêng tôi càng thấy xót xa. Khi ấy tôi chỉ biết lạy cầu chư Phật, Bồ Tát gia hộ. Một hôm tôi đang lạy xuống, bỗng có luồng ánh sáng chiếu trước mắt, rồi tôi thấy có một vị Pháp sư mặc áo cà sa, ngồi kiết già, nhìn kỹ ra thì chính là Sư Phụ tôi. Vừa kinh ngác vừa mừng rở tôi vội vàng niệm Phật. Sau đó chẳng bao lâu sau mẹ tôi thoát khỏi cơn hôn mê, nhưng thần sắc bà vẫn chưa hẳn phục hồi. Sau đó tôi tôi chợt nhớ đến Sư phụ nên tìm người cùng tôi đến diện kiến Ngài. Khi thấy Ngài tôi vụt khóc và thỉnh cầu Ngài cứu cho mẹ tôi. Ngài bảo tôi: Bệnh của mẹ con Ta đã biết trước rồi, con hãy mau trở về nhà chí tâm niệm Phật, Phật và Bồ Tát nhất định sẽ gia hộ cho mẹ con.

Sau khi bái tạ Sư Phụ, tôi trở về nhà và suốt đêm đó tôi đã không ngủ; y lời Ngài dạy mà chuyên tâm niệm Phật, cầu xin chư Phật cứu độ. Sáng hôm sau, mẹ tôi cảm thấy khỏe ra rất nhiều, tinh thần cũng dần dần khôi phục. Qua sự việc này khiến tôi suy nghiệm được Phật pháp linh cảm thật không thể nghĩ bàn.”

 


 

42- Ma đến cầu giới

Hồng Kông trong vài năm gần kề thường bị chấn động không an, phần vì thiên tai, phần vì nhân họa đã không ngừng phát khởi. Truy nghiệm điều này cho chúng ta biết đây cũng chính do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm mà thành.

Vì muốn cứu vãn vận kiếp này, Ngài đã mượn đạo lực của đại chúng nguyện cầu cho chúng sanh thoát khỏi ách nàn. Thế nên nhân ngày Phật Di Đà Đản Sanh, 17 tháng 11 năm 1952, Ngài cử hành pháp hội niệm Phật bảy ngày, mỗi ngày từ 8 giờ sáng đến 7 giờ chiều. Vì Chùa nằm trên núi nên người ta phải vất vả và tốn nhiều thời giờ mới đến nơi, tuy vậy họ vẫn tới tham dự đông đảo.

Đến chiều tối ngày thứ năm của khóa Phật thất, lúc thời hương thứ sáu vừa tàn, bỗng nhiên có một con quỷ nhập vào bà Trương Quả Vũ rồi bà quỳ xuống cầu khẩn Ngài truyền Tam quy, Ngũ-giới. Ngài chấp nhận lời thỉnh cầu, lúc truyền giới vừa xong thì bà Trương cũng vừa tỉnh lại. Những người tham gia pháp hội nức nở khen: Quỷ cũng biết cầu giới, chẳng lẽ con người không biết tu hành sao?

 


 

43- Tín giả được cứu.

Cư sĩ Lý Quả Viễn là một cảnh sát viên ở Hương Cảng, ông có cô con gái tên Lý Điệp Nghiên. Một ngày nọ, cô bé vì vô ý bị vấp ngã. Lúc đầu cô không cảm thấy có gì khác thường nhưng qua vài ngày sau, cô phát sốt nặng, và bị đau dữ dội nơi bắp chân. Cha mẹ cô nghi nguyên nhân của bệnh này là do cô trợt té nên cấp bách đem cô đến bác sĩ chuyên sửa trật xương gân để trị liệu. Sau khi chuẩn bệnh Bác sĩ Lý Tử Phi cho biết bệnh đau chân của cô không phải vì trật chân, mà bị mọc ung nhọt nên hành nhức nhối. Trở về nhà ông Lý lại mời thêm bác sĩ khác đến trị nhưng vẫn không có kết quả.

Sau đó bà Lý được người giới thiệu bèn cõng con đến chùa Tây Lạc Viên cầu diện kiến Ngài. Ngài nói rõ với bà là Ngài không rành về y dược nên không có cách chữa trị. Bà Lý vẫn không nản lòng tiếp tục đến thêm hai lần nữa xin Ngài cứu giúp, Ngài vẫn một mực từ chối. Lần thứ ba, Lý Quả Viễn cùng vợ đến Chùa quỳ lạy khẩn cầu Ngài cứu cho con họ. Ngài thấy ông bà thật thành tâm nên cùng họ cầu Phật, Bồ Tát gia hộ. Qua một tuần sau, bệnh của cô bé chợt nhiên lành hẳn và chân của cô bình phục như xưa. Vì cảm thọ được đức hạnh của Ngài cùng oai lực hộ trì của Phật, Bồ Tát nên cả năm người trong gia đình đều xin Quy y Tam Bảo làm đệ tử Ngài. Sau đó Ngài đã dạy họ chuyên tâm niệm Phật.

 


 

44- Phật lực vô biên.

Mặc dầu Ngài đã nghiên cứu nhiều tông phái Phật giáo, cùng tham thiền thoại đầu, nhưng đối với chư đệ tử quy y Ngài, Ngài luôn dạy họ niệm “Sáu chữ Hồng-danh” Vì pháp môn niệm Phật A Di Đà đều thích hợp cho mọi người, không kể thông minh hay ngu đần. Điều quan trọng là hành giả thường phải xưng niệm đến nhất tâm bất loạn thì chắc chắc lúc lâm chung sẽ được vãng sanh Tây phương Cực Lạc. Đối với người học Phật, đây là con đường tắt, dễ nhất, hữu hiệu nhất, không nghi ngờ gì cả.

Quả Thiện là đệ tử kiền thành quy y Ngài đã lâu. Ngày nọ bà đến Chùa lễ Phật, sau khi đảnh lễ Ngài, bà khóc kể rằng chồng bà là La Khang Duệ bị bệnh lao phổi đã đến thời kỳ cuối cùng và các bác sĩ đều tuyên bố là không còn phương chước. Nghe thế Ngài an ủi bà ta chớ quá ưu sầu, và dạy bà trở về khuyên chồng nên chí tâm niệm Phật. Nếu thọ mạng của ông ta chưa hết, thì sẽ nương Phật lực khiến ông lành bệnh; Còn nếu kiếp số của ông đã mãn, mà ông chân thành niệm Phật A Di Đà thì ông sẽ được vãng sanh. Ngài còn giảng cặn kẽ cho bà đạo lý “Thiên lý nan trắc, nhân mạng vô thường”  nghĩa là Trời cao thật khó đo lường, cũng như mạng sống con người rất đổi vô thường vậy.

Ông La nghe vợ thuật lại lời dạy của Ngài, ông nhận thấy rất có ý nghĩa, liền bảo bà đến cầu Ngài truyền giới Quy-y. Sau khi quy y được ba ngày, ông mơ thấy Ngài đến nhà, đầu đội chiếc mão giống như mão của đức Điạ Tạng và đắp cà sa đỏ, cùng với nhiều vị Bồ Tát, pháp tướng trang nghiêm; và Ngài bảo ông: Bệnh của con sẽ khỏi, con chớ quá ưu phiền!

Ngoài chứng bệnh lao phổi, ông La còn bị bệnh bao tử, bụng bị thủng phình trướng ra. Chỉ riêng chứng bệnh phổi của ông đã làm cho gia đình ông điêu đứng rồi, nên ông dấu người trong nhà chứng bệnh bao tử này. Khi thức giấc, bao tử ông tiết ra chất mặn không ngừng và mửa ra nhiều máu đọng. Kết quả là các bướu làm sưng đã được tống ra. Sau biến cố này ông càng tin tưởng Phật pháp và tinh tấn hơn. Trong bất cứ lúc đi, đứng, nằm, ngồi, tay không rời chuỗi tràng, mỗi ngày ông niệm cả muôn ngàn danh hiệu Phật. Do thành tâm, ông đã được cảm ứng nhiệm mầu; chỉ trong vài tháng sau, ông được bình phục mạnh khỏe và tráng kiện hơn trước. Đến lúc tái chiếu quang tuyến X, kết quả cho thấy bệnh lao phổi của ông đã hoàn toàn biến mất.

 


 

45- Người điếc nghe Kinh.

Lúc ở Hương Cảng, Ngài có một đệ tử tại gia tên là Lưu Quả Quyên đã trên sáu mươi tuổi. Bà bị điếc nên không thể trò chuyện với ai hay cùng người bàn lời thị phi. Bà thường lần chuỗi tràng, không ngừng niệm Phật. Lúc Ngài giảng kinh, thuyết pháp, bà tuy tuổi đã cao, nhưng mỗi tối đều leo núi đến chùa đúng 7 giờ để dự khóa giảng. Bà không quản trời mưa hay gió, ngày ngày đều leo lên cả ba trăm bậc thang cấp đến chùa nghe kinh. Người điếc nghe kinh thật hiếm báu vô cùng. Khi buổi giảng kết thúc khoảng 9 giờ hơn, bà lại một mình xuống núi đi trên đường mòn không một ngọn đèn soi lối. Vậy mà bà ta thành tâm, tinh tấn mỗi ngày đều đặn lên Chùa.

Mùa Hè năm 1953, Ngài giảng Kinh A Di Đà. Bà Lưu như thường lệ nhất định mỗi ngày đều sớm đến nghe Kinh. Mồng 2 tháng 5, trước khi khai Kinh đại chúng đồng niệm: “Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát,” bỗng nhiên bà Lưu cả mừng bật nói: A! Các vị niệm Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát, tôi nghe rõ cả.

Từ đó tai bà nghe được như thường. Đây chính do công đức nghe Kinh mà ra, tuy bà không cầu mà vẫn được cảm ứng. Sau khi hết bị điếc, bà càng siêng năng niệm Phật, nhưng ma chướng lại đến; vì đôi khi để thử thách những vị tu hành nghiêm túc. Một khi người tu nỗ lực học Phật, nghiệp báo của những tội lỗi cũ phát hiện nhanh chóng và làm cho sự tu bị trở ngại. Nên có bài học là, “ Người Phật tử muốn thành Phật thì phải chịu sự khảo nghiệm của quỷ ma.”

Bà Lưu chợt mang bệnh kỳ lạ, mà triệu chứng của bệnh này là bà ta chỉ thích ăn. Bà bị ám ảnh bởi thức ăn và bà ăn uống suốt ngày từ sáng cho đến tối không ngừng. Cứ khoảng hai giờ đồng hồ là bà phải ăn một bữa, trong một ngày bà ta phải ăn ít nhất là mười lần. Nếu không ăn, bà cảm thấy càng khó chịu hơn. Các Bác sĩ Đông, Tây đều không tìm ra được nguyên nhân, lại cũng không phải trong bụng bà có sán lãi. Vậy mà Bà đã ráng nhẫn chịu bệnh này trong hai năm. Đến mồng 7 tháng 2 năm 1954, khi Ngài từ Đại Tự Sơn trở về Tây Lạc Viên, bà bẽn lẽn thưa:

– Sư Phụ, trong bụng con có người nói chuyện.

– Bụng bà có người nói chuyện? Vậy có phải là thai nhi đó không?

– Bạch Sư Phụ, con đã ngoài sáu mươi tuổi rồi ạ!

– Vậy nó nói những gì?

– Sáng sớm này, con lấy bột nếp để làm bánh ăn và khi con vừa ăn được một miếng thì có tiếng trẻ nít trong bụng con nói: “Tôi không thích ăn thứ này.”  Con nghe rất rõ ràng và chính xác.

– Vậy bà trả lời sao?

– Con nói: “Mi không thích món nầy vậy mi đòi ăn món nào? Ăn no là đủ rồi, còn kén chọn này nọ làm gì?”  Thế rồi con không nghe nó nói chi cả.

– Nếu những đứa bé trong bụng bà đã biết nói chuyện, vậy thì bà phải mau giúp cho chúng nó ra ngoài. Tối nay khi trở về nhà (khi Hòa Thượng đi vắng, bà Lưu ở lại trông chùa) vào lúc nửa đêm, bà hãy nấu cho một tô mì nóng hổi ngon lành, rồi quỳ trước bàn thờ thắp hương cúng dường và tịnh tâm niệm Phật.

Bà trở về nhà làm y lời Ngài, trong lúc niệm Phật, mơ mơ, màng màng bà thấy có ba đứa bé bụ bẩm khả ái từ trong bụng bà thoáng đi ra, chúng tranh nhau để ăn tô mì hấp dẫn kia. Đột nhiên có một luồng khí và bà thấy Ngài Hộ Pháp Vi Đà dùng hai tay, xách lỗ tai của ba đứa bé mà lôi đi, và bà lập tức cảm thấy trong bụng nhẹ nhàng, dễ chịu. Từ đó bệnh đói của bà không cần thuốc mà khỏi.

Trong ba đứa nhỏ kháu khỉnh kia, hai đứa là cắc kè tinh còn đứa thứ ba là nhái tinh; tin hay không là do bạn. Bà bị bệnh lạ lùng này là do quả báo đời trước, bà đã không tin có bệnh kỳ quái như vậy. Thế nên đời nay trong một đêm nọ bà mơ thấy có ba đứa bé khoảng hai, ba tuổi mủm mỉn, tròn trịa tai to đầu bự rồi khởi niệm tham ái mà chiêu cảm ba con quỷ nhỏ kia nhập vào. Do đó việc đầu tiên của người tu đạo là phải khử trừ lòng tham ái.

 


 

46- Thị hiện trong mộng.

Một hôm Ngài nhận được thơ của Pháp sư Thân Giác từ Toản Thạch Sơn, Cửu Long với nội dung như sau:

“Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 41 (1952) tôi mua được một ngôi nhà nhỏ tại Toản Thạch Sơn. Sau khi dọn về ở được khoảng hơn một năm thì chủ đất bắt buộc tôi phải phá ngôi nhà để trả lại mảnh đất. Thật là bất ngờ khi nhận được thơ của ông ta. Bấy giờ tôi chỉ thấy việc này thật là một thiệt hại lớn lao nên càng nghĩ tôi càng bối rối, khổ sở.

Một đêm nọ, vào lúc 11giờ, tôi đang đọc quyển Trung Quán Luận Phẩm, Quán Tứ Đế. Xem đến đoạn ‘Tất cả các pháp do duyên sanh, ta bảo đó là không. Các pháp đó cũng là giả danh, vậy đó là lý trung đạo. Vì chưa từng có một pháp nào mà không từ nhân duyên sanh ra. Cho nên tất cả các pháp hiện hữu không phải là không.’

Tôi đã suy ngẫm đoạn văn trên nhiều lần và thâm nhập được đạo lý nên cố gắng xua đuổi mọi chấp trước phiền não, rồi ngủ thiếp đi lúc nào cũng không hay. Sau đó tôi mơ thấy mình bị lạc trong một vùng rừng núi, bỗng nhiên cuồng phong nổi dậy, mưa bão ào ạt đổ xuống; Lúc đó tiếng gió hú, tiếng mưa đổ cùng những tiếng sét đánh ầm ầm nghe như điếc tai. Trong lúc kinh hoàng tôi ngưỡng đầu lên thì thấy có một vị Tăng toàn thân phóng ra một hào quang vàng tía bay từ không trung về phía tôi, và lúc đó mưa bão cũng vừa ngừng. Tôi bèn đảnh lễ Ngài, khi vị Tăng đó bước tới gần tôi nhận ra rõ ràng chính là vị Tôn Chứng Sư, Ngài Độ Luân trong lễ thọ Đại-giới của tôi thuở xưa. Ngài bảo tôi: ‘Chớ có ưu sầu, Thầy sẽ giúp con giải quyết mọi khó khăn. Mơ đến đây tôi chợt thức giấc.’

Không bao lâu sau tôi tìm được một khu đất khác và chuẩn bị cất một Tịnh thất nhưng lại không đủ tài chánh. Khi ấy Ngài đang giảng kinh Địa Tạng tại Chí Liên Tịnh Uyển, nghe được việc này Ngài đã nhân đức ban cho tôi một ngàn đô la, nhờ đấy tôi hoàn tất công trình kiến lập tịnh thất tại Toản Thạch Sơn và có chỗ nương thân cho tới ngày nay.”

Tuy việc này Ngài chưa từng kể cho một ai nghe, nhưng sau đó Ngài lại nhận được lá thơ khác kể lại giấc mộng tương tợ như trên. Có lẽ người này đặt chuyện mong được Ngài trợ giúp tài chánh nên đã bị Ngài dạy cho một bài học nên thân và từ đó không còn lá thơ thứ hai nào như vậy nữa.

 


 

47- Quả báo cua kẹp.

Mùa hè năm 1953, cư sĩ Đổng Quả Kỳ và Pháp chủ Chí Liên Tịnh Uyển tại Toản Thạch Sơn, Cửu Long là Sư cô Khoan Huệ thỉnh Ngài đến giảng Kinh Địa Tạng. Các cư sĩ đã không quản đi xe, chuyển tàu để đến nghe Ngài thuyết giảng.

Sư cô Khoan Huệ vốn là đệ tử của Lão Hòa Thượng Hư Vân. Lúc chưa xuất gia, Sư cô làm thuê, giúp người nấu cơm, quét dọn; thế nên khó tránh việc sát sanh giết gà giết vịt… Lần nọ, cô mua một số cua sống về định luộc cho chủ ăn, nhưng vì sơ ý nên bị cua kẹp ngón tay giữa nhứt định không nhả, khiến cô đau thấu tâm can nên cô đành cầm dao chém mạnh xuống một nhát, thân và càng cua đứt đoạn. Cuối cùng cua là món ăn chính của buổi cơm chiều đó.

Chẳng bao lâu sau, ngón tay bị cua kẹp của cô chợt sanh ra một miếng thịt dư (giống như miếng thịt cua) khiến cô đau nhức suốt ngày đêm. Mặc dù cô đã dùng biết bao thuốc men nhưng cũng không trị được. Sau đó Cô theo người lên núi Phù Dung dự Lễ Thủy Sám, qua bảy ngày lễ bái miếng thịt dư chợt biến nhỏ lại, mà ngón tay cũng bớt đau nhiều.

Trong khóa giảng Kinh Địa Tạng kỳ này, Sư cô bạch Ngài đầu đuôi câu chuyện, khẩn cầu Ngài giúp Sư giải mối oan kiết. Nghe qua Ngài liền Quy y cho cua, sau khi truyền Tam Quy, miếng thịt dư trên ngón tay của Sư Cô Khoan Huệ bổng tiêu mất, ngón tay linh hoạt như thường và tuyệt nhiên không thấy đau nhức chi. Nhân quả báo ứng, thật không sai chạy mảy may, chỉ có khác là đến sớm hay muộn mà thôi!

Đây là một trong những câu chuyện về nhân quả hiện tiền mà chính Ngài đã chứng kiến tường tận. Rõ ràng là như vậy chúng ta không thể không tin được. Nên hãy cố gắng thận trọng giữ giới sát sanh, nếu không thì “oan oan tương báo đến bao giờ mới dứt được?” Nếu chúng ta đọc được tác phẩm “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” do Ngài Tuyên Hóa diễn giảng thì sẽ rõ thế nào là “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”  tức chuyện lành, dữ đầu đuôi chi rồi cũng có quả báo.

 


 

48- Ung nhọt tự lành.

Cư sĩ Cam Quả Ngạn có một cháu gái gọi bằng bà, tên là Hoàng Tuyết Mai, vừa mới chào đời được trăm ngày thì trên đầu bé nổi lên những mụn ghẻ lở và vào mùa hè nóng bức những mụn này bị bể chảy mủ máu ra nên rất tanh hôi, người nào đến gần bé đều cũng phải bịt mũi lại. Bệnh ghẻ càng ngày càng lan ra trầm trọng, chung quanh những mụt nhọt, tóc đều bị rụng hết nên để lộ ra những mảng sói thật khó coi. Trong những năm đó, dù gia đình bé đã bỏ công chạy tìm bác sĩ Đông, Tây gì cũng đều không trị được bệnh của bé. Cuối cùng họ đành dùng những cách chữa bệnh theo pháp gia truyền hy vọng sẽ làm lành được các mụt nhọt nhưng rồi cũng chẳng có công hiệu gì.

Khi đứa bé được ba tuổi cha bé qua đời, còn mẹ phải đi làm thuê để nuôi con. Tiền lương mỗi tháng bà đều đổ dồn vào việc chữa trị cho bé. Nhưng rồi bệnh trạng bé cũng vẫn thế. Mỗi lần nhìn thấy con như vậy thì bà mẹ lại đấm ngực, dậm chân than thân trách phận.

Đến lúc lên mười tuổi, mụn nhọt trên đầu bé vẫn không bớt. Một ngày nọ, nhờ duyên lành bé gặp Ngài và được Ngài truyền Quy y Tam-bảo. Sau khi quy y, những mụt ghẻ bắt đầu khô mặt rồi tóc cũng dần mọc ra. Hơn mười năm mang bệnh nay bỗng chốc được lành. Sau này ai nhìn đầu bé mọc tóc đầy đủ cũng đều không thể tưởng tượng ra cái tướng mạo khó coi của bé lúc trước.

 


 

49- Tùy cơ thuyết pháp.

Mồng 10 tháng 8 năm 1954, cư sĩ Trần Thụy Xương cùng người bạn họ Kỉ đến Tây Lạc Viên bái kiến Ngài. Ông Kỉ là bác sĩ chuyên trị bệnh trật xương, gân, lại có thể sắp nối lại những chỗ xương bị gẫy. Vì Ngài thường tùy thuận căn duyên của từng chúng sanh mà ban giáo pháp. Thế nên Ngài hỏi ông Kỉ:

-Xương người bị gẫy ông nối lại được vậy mạng người đứt đoạn ông có thể nối cho sống lại không?

– Không thể được.

– Sao lại không được? Xưa kia trong thời Tam Quốc, Quan Công bị tên độc bắn trúng tay, mạng sống rất là mỏng manh, không thể sống qua được đến một ngày nếu Huê Đà đã không giúp Quan Công nạo xương trị liệu, khiến Quan Công sống lại. Vậy đấy có phải là sanh mạng đã được nối lại hay sao? Nhưng phương pháp nối mạng này cũng không phải là cách cứu cánh hay nhất. Cho nên bây giờ tôi sẽ dạy ông một phương pháp nối mạng khác rốt ráo và hay hơn nhiều. Phương pháp nối mạng là cần phải minh tâm kiến tánh, mà kết quả căn bản là sẽ chấm dứt sanh tử thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, khôi phục lại bản lai diện mục đồng Phật không khác. Nhưng muốn minh tâm kiến tánh thì phải tham thiền chứng ngộ. Phương pháp tham thiền thật chứng ví như gà ấp trứng; mèo rình chuột. Nghĩa là phải miên miên, mật mật tập trung tâm ý, đến khi thoạt nhiên khai ngộ thì liền chứng đắc được pháp Vô Sanh. Phương pháp tham thiền cùng niệm Phật vốn không đồng. Tham thiền tức tham thoại đầu, tham cho đến biển cạn non mòn, thì nhất định sẽ “liễu ám hoa minh” tức tâm mê bừng sáng.

Hành giả đã leo lên đến cùng tột của một cây cột cao ngất trời, nhưng còn có thể bước thêm một bước nữa để vào khoảng không vô tận. Rồi trong khoảnh khắc hành giả bước vào sự sống mới, tự trong lòng bàn tay mình sẽ cầm giữ được sự sanh tử và thoát ra khỏi vòng cai quản của Diêm Vương. Đó là phương pháp kéo dài kiếp sống của tôi. Trong thế hệ này đã có người đang áp dụng được như thế, đó là Đại lão Hòa Thượng Hư Vân nay đã ngoài một trăm mười tuổi; hiện vẫn còn tại thế, Ngài chính là vị cao Tăng am tường phương thức nối mạng này.

Nghe Ngài giảng, Bác sĩ Kỉ cảm thấy thú vị vô cùng vì đã thấu rõ tận tường chân lý. Từ đó, ông thường lui đến Tây Lạc Viên để thân cận học hỏi với Ngài.

 


 

50- Đồng kết thiện duyên.

Đệ tử Quy y Ngài, Trương Quả Thăng làm chủ một công ty chế tạo dược phẩm nổi tiếng ở Hồng Kông nhưng mắc phải chứng bệnh ung thư. Ngài quán sát thấy hội đủ nhân duyên nên khuyên ông cúng dường Tăng Ni y vải cùng dược phẩm để kết duyên với Tam-bảo cầu tiêu trừ nghiệp chướng.

Nghe Ngài dạy ông Trương quyết định y lời. Sau đó Ngài bèn thông báo đến các Tòng lâm, Tự viện và Tịnh thất tại Hương Cảng, Cửu Long cho biết số mục Tu sĩ để tiện bề chuẩn bị vải, cùng thuốc men như dầu Vạn kim, Thập linh đơn, v.v… Nhưng vì nghe lời người dèm pha nên ông Trương đã giảm bớt số lượng cúng dường như ông đã hứa. Thay vì cúng hai mươi đồng Hồng Kông và một cây vải tốt cho mỗi vị. Nay ông chỉ cúng năm đồng và một cây vải thuộc hạng xấu. (Lúc bấy giờ ở Đại Lục vấn đề tôn giáo bị nghiêm cấm nên cómột số đông Tăng Ni di tản qua Hương Cảng, nên họ rất cần giúp đở về mọi phương diện.) Vì vậy Ngài giúp ông bổ túc vào những phần thiếu ấy.

Mồng 9 tháng 6, các phẩm vật đã được chuyển đến và phân phát tại khu Toàn Loan, gồm các Chùa Đông Phổ Đà, Trúc Lâm Thiền Viện, Lộc Dã Uyển. Hôm sau lại đến Nam Thiên Trúc, Niệm Phật Đường Đông Lâm và Hoằng Pháp Tịnh Xá. Ngày 11 thì đến Thanh Sơn Hải Triều Viện. Riêng vùng Nguyên Lãng, Tự viện thì ít mà Tịnh thất lại nhiều nên Ngài thông báo cho quý Tăng Ni tập trung lại một địa điểm để dễ bề phân phát và cũng tiết kiệm thời giờ. Lần cứu trợ này đã khiến nhiều người khâm phục về cách làm việc của Ngài là rất minh bạch. Hầu như tất cả Tu sĩ ở đây đều nhận được phần cúng dường.

 


 

51- Tím tâm khó tìm.

Sau khi Chùa Tây Lạc Viên được thành lập, Bà cư sĩ họ La thường đến Chùa lễ Phật, Bà có một người con trai kết hôn đã lâu mà vẫn chưa có con, nên bà than thở với Ngài:”ïSư phụ! Xin Ngài từ bi thương giúp mà khẩn cầu cùng chư Phật, Bồ Tát ban cho con một đứa cháu nội!ọ Nghe xong Ngài chỉ mĩm cười.

Một hôm Ngài vừa từ ngoài làng trở về Chùa và đang rửa chân trong một thau nước. Ngay lúc ấy, có tiếng tiếng leng keng của phong linh (chuông gió) ngoài cửa vườn, thì ra là bà La vừa mới đến. Khi lễ Phật xong, bà chạy đến quỳ lạy dưới chân Ngài, thút thít khóc, van lơn:

– Sư Phụ, Xin Ngài từ bi ban cho con một đứa cháu trai ạ! Gia đình con thật hiếm hoi nên con chỉ cầu có một cháu trai để nối dõi tông đường, nếu không thì con còn mặt mũi nào để nhìn thấy tổ tiên họ La! Nay con thành tâm quỳ trước Sư Phụ, chỉ cần Sư Phụ ban dạy, dù bất cứ chuyện gì con nguyện đều sẽ y theo. (bà thầm nghĩ chắc Ngài sẽ dạy bà phát tâm đúc tượng Phật, in kinh hay tu sửa chùa chiền… thì bà sẽ rất hoan hỷ làm theo.)

– Tín tâm của Bà lớn như vậy à? Thuở xưa, người đệ tử nhất nhất tuân lời Sư phụ, dù phải hy sinh tánh mạng; vì họ xả bỏ được tất cả nên tín tâm mới kiên cố như thế, việc này thật không dễ làm đâu.

– Sư phụ! Chỉ cần có được một cháu trai, thì việc gì con cũng nghe Sư phụ cả.

– Thế thì tôi sẽ giúp bà mãn nguyện. Vậy bà có dám uống nước rửa chân trong thau này không?

– Hả???

Dẫu có nằm mơ đi chăng nữa bà La cũng không thể ngờ là Ngài lại bảo bà như thế, bà há miệng trừng mắt đứng chết trân. Ngoài trừ người có trí huệ, không bị dính mắc bởi sáu trần như: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chớ ai mà lại dám uống nước dơ trong thau như vậy?

Sau một hồi lâu, biết bà không thế nào làm nỗi, nên Ngài tự bưng thau nước lên, vừa uống vừa nói:

– Đây là nước cam lồ đấy!

Thấy vậy bà hốt hoảng, hối hận thưa:

– Sư phụ, để con uống.

– Nếu bà sớm uống nước này thì không chừng bà sẽ có được một cháu trai trọn lòng ước mong rồi nhưng bây giờ thì đã quá muộn!

Thật là chua xót, bà La không cầm được nước mắt khóc tức tửi nói:

– Sư phụ, con có còn cơ hội nào nữa không vậy?

– Sau này ở nhà bà nên ngày ngày, thành tâm thành ý niệm Phật. Vì Phật và Bồ Tát rất linh cảm, nếu có cầu tất sẽ có ứng.

Vài năm sau đó, bà La thật đã được một cháu trai đúng như ý, bà rất đỗi vui mừng.

Chúng ta muốn thành công trong việc gì, điều cốt yếu là cần phải có tín tâm kiên cố và ý chí cương quyết không gì lay chuyển được, nhẫn những việc khó nhẫn, làm những việc khó làm, có như vậy thì mới “sự bán công bội” tức chỉ cần dụng một ít công mà đạt quả gấp bội.

 


 

52- Tâm bệnh kỳ lạ.

Văn Quả Mật là một bé trai duy nhất trong gia đình em, cũng là cháu đích tôn đời thứ Chín dòng họ Văn. Khác hẳn với những bạn đồng lứa, cấp sách đến trường, tung tăng chạy giỡn, tham gia các trận đánh cầu, đá bóng… mà riêng em phải ở trong nhà dưỡng bệnh suốt khoảng hai năm liền từ lúc lên mười ba tuổi; Vì theo lời bác sĩ bảo, tim em có thể ngừng đập bất cứ lúc nào nên rất nguy hiểm đến tánh mạng.

Một hôm em chợt phát hiện, người chị lớn hơn em bốn tuổi đã trốn nhà đi quy y theo Phật giáo, và còn mang về quyển sách Tiểu sử Thiền Sư Độ Luân. Việc này chị em đã bí mật giấu kín vì gia đình em vốn là tín đồ Cơ Đốc giáo. Đọc xong quyển sách trong lòng em cảm thấy rất kính phục vị Sư trong sách nên đã yêu cầu người chị dẫn em đi gặp vị Thầy mà chị đã quy y. Nhưng chị em cứ khước từ mãi và bảo: Phải leo cả ba trăm bậc thềm đá mới đến Chùa Tây Lạc Viên, lúc đó bệnh tim của em chắc tái phát, chị làm sao gánh nổi trách nhiệm này.

Từ ngày đó, em âm thầm đối trước ảnh Ngài trong quyển sách mà đảnh lễ. Ba tháng sau, một hôm em đang lễ bái trong phòng thì thấy vị Sư trong bức ảnh bước ra xoa đầu em; vì thế em nhất quyết đến Tây Lạc Viên bái kiến vị Sư này. Cuối cùng, chị em đã cảm động bởi lòng thành của em nên đồng ý dắt em đi.

Lạ thay! Khi lên núi em không cảm thấy đau nhức ở tim chút nào, hơi thở vẫn bình thường, không có một triệu chứng gì về bệnh tim cả. Từ đó em thường lén nhà đến Chùa lễ Phật. Đến lần tái khám bác sĩ đã không ngờ được là bệnh tim của em đã không còn trong thời kỳ tình trạng nguy hiểm nữa.

Dù em nghĩ học đã lâu nhưng nhờ bản tính thông minh nên khi trở lại trường thì em vẫn học vượt hẳn bạn bè. Em tốt nghiệp trung học lúc lên mười chín tuổi. Ngoài việc gắng sức học hành, em còn biết dụng công tu thiền và có thể nhập định bất cứ nơi đâu kể cả trong phòng vệ sinh.

Có lần tại Phật Giáo Giảng Đường, Ngài ngồi trên pháp tòa nhưng không thuyết một lời nào, mà chỉ có Quả Mật lên diễn giảng, lúc đó thính chúng kê đầu to nhỏ trong tâm tỏ ý không phục nghĩ: Chúng ta đến nghe Ngài thuyết pháp, chớ không phải đến đây để nghe thằng bé chưa đầy mười tuổi này lên đài nói bá láp (Quả Mật có dáng người nhỏ thấp.) Sau buổi giảng, Ngài đã dạy: Chúng ta thường chấp vào hình tướng bên ngoài, như vừa thấy không phải là Pháp Sư thuyết pháp, không luận người đó giảng pháp đúng hay không đúng, liền sanh tâm phân biệt lập tức. Thật ra những lời Quả Mật đã nói đều cũng là những gì tôi muốn nói, vì em đã y theo tâm tôi mà thuyết đó.

 


 

53- Trùng hưng cổ tự.

Hương cảng là một thuộc địa của Anh quốc, phần lớn dân cư theo đạo Cơ Đốc nên đạo tràng Phật giáo vắng lặng ít người. Trong thành phố chỉ có Chùa Phổ Đà ở Tuyên Loan và Chùa Bảo Liên ở Ngạng Bình trên núi Đại Tự mà thôi. Vào năm 1953 do thời cuộc chánh trị ngày một rối loạn ở Đại Lục nên một số lớn Tăng sĩ phải lưu lạc sang Hương Cảng, vì không có nơi nương trú thích hợp nên kết quả là đạo nghiệp tu hành, thiền tập của họ trở thành chểnh mãng, định lực bị chi phối, tán thất rất nhiều.

Khi chứng kiến cảnh trạng này, Ngài nhận thấy không thể trì hoãn việc kiến hưng Phật giáo, gầy dựng Tùng lâm hầu giải quyết nạn thiếu cơ sở cho tu sĩ tu hành. Mặc dù Ngài nhiệt tâm hết lòng hộ trì Tam Bảo nhưng Ngài đã không đủ tài nguyên để giải quyết vấn đề to lớn này. Khi ấy ChùaTây Lạc Viên ở trong khu náo nhiệt, diện tích lại nhỏ hẹp, nên không có dư phòng cho Tăng chúng từ các nơi khác đến trú.

Đến mùa Thu năm 1953, cư sĩ Đổng Quả Kì phát đại nguyện cúng dường chư Phật tòa biệt thự hai tầng tọa lạc tại Đại Tự Sơn, Vạn Trượng Bộc. Tòa biệt thự bằng gạch đá rất hợp cho việc kiến tu đạo tràng. Cơ duyên đến và trùng hợp thay là bên trái của biệt thự này là Thiền viện Quốc Thanh đã bị bỏ phế từ lâu vì do quân Nhật đốt cháy trong thời kỳ Hương Cảng bị Nhật xâm chiếm, Hòa Thượng Trụ trì đã bị tử nạn trong cơn tai biến này. Thiền viện nay chỉ còn lại vài bức tường loang lổ, chung quanh chánh điện toàn là cỏ dại mọc um tùm trông thật tiêu điều hoang vắng. Tuy nhiên nơi đây rất tĩnh lặng vì được bao bọc bởi nhiều đồi núi nên thường vang tiếng quạ kêu, chim hót. Đường dẫn lên núi hiểm trở cheo leo vắng người qua lại, nên được yên ổn rất thuận lợi cho sự tu hành. Ngài vui mừng khôn xiết vì được khu đất thánh này. Sau khi thương lượng và được ban chấp hành của cựu thiền viện đồng ý việc phối hợp ngôi biệt thự và Thiền viện lại để tiến hành công trình trùng kiến khu Tu viện. Vì tài lực có hạn, nên Ngài chỉ bắt đầu sửa chữa tòa biệt thự, tạm thời làm ngôi chánh điện, sau này có một số người biết đó chính là viện cánh trái của Thiền viện Từ Hưng.

 

 


54- Trời người đều vui.

The Master presiding at the Opening of Cixing Monastery on Lanto Island

Lễ Khánh Thành Thiền Viện Từ Hưng

Đầu mùa Xuân 1954, công trình sửa chữa nhà khách và phòng ốc của tòa biệt thự được hoàn mãn. Nhân vía Bồ Tát Chuẩn Đề ngày 16 tháng 3, Lễ KhánhThành Thiền Viện Từ Hưng và Lễ An vị Tây Phương Tam Thánh đã được cử hành. Buổi lễ cũng nhằm để đánh dấu việc hoàn tất bên cánh trái thiền viện Từ Hưng, nên Chùa tổ chức lạy Đại Bi Sám trong ba ngày liên tiếp và dự định tối ngày 15 sẽ cử hành Đại lễ Cứu Khổ Ngạ Quỷ.

 

Bấy giờ đang lúc giao điểm giữa hai mùa Xuân Hạ, nên trời mưa tầm tả và sương mù miền núi lan tỏa khắp vùng khiến cho phong cảnh tựa hồ như đang bị một màn lụa trắng bao phủ. Lúc đó, người ta không thể thấy được gì quá ba thước. Vì dự bị tổ chức đại lễ ngoài trời vào ngày 16 tháng 3, nhưng đến ngày 14, 15 thời tiết vẫn xấu như vậy nên ai nấy đều lo ngại cho cuộc đại lễ sẽ bị đình chỉ, nên khi Ngài bảo các vị công quả nhà bếp chuẩn bị thức ăn cho một ngàn người, họ thưa rằng mưa dầm như vậy thì chắc không có ai đến được. Ngài quở là họ không có đức tin và bảo cứ y lời mà lo liệu thực phẩm. Trong lúc đó mưa vẫn rơi khiến những con đường đất lại càng sình lầy, trơn trợt hơn. Đến xế chiều ngày 15 Ngài nói: “Tốt hơn là trời nên tạnh mưa ngay để đường lộ có thời giờ khô ráo trước khi cử hành đại lễ, và ngày mai nên có chút mây che mát để không quá nóng bức cho các vị leo núi đến đây.” Quả nhiên sau đó không lâu thì trời bổng ngưng mưa, chiều xuống mặt đường được khô rang khiến ai nấy cũng đều vui mừng hớn hở.

Vào sáng ngày 16, đại lễ được cử hành đúng như dự tính, nhờ những đám mây nhẹ làm giảm bớt sức nóng của ánh nắng mặt trời và những làn gió thổi mát rượi nên đã khiến cả ngàn thiện tín tấp nập tụ họp về dự lễ, dùng trai, chánh điện chật ních người, đúng như lời Ngài đã nói.

Hình chụp tại chùa Từ Hưng, trong hình có hào quang hình chùy Kim Cang xuất hiện

Dân địa phương tại đảo này cho biết là lễ Khai quangThiền viện lần đó đã phá kỷ lục về nhân số tham dự so với nhiều thế kỷ qua.

Nữ cư sĩ Đàm Quả Thức, sau khi tham gia đại lễ, viết bài tường thuật như sau:

“Khi lễ khánh thành Thiền viện Từ Hưng kết thúc, có khoảng một trăm Phật tử đã ở lại tham dự tiếp khóa thiền ba ngày – 17, 18 và 19. Mọi người đều dậy sớm để hành thiền trong khí trong lành yên tịnh ở miền núi nên đều cảm thấy an lạc vô cùng.

Mặc dù núi rừng tĩnh lặng, hỗ trợ mạnh mẽ cho việc tu tập thiền quán, nhưng trong một sớm một chiều, thiền sinh khó mà rủ sạch hết các vọng niệm. Nguyên là Ngài đã dặn ban trai soạn chuẩn bị thức ăn cho khoảng một ngàn người nhưng họ đã nấu quá số dự trù vì không kinh nghiệm nên sau buổi lễ thức ăn còn dư rất nhiều; và được dùng làm bữa cho ngày mở đầu của khóa thiền. Mặc dầu bụng đói nhưng thiền sinh vẫn ngửi ra mùi thiu của các thức ăn thượng hạng để cách đêm cộng thêm khí nóng mùa hè. Vì Ngài rất cần kiệm không muốn phung phí bất cứ một thứ gì nên ngoài việc dạy các đệ tử khi ăn nên quán tưởng Năm Pháp Quán để tự xét xem mình có xứng đáng thọ hưởng thực phẩm này hay không? Ngài cũng dạy những người làm việc trong bếp không nên vứt bỏ bất cứ những gì có thể ăn được… và thức ăn dư trong ngày, tuyệt đối phải dùng ngay vào ngày hôm sau vì Chùa không tủ lạnh.

Mọi người đã ngồi vào bàn ăn nhưng họ cứ nhìn vào các đĩa thức ăn rồi nhăn mặt châu mày. Ngài thấy rõ những vọng tưởng phân biệt đang khởi lên trong tâm họ và nghĩ rằng: Họ thà chịu đói còn hơn là ăn những thức ăn này, thế thì thức ăn chắc sẽ bị đổ đi mất. Ngài bèn ngồi vào bàn đặt sẳn cho mười người rồi bắt đầu ăn như không chuyện gì xảy ra. Khi ăn xong đĩa thứ nhất, không chút ngần ngại, quay qua chỗ thứ hai, và cứ như thế Ngài tuần tự ăn hết hết mười đĩa một cách ngon lành. Đa số thiền sinh cảm thấy hỗ thẹn trước hành động của Ngài nên vội vàng cầm đũa và ăn phần của mình. Nhờ vậy mà thức ăn dư của buổi lễ hôm trước miễn bị bỏ phí.”

Cư sĩ Chứng Huệ đã mô tả công việc trùng tu Thiền viện Từ Hưng như sau: “… Mùa Xuân năm 1951, sau khi Chùa Tây Lạc Viên được kiến lập trên đỉnh Mã Sơn ở Hương Cảng, Ngài phát nguyện sẽ tạo dựng đại tùng lâm có thể quy tụ một số lớn chư Tăng về cùng nhau tu học. Vì nguyện lực của Ngài thật rộng lớn không thể nghĩ bàn này nên sau hơn sáu năm lao nhọc ngày nay Thiền viện Từ Hưng, một đạo tràng vĩ đại đã được hoàn thành.

Trong suốt khoảng thời gian trùng sửa Thiền viện, Ngài đã quên ăn mất ngủ, mỗi sáng sớm dù sương mù, mưa dầm, gió bấc… đều đến Thiền viện tương lai lo sắp đặt vật liệu, công nhân, tiếp tế thực phẩm… không việc gì Ngài không để tâm lo.

Mặc dù lúc đó có nhóm cư sĩ luôn tận tâm hộ trì, nhưng thật khó mà thành tựu được một đạo tràng uy nghi to lớn như vậy nếu không có ý chí quyết tâm và nguyện lực của Ngài.

Ngày nay Thiền viện Từ Hưng gồm Đại Hùng Bảo Điện, nhà khách, trai đường, một tịnh thất, và một nhà bằng cây. Bên trái là Hàng Long Thạch và bên phải là Phục Hổ Tuyền.Thiền viện được kiến trúc thật tuyệt vời với những bức tường màu trắng xen lẫn những hàng cột màu đỏ, bao quanh bởi núi non hùng vĩ. Có thể nói là Thiền viện mượn sắc khí thiêng liêng của trời đất làm cho cảnh trí thêm phần trang nghiêm vượt hẳn cả phong cảnh thiên nhiên và không thua kém Tứ Đại hoặc Bát Tiểu danh sơn bên Lục Địa và cũng tương tự như Tu viện Nam Hoa của Ngài Lục Tổ.”

Một biến cố đã xảy ra trong thời gian tu viện được tái thiết như chúng ta hẳn biết rằng khi một đạo tràng mới được thành hình thì chắc chắn là Ma vương sẽ phẫn nộ. Năm 1953, lúc đang tiến hành công trình tu sửa thì có một con rắn độc đầu đỏ mình xanh xuất hiện. Lần đầu các Thầy bắt nó bỏ vào thùng rồi đem đi thả ở một nơi xa đến mấy dặm. Nhưng trước khi các Sư trở lại công trường thì mọi người đã thấy nó bò qua bò lại trên khu đất của tu viện. Họ lại bắt nó đem đi thả ở chỗ xa hơn, nhưng nó lại xuất hiện và cứ trở về Chùa nhiều lần như vậy.

Rồng vàng trên phiến đá Hàng Long

Có lần, họ đem con rắn đi thật xa để thả nhưng khi mở nắp thùng thì không thấy nó đâu cả. Người thả rắn lấy làm lạ bèn trút thùng xuống và gõ nhẹ vào thùng thì thấy chỉ nửa thân mình rắn rơi ra. Khi người này trở lại công trường thì rắn kia lại hiện nguyên thân, và bò đến trước Phật điện ngóc đầu thè lưỡi cuốn mình xoắn lại như cái lò xo.

Hòa Thượng bên cạnh rồng đá tại Chùa Từ Hưng

Lúc Ngài ở Mãn Châu đã có mười con rồng đến Quy y ngay dưới pháp tòa của Ngài. Rắn thuộc giòng rồng vì vậy Ngài đã tự tay chạm khắc trên phiến đá Hàng Long ở bên trái, phía sau viện Từ Hưng thành hình một con rồng vàng nhe nanh, múa vuốt chừng như sắp sửa muốn bay. Từ khi rồng vàng được khắc thành thì con rắn độc cũng không bao giờ trở lại nữa. Thế nên đạo đức có thể chiến thắng Ma vương và sự thành tâm lúc nào cũng được cảm ứng. Nếu nay rắn độc đã không còn đến quấy nhiễu đạo tràng thì ma quỷ cũng có thể trở thành hộ pháp.

 

Cầu đá hình cánh cung bên trên Phục Hổ Tuyền

Phục Hổ Tuyền là một giòng suối từ trên núi chảy xiết xuống ngang phía trước Chùa và dẫn dài khoảng mấy dặm. Vào mỗi mùa mưa, thường có những trận lụt gây nhiều trở ngại cho khách đi đường, nên ngay chỗ giòng suối băng qua con đường của khu vườn kỷ niệm Đạo Tràng Linh Sơn tức khoảng nửa con đường từ Thiền viện Từ Hưng xuống núi, Ngài đã cất một cây cầu đá hình cánh cung, và dưới cầu Ngài cho đào một cái ao để phóng sanh, đồng thời tạo môi trường thích hợp cho các sinh vật dưới nước sanh sôi phát triển.Từ đó nguồn nước có chỗ thông nên nạn ngập lụt không còn làm khó khách bộ hành nữa.

Những công trình xây dựng như trên có thể chứng nghiệm rằng người khởi xướng trùng tu thiền viện Từ Hưng đã tiên liệu mọi việc thật chu đáo. Ngài cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho mọi pháp môn được hành trì; đồng thời tạo duyên cho những ai có tâm đạo đều có thể quy tụ về đạo tràng này, tựa hồ như những áng mây kéo đến từ ngàn phương xa, và thành quả họ gặt hái được sẽ viết lên những trang sử sáng chói cho tiền đồ Phật giáo.

 


 

55- Quỷ ma tùy hỷ.

Vào rằm tháng 7 năm 1954 ngày chư Phật hoan hỷ, Ngài tổ chức Đại lễ Vu Lan trong 3 ngày (13, 14, 15) tại Chùa Từ Hưng và đã có nhiều Tu sĩ cùng tín chúng tham gia đông đảo.

Khi Pháp hội Vu Lan sắp hoàn mãn thì có khoảng hơn ba mươi người như Tỳ Kheo Hằng Việt, nữ cư sĩ Quả Căn, Quả Toàn…thỉnh cầu Ngài truyền giới cho người quá vãng (giới U Minh.) nguyện cầu cho tổ tiên, thân bằng, quyến thuộc của họ được thoát khỏi khổ trầm luân trong đường địa ngục, ngã qủy. Ngài đáp ứng lời khẩn cầu của họ và lập bàn thờ tại nhà khách vào lúc 9 giờ rưỡi tối đó.

Sau khi cung thỉnh chư Hiền Thánh, Ngài lên tòa ngồi, đột nhiên từ bốn phía giới tràng lại vang lên những tiếng người nhao nháo, lúc đó khoảng 10 giờ tối; Mọi người biết rõ đó chính là tiếng của những vong linh quá cố tùy hỷ kéo đến thọ giới. Lúc đó Pháp sư Hằng Việt đang nâng cao bài vị phụ thân quỳ trước giới đàn cũng đã thấy cha mình hiện rõ trước mặt.

Trong khi đó hai cư sĩ: Đàm Quả Chánh và Văn Quả Thù lên lầu về phòng nghỉ sớm định sáng mai sẽ xuống núi để kịp đáp chuyến tàu 7 giờ về Hương Cảng. Hai người vừa mới đóng cửa phòng định lên giường nghỉ, họ bỗng nghe có nhiều tiếng người lao xao cùng những bước chân chạy tán loạn bên ngoài hành lang. Thoạt đầu họ nghĩ rằng, chắc có một đoàn người vừa đến chùa và đang đi lên cầu thang để nghỉ qua đêm nên hai cô hé cửa xem thử những ai đã đến, nhưng chỉ thấy hành lang hoàn toàn vắng lặng không một bóng người. Hết sức phân vân họ đóng cửa lại, thì tiếng ồn ào lại vang lên như trước. Lúc bấy giờ họ chợt nghĩ ra không lẽ đó là tiếng của ma quỷ đang đi, nghĩ đến đây cả hai đều sợ phát run.

Cùng lúc ấy đệ tử Ngài là Pháp sư Hằng Định đang một mình tĩnh tu trong một tịnh thất nhỏ cách chánh điện khoảng hơn một trăm thước. Bên cạnh của thất này là con đường mòn thẳng xuống núi; vì vậy những người khi lên hoặc xuống núi đều phải đi ngang qua cửa am này.

Khoảng 10 giờ rưỡi tối, Thầy nghe rõ có tiếng chân của một đoàn người đang đi xuống núi ở ngoài cửa am. Thầy lại nghe họ vừa đi vừa nói chuyện, thỉnh thoảng lại có người phát tiếng cười to. Thầy thầm nghĩ: Ồ! chắc có một nhóm Phật tử đã lên Chùa dự lễ xong nên kéo nhau về nhà vì lúc đó trăng rằm chiếu sáng lối đi.

Sáng hôm sau, Thầy Hằng Định và hai cô cư sĩ thuật lại những việc đã nghe thấy đêm trước cho đại chúng. Mọi người đều cảm thấy thật linh kỳ vì hai sự việc này đều có liên quan mật thiết với nhau.

 


 

56- Ma chướng của người tu Đạo.

Hồng Kông là nơi sinh hoạt về đêm, đời sống vật chất đầy cám dỗ, trụy lạc. Đã có nhiều vị xuất gia vì không đủ định lực nên khi đến Hồng Kông gặp cảnh đô thị đèn màu, náo nhiệt

liền bị tiêm nhiễm và quên mất lý do tu đạo của mình, đa số dùng việc Tụng Kinh, Bái sám mong hầu đánh đổi đồng tiền để mua cất nhà cửa.

Đúng như lòng mong mỏi của Ngài là tạo nơi thích hợp để khuyến tấn chúng Tăng cùng nhau chuyên tâm tu đạo nên Thiền viện Từ Hưng được lập thành và vào mỗi mùa Đông Ngài lại tổ chức một khóa thiền thất kéo dài mười tuần liên tiếp. Vì Thiền viện tọa lạc trên hòn đảo Từ Sơn cách Cửu Long Hương Cảng khoảng ba giờ đường tàu, lại thêm con đường dốc mòn dẫn thẳng lên đỉnh núi mới đến nơi nên rất hiếm người qua lại. Nhưng với những tòng xanh cùng suối thác ở đó dễ khiến người tu ngộ cảnh vạn vật chuyển biến vô thường.

Ngài có một sư điệt gọi Ngài là sư thúc, từ Đông Bắc, Trung Hoa sang Hương Cảng, tuy xuất gia mà giới luật không tinh nghiêm, tâm đạo không vững vàng nên Ngài vẫn thường khuyên răn, nhắc nhở Thầy ấy. Có lần vị sư điệt này muốn biểu thị cho Ngài xem sự dụng công của mình nên thỉnh phép được đả thất Bát Chu. Ngài rất vui mừng khi thấy có người phát tâm tu hành nên từ Chùa Từ Hưng khoảng nửa dặm, Ngài đặc biệt cất lên một tịnh thất riêng cho ông sư điệt tu pháp Tam muội Bát Chu trong chín mươi ngày. Bát Chu là tiếng Phạn, dịch ra là “Phật Lập” tức Phật đứng, vì khi hành pháp môn tam muội này, ngay trong lúc nhập định, hành giả sẽ thấy được chư Phật hiện ra trước mặt. Tông Thiên Thai còn gọi pháp tam muội Bát Chu là Thường Hành Tam Muội, có nghĩa là liên tục niệm Lục tự Di Đà, sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” không gián đoạn. Pháp tu này thật hết sức khó khăn, hành giả sẽ không ngồi, không nằm ròng rã suốt chín mươi ngày. Bên trong tịnh thất toàn nhiên không có bất cứ một đồ vật nào.

Những hậu quả mà hành giả thường gặp phải và không sao tránh khỏi như bị sự đau nhức nơi ống chân, hai bàn chân sưng vù lên, thần kinh bị căng thẳng đến cùng cực và sức lực tưởng chừng như kiệt quệ. Mặc dầu phải trải qua những thử thách như vậy, hành giả vẫn phải tiếp tục bước đi, vì nếu bị vấp té thì coi như hỏng cả khóa tu. Trong lúc hành trì pháp môn này nếu như hành giả, bỗng nhiên bị xây xẩm mặt mày thì có thể dừng lại và đứng yên một lát, sau đó cử động cánh tay trước, rồi tiếp tục bước trở lại. Nếu hành trì pháp tam muội Bát Chu này một cách tinh tấn thì sẽ điều hòa được ba nghiệp thân, khẩu, ý, giúp hành giả có thể nhập định “Bát Chu Tam Muội” và sẽ thấy được chư Phật khắp mười phương. Lúc bấy giờ hành giả sẽ thấu rõ được chân tâm và đạt thành tuệ giác.

Một ngày nọ đang ngồi tĩnh tọa tại Từ Hưng Thiền Tự, Ngài chợt nghe tiếng niệm Phật của ông sư điệt vang lên như la hét, âm thanh càng lúc lại càng gấp tựa như sắp đứt hơi. Ngài hiểu rõ sự việc nên lập tức đến mật thất thì thấy ông sư điệt vừa to tiếng niệm Phật vừa chạy vòng vòng như phát cuồng, lúc Ngài bước vào thì Thầy ấy ngã quỵ xuống, Ngài liền bảo: Phật A Di Đà đã đi rồi! Mà cũng chẳng có Phật nào đâu, đó chẳng qua là con trâu nước to tướng đó thôi!

Nguyên là lúc Ngài vừa bước vào Thất thì Thầy đó không còn thấy Đức Phật A Di Đà nữa, thay vào đó Ngài thấy có một con trâu lớn đi trước ra chiều thúc giục Thầy ấy. Tại sao trâu nước lại có thể hiện ra thành Phật A Di Đà? Vì Thiên ma và ngoại ma cũng có phép biến hóa, giả dạng giống y như Phật, Bồ Tát để mê hoặc người tu.

Phật với Ma chỉ khác nhau trong lằn tơ kẽ tóc, thế nên đường tu đạo, chúng ta thường gặp nhiều cảnh giới do ma hóa hiện để chướng ngại sự tiến tu của chúng ta khiến chúng ta khó mà phân biệt được chân hay giả. Vì vậy người tu đạo nhất định phải đoạn trừ tham sân si, không tham lợi dưỡng, cũng không tham được thấy Phật, Bồ Tát. Ngày thường phải trì giới để có một nền móng vững chắc và từ sự trì giới sẽ sanh định, có định lực thì tự biết đối phó với mọi cảnh giới, không bị cảnh giới dao động. Trong cuốn “Khai Thị Lục” Ngài dạy chúng ta cách đối phó cảnh giới như: Bất luận dù gặp cảnh giới nào đi nữa chúng ta cũng không được sanh tâm hoan hỷ hoặc sanh tâm lo sợ nên nhớ lấy! nhớ lấy! Ngài lại bảo:

“Nếu gặp ma cảnh đến khảo nghiệm thì chúng ta cũng nên biết cách khảo nghiệm lại và suy xét kỹ xem đó có phải là cảnh giới thật hay do chúng ma giả dạng. Vậy chúng ta phải dùng phương pháp nào đây? Chính là niệm A Di Đà Phật không gián đoạn; niệm cho đến nhất tâm bất loạn không cho khởi lên một vọng niệm nào như vậy ma cảnh dần biến mất và cảnh giới thật sẽ hiển bày càng lúc càng rõ. Có một số người tu thiền không hiểu phương pháp này cho nên bị tẩu hỏa nhập ma khiến tổn hao đạo nghiệp tu hành bấy lâu nay!”

Nhân vì Thầy ấy vừa mới khởi sự đả thất Bát Chu chỉ được vài ngày mà lại nôn nao tham ước được Phật A Di Đà đến gia bị nên xả mạng để truy cầu. Đây chính là điều tối kỵ của người tu. Cũng may Thầy được một vị Thiện tri thức ở gần bên thường để tâm quán sát nên đã kịp thời chỉ chỗ sai lầm, bằng không Thầy này sớm muộn gì cũng trở thành quyến thuộc Ma Vương.

Một kiếp trước đây ông sư điệt này từng là một con bò cần mẫn kéo cày cho một Tu viện, nhờ công đức siêng năng làm việc cho Chùa nên tái sanh làm người và lại còn được xuất gia tu đạo. Tuy nhiên phần lớn còn tập khí và bản tánh của bò từ quá khứ nên mới triệu lại một con trâu nước yêu quái có giòng giống tương quan để tiện bề quấy phá đạo nghiệp của Thầy. Mặc dầu Thầy không bị ma nhập nhưng khóa Bát Chu thất đã không thành.

 


 

57- In kinh tạo tượng.

Kinh Phật cốt dùng hoằng dương giáo pháp là công cụ lợi sanh, Kinh điển có giá trị vô vàn ví như ngọn đuốc sáng trong đêm tối; nếu nhân gian không có Kinh Phật sẽ như trong đêm khuya dài dẳng không một ánh đèn. Vì vậy phiên dịnh ấn hành kinh điển khiến ba giáo tạng lưu hành trên thế gian là công tác đầu tiên trong việc cứu độ chúng sanh.

Trong từng giờ từng khắc Ngài đã không quên bi nguyện hoằng pháp, lưu thông Kinh điển nên Ngài đã ấn hành Phẩm Phổ Môn, Kinh Địa Tạng, Kinh Kim Cang, Kinh Lăng Nghiêm…để phân phát khắp nơi.

Ngài đã không quản ngại ra công tuyển chọn họa sĩ thiện nghệ để chính thức giao phó trách nhiệm minh họa lại Lịch sử Lão Hòa Thượng Hư Vân. Tác phẩm này đã được trình bày qua hai ngàn bức họa tuyệt tác. Đạo đức cao vời, hạnh nguyện cao cả, sự lao tác cùng tinh lực phi thường của Hòa Thượng đã được chính tay Ngài viết qua những bài kệ tán thán, bao gồm mười ngàn chữ. Đây là quyển Thánh nhân truyền ký “Hư Vân Lão Hòa Thượng Họa Truyện Tập” chúng ta không thể không tham khảo. Hòa Thượng Hư Vân đã được diễn đạt như một Đạo sư gương mẫu muôn đời cho đoàn hậu học mai sau.

Ngoài việc xây cất những đạo tràng mới, Ngài tiếp tục bảo trợ việc đúc tượng Phật, Bồ Tát và các vị Hộ Pháp. Ngài không ngại về khoản chi phí lớn để mời các điêu khắc gia, thợ giỏi để đúc tượng cùng sơn son thếp vàng làm hiện rõ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẽ đẹp tuyệt vời của đức Như Lai; thuận tạo duyên cho chúng sanh khi chiêm ngưỡng tượng Phật sẽ phát Đại tâm lập Đại nguyện, hoặc đảnh lễ hoặc quán chiếu những nét trang nghiêm vào tâm khảm để vững lòng tu trì tinh tấn.

Khi vừa đến Hồng Kông Ngài đã cho đúc tượng đức Bồ Tát Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn để xưng tán đức hạnh Bồ Tát và sự hành trì pháp Đại Bi. Bức tượng đã được tín chúng rất mực kính quý và trong những năm sau đã có nhiều Pháp sư xin mẫu để đúc thêm.

Ngoài ba tượng Ngài đã cho đúc để thờ tại Chùa Tây Lạc Viên và ba tượng khác tại Thiền viện Từ Hưng, Ngài còn cho đúc và thếp ba vị Phật Thích Ca, Dược Sư và A Di Đà cùng các tôn tượng Hộ Pháp Vi Đà, Già Lam. Ngài còn đích thân chú tượng Đức Phật A Di Đà tại Thiền viện Chân Như, đạo tràng của Lão Hòa Thượng Hư Vân tại núi Vân Cư. Ngài cũng đã đúc tượng Đức Lục Tổ Huệ Năng, tượng Đức Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân, và tượng Đức Phật A Di Đà tại Tu viện Chí Liên Tịnh Uyển ở Hương Cảng. Trên bốn phía chánh điện của Vạn Phật Thành ở Mỹ Quốc là mười ngàn tượng Phật Thích Ca lớn nhỏ đều do chính tay Ngài đã đúc thành hơn mười năm qua; trong nhiều đêm không ngủ để khắc từng tượng một và còn đặt tóc của Ngài vào mỗi tượng nũa. Ngài kể lại:

– Lúc đầu mới tới Mỹ tôi tự hỏi, “Tôi  đến phương Tây này để làm gì? Nên phát đại nguyện là muốn làm một điêu khắc gia để khắc ra những vị Phật sống, Bồ Tát sống, Tổ Sư sống. và tôi còn muốn hóa toàn bộ chúng sanh trên thế giới thành ra những vị Phật sống, Bồ Tát sống và những Tổ Sư sống.”

Ngài thường nói:

“Chỉ cần giữ giới cho thanh tịnh, nghiêm túc tu hành, thuyết giảng giáo lý cho hợp lẽ đạo, bố thí vô ngã và làm lợi cho Phật pháp. nếu quý vị giữ gìn đạo hạnh, thì việc người đời bàn tán về các vị không có quan trọng vì chính các vị nhận thức được đâu là chân, đâu là giả.”

Vì vậy Ngài đã không nề gian khổ phát đại lượng tâm in kinh ấn tống, tô đắp tượng Phật, Bồ Tát khiến ngôi Tam Bảo mãi được hưng long. Đây là mục đích trọng yếu trong cuộc đời Ngài.

 


 

58- Phật Giáo Giảng Đường.

Nữ cư sĩ Dư Quả Mãn trước kia thường bái viếng Ngài tại Động Quán Âm nhưng từ lúc Ngài rời khỏi động bà bặt tin tức về Ngài. Bà đã cố gắng dò hỏi tông tích của Ngài trong nhiều năm qua nhưng chẳng có kết quả gì.

Năm 1956, Quả Mãn bị gẫy xương bàn tay đến nhờ Bác sĩ đông y chữa trị, khi Bác sĩ  ấy kê toa “Long Cốt”  tức xương rồng làm thuốc thì Quả Mãn phản đối:

– Thưa Bác sĩ tôi không dùng thứ này được vì tôi đang ăn chay.

Bên cạnh bà là một bệnh nhân khác, đệ tử Ngài tên Diêu Quả Bạch nghe thế liền hỏi: – Thầy của bà là ai?

– Tôi chưa Quy Y nhưng tôi đã từng gặp một vị Pháp Sư đức độ, chân chánh tu hành tại núi Phù Dung, Động Quán Âm nhưng nay tìm mãi mà tôi vẫn không biết Ngài đang ở đâu?

– Vị Pháp Sư đó người ra sao?

– Ngài thường đeo chuỗi hạt trầm hương và trên ngực có một loạt sẹo khắc chữ Vạn!

– A! là Thầy của tôi đấy!

Đối đáp một hồi Quả Mãn đã vui mừng khôn xiết vì tìm ra được tăm tích Ngài. Ngay hôm sau Bà cùng với Quả Bạch đến Chùa Tây Lạc Viên; thân bà to béo nhưng không quản mệt nhọc bước lên hơn ba trăm nấc thang nhất định bái kiến Ngài, lần này bà không bỏ qua cơ hội xin thọ Quy y và sau đó cả gia đình bà cũng Quy y Tam Bảo.

Buddhist Lecture Hall, Hong Kong

Hòa Thượng tại Phật Giáo Giảng Đường

 Bà và một số Phật Tử khác đã đắc lực ủng hộ Ngài trong việc hoằng dương Phật pháp cùng phát tâm mua trọn tầng lầu thứ mười hai của một cao ốc tọa lạc tại Happy Valley cạnh vùng đua ngựa của trung tâm thành phố Hương Cảng để dựng đạo tràng mới, làm nơi thuận tiện cho các Phật tử tu hành. Vì thế năm 1956 Phật Giáo Giảng Đường được thành lập. Nơi đây Ngài giảng kinh thuyết pháp và tổ chức những sinh hoạt Phật giáo khác đã được tín chúng cùng khách viếng thăm đến đông đảo cho đến ngày nay. Nguyên cả một bức tường của Giảng Đường gồm toàn cửa sổ nên ánh nắng chiếu sáng cả Giảng Đường. Giảng Đường được nằm ở tầng cao nhất nên người ta có thể lên mái phẳng của cao ốc một cách dễ dàng và họ còn trồng rau, kiểng và hoa để cúng Phật.

Chính Ngài thường chuyển pháp luân qua những buổi thuyết giảng, Ngài cũng khuyến khích và huấn luyện cho chư đệ tử luân phiên diễn giảng vào mỗi cuối tuần.

Lúc những Phật tử trẻ thuần thành không đến được thì có lão cư sĩ Hồ Quả Vi đã ngoài sáu mươi tuổi cũng ra tham gia buổi giảng và còn vì đại chúng làm một bài thơ Tịnh Độ:

Diêu chỉ Tây Phương lạc nhật biên
Nhứt điều quy lộ trực như huyền
Khứ thời bất dụng xuyên hài miệt
Bộ bộ liên hoa đóa đóa sanh

Tạm dịch:

Tây Phương xa thẳm tận chân trời
Một nẻo dây đàn thẳng đến nơi
Khi đi chẳng nệ mang giày vớ
Mỗi bước hoa sen nở dưới chân.

Chúng ta chớ nên cười bà, bà chính là mẹ của Lý Quả Viễn (Xin xem bài 43- Người tin được cứu.) Từ ngày được Quy y, bà đã chưa từng rời chuỗi tràng mà niệm Phật miên mật. Khoảng đầu năm 1962, bà đi thăm bà con và các bạn thân mà Bà đã lâu chưa gặp lại, xong về nhà Bà an tường ra đi. Ngài từng nói:

– Biết thuyết pháp không bằng biết nghe pháp, biết nghe pháp lại không bằng biết hành trì.

Bà Hồ quả là một gương sáng đáng cho chúng ta noi theo!

Buddhist Lecture Hall, Hong Kong

 


 

59- “Bạch Thủy Tuyền Trung Nhất Đại Thiên”.

Sau khi Giảng Đường được thành lập thường có nhiều người đến viếng thăm Ngài kể cả các vị Tu sĩ có tiếng. Lần nọ có Pháp sư Nguyệt Khê để tóc dài tu hạnh đầu đà và xưa kia đã từng đốt ngón tay cúng dường Phật. Sư đến Phật Giáo Giảng Đường tham bái Ngài, Ngài bảo:

– Pháp sư, tôi có câu đối liễn này, nếu Thầy đáp được tôi sẽ xưng Thầy là Trưởng Lão chân tu, bằng không đáp được thì tôi sẽ gọi là Lão Ma Vương. Thầy nghe kỹ đây,

“Bạch thủy tuyền trung nhất đại thiên.”
Chữ thứ nhứt Bạch và chữ thứ hai Thủy hợp lại thành chữ Tuyền.
Chữ thứ tư nằm chính giữa câu cũng là chữ Trung.
Chữ thứ năm Nhất nhập với chữ thứ sáu Đại ra chữ Thiên.

Muốn đối lại câu trên, Pháp Sư này phải tìm cho ra những chữ vừa đối và vừa có cấu trúc tương tợ. Cả nửa giờ sau lão Pháp sư ấy chỉ biết lấy tay xoa đầu không đối đáp nổi. Ngài liền thuyết thêm một bài kệ giáo huấn Lão như sau:

“Bồng thủ cấu diện Lão Ma vương
Đáo xứ linh nhân thuyết đoạn trường
Phóng hạ, vật phóng hạ?”

Tạm dịch:

Đầu bù mặt bẩn Lão Ma vương,
Đến đâu đều khiến chúng than phiền.
Xả bỏ, sao không cố xả bỏ?

Không đáp được câu đối, Pháp sư Nguyệt Khê bèn chuẩn bị cáo từ, Ngài đưa ông ra tới tận của rồi nắm lấy búi tóc dài của ông kéo xuống buộc ông ta phải quỳ xuống và Ngài trừng nhìn ông nói:

– Này Lão Ma vương xem thử ông có bao nhiên thần thông để thoát khỏi trận này? Ông có tài cáng gì thì cứ trổ ra đi, mau lên, mau lên!

Tại sao Lão Pháp Sư kia phải bị trừng trị đích đáng như vầy? Bởi xưa khi vừa đến Hương Cảng, Ông ta đã tuyên bố rằng ông chính là Thầy của Hòa Thượng Hư Vân và có nhiều thần thông thâm hậu. Rất nhiều đệ tử của Ngài Hư Vân tưởng thật nên hết lòng cung kính, hộ pháp và cúng dường như vị Tổ của họ; và còn có một Đệ tử viết thơ báo tin cho Hòa Thượng là Thầy của Hòa Thượng đã đến Hồng Kông.

Ngài Hư Vân đáp:

– Tôi có nghe nói về Sư tóc dài đó… nên người đệ tử này nói là Thầy của tôi? Lão Hòa Thượng cũng không màng cải chánh: phải hay không phải là Thầy của Hòa Thượng; nhưng lá thơ này cho chúng ta thấy rõ là Phật tử ở Hồng Kông đã bị lừa to. Khi có người hỏi vặn, Pháp Sư Nguyệt Khê liền nổi nóng cho rằng:

– Lúc còn bé, Thầy các ông đã tới lạy và xin tôi cho xuất gia nhưng tôi không thâu… và đuổi đi chỗ khác, rồi thì ổng quỳ trước mặt tôi khóc ròng nước mắt nước mũi ràn rụa nhưng tôi vẫn không nhận.

Lúc bấy giờ Lão Hòa Thượng Hư Vân đã hơn trăm tuổi, là bằng chứng cụ thể cho chúng ta thấy được chuyện vô lý này do Pháp Sư Nguyệt Khê đã bịa ra. Giờ đây chúng ta thử xem ai sẽ là người có thể tiếp Lão đầu đà kia đáp câu đối của Ngài?

 


 

60- Sang Miến Điện triều Tháp.

Năm 1957, nhân viên Lãnh sự quán cùng Pháp quan Miến Điện là Trần Chấn Phú và Dư Trấn Đông đã đến Phật Giáo Giảng Đường thỉnh Ngài sang nước họ tham quan. Với nhã ý hợp nhất hai tông Đại Tiểu nhằm đoàn kết lực lượng Phật Giáo trên toàn thế giới nên Ngài đáp lời và dắt Quả Mật cùng đi. Hai Thầy Trò đã tham quan Trường Đại học Phật Giáo Pegu, triêu lễ Tháp Đại Kim và hướng dẫn hơn trăm tín đồ nhiễu tháp niệm Phật. Tại Chùa Thụy Phật, Ngài cùng chư tăng Miến Điện tọa thiền trước tượng Phật nằm nghiêng khổng lồ. Ngài đã tuyên dương hai phái Đại Tiểu thừa là đều đồng chí hướng -Tham Thiền Học Phật. Khi Ngài rời Miến Điện về Hương Cảng, chúng cư sĩ quỳ nơi sân bay bùi ngùi tiển chân Ngài, vì chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà họ đã cảm nhận được lòng từ bi cũng như oai đức cao dày của một vị chân tu.

Hoà Thượng trước ngôi chùa Miến Điện

 

Hoà Thượng cùng ngồi thiền với chư tăng tại một ngôi chùa Miến Điện


61- Thừa pháp Quy Ngưỡng.

Năm 1947 Ngài từ Đông Bắc Trung Hoa đi bộ hơn ba ngàn dặm đến Chùa Nam Hoa, Tỉnh Quảng Đông, Tào Khê, bái kiến Đại Lão Hòa Thượng Đức Thanh tự Hư Vân. Khi ấy Lão Hòa Thượng Hư Vân thọ một trăm lẻ chín tuổi. Lão Hòa Thượng đã ấn chứng cho Ngài: “Như Thị! Như Thị!”( xin xem bài 31- Bái kiến Hư Công.)


Mồng 9 tháng 4 năm 1956 từ núi Vân Cư, Hư Công đã gởi qua Hương Cảng cho Ngài quyển Nguyên Lưu Tổ Phái Quy Ngưỡng Thiền Tông, ấn trao cho Ngài kế vị làm Tổ thứ Chín để kế tự dòng Quy Ngưỡng; đồng thời ban cho Ngài Pháp hiệu TUYÊN HÓA.

Đại Lão Hòa Thượng đã viết “Kệ Biểu Tín” tức thơ bày tỏ đức tin về Ngài:

TUYÊN Quy diệu nghĩa chấn gia thinh
HÓA thừa Linh Nhạc pháp đạo long
ĐỘ dĩ tứ lục truyền tâm ấn
LUÂN toàn vô hưu tế khổ luân.

Tạm dịch:

TUYÊN Quy Ngưỡng diệu nghĩa vang khắp
HOÁ thừa Linh Nhạc đạo pháp thịnh
ĐỘ bốn sáu đời truyền tâm ấn
LUÂN chuyển không ngừng cứu quần sanh.

Năm 1962, Ngài là Tu sĩ Trung Hoa đầu tiên định cư tại Tiểu bang California, Mỹ Quốc. Ngài mang trách nhiệm hoằng dương Phật Pháp qua Tây Phương, kế thừa di chúc của Lão Hòa Thượng Hư Vân, bồi dưỡng giáo dục đoàn hậu tấn, lưu truyền pháp môn tâm địa dòng Quy Ngưỡng. Sau khi đến đất Mỹ, Ngài dùng Pháp Hiệu “Tuyên Hóa” và được tôn xưng là Tuyên Hóa Thượng Nhân.

Tông Quy Ngưỡng là một trong năm tông phái chính của thiền tông: Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn và Pháp Nhãn.

Từ tổ Ca Diếp truyền đến tổ Bồ Đề Đạt Ma đời thứ hai mươi tám ở Ấn Độ, cũng là Sơ tổ ở Đông Độ Trung Quốc. Ngũ tổ truyền tới Lục Tổ Huệ Năng. Tổ Huệ Năng truyền trao Nam Nhạc Hoài Nhượng. Đại Sư Hoài Nhượng truyền trao Mã Tổ Đạo Nhất. Ngài Đạo Nhất truyền trao Bá Trượng Hoài Hải.

Ngài Bá Trượng truyền trao Linh Hựu Quy Sơn Thiền Sư, là đời thứ ba mươi bảy tính từ tổ Ca Diếp và cũng là tổ sư thứ nhất dòng Quy Ngưỡng,

Tổ thứ hai Thiền Sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, thời ấy pháp duyên rất thạnh, nên tạo thành hệ phái Quy Ngưỡng trong thiền tông.

Tổ thứ baThiền Sư Tây Tháp Quang Mục.

Tổ thứ tư Thiền Sư Tư Phúc Như Bảo.

Tổ thứ năm Thiền Sư BáoTừ Đức Phúc

Tổ thứ sáu Thiền Sư Tam Giác Chí Khiêm.

Tổ thứ bảy Thiền Sư Hưng Dương Từ Đạc.

Tổ thứ tám Thiền Sư Đức Thanh Hư Vân.Truyền nhân của Phái Quy Ngưỡng

Nay Lão sư Đức Thanh Hư Vân

Truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng

Cho đời thứ Chín, Thiền giả Tuyên Hóa Độ Luân để được Ngài đích thân bảo vệ và duy trì.

Như vậy Ngài là vị Tổ Đông độ đời thứ Chín dòng Quy Ngưỡng và cũng là Tổ Tây độ thứ Bốn mươi lăm của Thiền Tông.

 

Nhằm tạo sự hiểu biết hỗ tương giữa Đại Thừa và Nguyên Thủy, Hòa Thượng cùng chư học tăng Viện Trung Quốc Phật Giáo Luật Học đi khất thực tại Hương Cảng.

 


 

62- Hư Công viên tịch.

Khi nhận được điện tín từ Chân Như Thiền Tự, núi Vân Cư tỉnh Giang Tây, Ngài xúc động thương cho chúng sanh ở thế giới Ta Bà, bị vắng mất một gương Bồ Tát cứu thế. Bức điện báo đề rằng: Đại lão Hòa Thượng Hư Vân an tường viên tịch vào lúc 1:45 trưa ngày 12 tháng 9 năm 1959, tại Chân Như Thiền Tự núi Vân Cư, lời di chúc tối hậu của Lão Hòa Thượng: “Cần tu Giới Định Huệ, diệt trừ Tham Sân Si, vì pháp quên mình, hỗ tương kính ái.” đã khiến bao người thương tâm!

The relics of Elder Master Hsu Yun

Xá Lợi Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân

Paying homage to the sharira (relics) of the Elder Master Hsu Yun in Hong Kong

Hòa Thượng Tuyên Hóa đang chiêm lễ Xá Lợi Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân

Đại Niết Bàn Thất

Lúc Hòa Thượng Hư Vân Nhập Niết Bàn, Ngài tổ chức hai mươi mốt ngày Phật Thất và một trăm hai mươi ngày Đại Niết Bàn Thất tụng Đại Bát Nhã Kinh. Các Ủy viên Hội Truy Niệm đã gởi thơ, điện tín thông báo các đoàn thể Phật Giáo khắp thế giới, Nhật báo Phát Triển ở Hương Cảng cũng đăng tin kêu gọi chúng cư sĩ, đệ tử Lão Hòa Thượng tham gia Khóa tụng sáu trăm biến Kinh Đại Bát Nhã. Mồng 4 tháng 10, Ngài phái hai đệ tử đến núi Vân Cư cung thỉnh xá lợi Hư Công về Chùa phụng thờ; chiều ngày 18 họ thỉnh về hơn mười viên xá lợi rắn chắc năm màu, sáng trong. Xá lợi tức là linh cốt sau khi hỏa táng, cũng chính là kết tụ tinh khí trong thân các bậc tu đạo hạnh.

Sư phụ đã tán dương Xá Lợi Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân qua bài thơ sau:

Ngũ sắc tân phân kiên cố tử
Vạn đức đoán luyện mãn nguyệt viên
Tinh oánh Giới châu quang chước chước
Xà-cừ Định bảo sắc tiên tiên
Lưu-ly Huệ đăng chiếu pháp giới
Bát nhã trí quả hóa tam thiên
Liên tử đại thiểu khiết như ngọc
Giới luật công đức chúng trang nghiêm.

 

Tạm dịch:

Xá lợi rắn chắc chiếu năm màu,
Vạn đức luyện tu như mặt nguyệt.
Giới châu trong lấp lánh sáng ngời,
Định xà-cừ bảo quý đẹp tươi,
Huệ lưu-ly chiếu khắp pháp giới,
Trí Bát nhã biến hóa tam thiên.
Hạt lớn bé thanh thiết như ngọc
Trang nghiêm công đức giới luật chuyên.
Đệ tử Pháp truyền Tuyên Hóa Cẩn tác.

 

Kinh Kim Quang Minh phẩm Xá Thân nói:

“Xá lợi là do sự huân tu giới định huệ mà thành, không phải dễ dàng mà có được xá lợi.” Thế nên chúng ta lễ bái cúng dường xá lợi cũng như là cung kính cúng dường Tam Bảo vậy. Từ đây Nhân Thiên mất đi vị lãnh đạo chúng sanh thoát ly ba cõi, chỉ còn nương theo pháp nhất ngôn nhất hành của Lão Hòa Thượng như kệ cuối cùng của Ngài:

Hà tuất nghĩ mạng bất đầu thủy
Ngô úy thủy tộc thân trịch giang
Kỳ chư thọ ngã thân nguyện cúng
Đồng chứng Bồ Đề độ chúng sanh
Thỉnh các Pháp lữ, bất tát ưu lự
Sanh tử tuần nghiệp, như tàm phược kiển
Tham mê bất hưu, lao gian ưu hỉ,
Dục trừ thử hoạn, nỗ lực tu luyện,
Diệu khế vô sanh, minh thông tánh địa
Đoạn ái tắng tình, thoát luân hồi hiểm
Tham tịnh tam học, kiền trì tứ niệm
Thệ nguyện viên thành, sắc huyễn lộ điện
Chứng ngộ chân không, vạn pháp nhất thể
Ly hợp bi hoan, tùy duyên phao nước.

Tạm dịch:

Nghĩ tôm mạng nhỏ không lìa nước,
Tôi thương thủy tộc nguyện xuống sông,
Mong sao thọ lãnh thân tôi cúng,
Đồng chứng Bồ Đề độ chúng sanh.
Xin các bạn lữ, chớ có ưu lo
Sinh tử tuần hoàn, như tầm giăng tơ
Tham mê không ngừng, buồn vui tù tội
Muốn trừ hoạn đó, tu luyện cố công
Hợp khế vô sanh, tánh tự suốt thông
Dứt lòng thương oán, thoát hiểm luân hồi
Quán Tam tịnh học, Tứ niệm xứ nương
Thệ nguyện viên thành, thân như sương chớp
Chướng ngộ chân không, vạn pháp nhất đồng.
Tan hợp bi hoan, tùy duyên bọt nước.

Sau khi hỏa hóa thân tôi, xin chư vị hãy lấy tro cốt của tôi tán nhuyễn trộn với dầu, đường, bột… nắn thành viên nhỏ rồi đổ xuống sông, bố thí cho loài thủy tộc. Xin chư vị giúp tôi mãn nguyện; thật đa tạ vô cùng!

Người trả nợ – Hư Vân – đảnh lễ.

 


 

63- Úc Châu hoằng pháp.

Thoáng chốc Sư phụ đã lưu lại Hồng Kông được mười năm. Ngài tuy thân ở Hương Cảng; nhưng tâm thường nghĩ rằng, đừng nói chi Bắc Câu Lô Châu mà ngay cõi Ta Bà này cũng có nhiều nơi mà chúng sanh chưa từng nghe đến Phật Pháp nên Ngài nguyện đem hạt giống Bồ Đề gieo rắc khắp chốn.

Năm 1961 bất chấp mọi gian khổ, Ngài quyết định qua Úc Châu hoằng pháp, nơi mà Phật giáo chưa hề được gieo duyên Ngài đến Sidney và Melburn. Thời ấy người tin hiểu Phật Pháp tại Úc Châu rất ư là ít, nên không Chùa am Tự Viện chi. Một Hội nhỏ sinh hoạt Phật Giáo tại Ú Châu đã thỉnh Ngài đến làm chủ lễ thuyết pháp vào ngày lễ Phật Đản do cư sĩ Lưu Tú Linh, Trường đại học Tuyết Lê phiên dịch. Ngài lưu trú tại Úc Châu một năm, sống nhờ đi dạy Hoa Văn tại một trường Đại học Úc. Vì cơ duyên chưa thành thục nên Ngài không thể phát triển Phật Giáo nơi đó, nhưng với oai nghi nghiêm trang cùng đức hạnh của Ngài khiến bao người Hoa, và dân bản xứ hằng cảm phục người xuất gia. Đây cũng là dịp Ngài gieo duyên tu học Phật Pháp cho họ sau này.

Năm 1962 Ngài từ Úc Châu trở về Hương Cảng và giấy thông hành vốn đã được Lãnh Sự Mỹ chấp thuận nên vào cuối tháng ba, Sư phụ đáp phi cơ đến Hạ Uy Di, nghỉ ngơi một tuần, rồi đến Cựu Kim Sơn (San Francisco) Hoa Kỳ.

 


 

64- Nhân duyên đến Mỹ.

Vào tháng 4 năm 1958 có hai sinh viên du học tại Mỹ đã luôn nhớ lời Sư phụ giáo huấn về trách nhiệm căn bản của người Phật tử: “Tự lợi, lợi người, hoằng pháp lợi sanh”  nên khi vừa đến Thành phố Cựu Kim Sơn, California – Mỹ Quốc, họ liền thành lập Phân Hội Phật Giáo Giảng Đường (Tổng Hội chính tại Hương Cảng.) tại một đường nhỏ Waverly thuộc khu phố người Hoa. Đàm Quả Quyền là đệ tử quy y Ngài qua thư khoảng ba mươi mấy năm trước thuật lại:

“Lúc ấy Phật Giáo Giảng Đường chỉ là một căn phòng nhỏ đơn sơ ở dưới hầm của con đường hẻm. Ban ngày chẳng ai lui tới mà chỉ có mấy chú chuột cống tự tại chạy qua chạy lại và có điều lạ là chúng không hề xúc phạm đến hoa quả cúng trên bàn Phật một mảy may.

Khi Giảng Đường thành lập được vài tháng thì có khoảng mười mấy người tụ họp về vào mỗi tối thứ bảy, rồi số người dần gia tăng lên được vài chục. Cuối năm đó Giảng Đường được dời về đường Pacific, địa điểm rộng rãi hơn có thể chứa được hơn trăm người. Mỗi cuối tuần Hội đều mời các học giả Hoa kiều và Tây phương tới thuyết diễn Phật Pháp. Lúc ấy có nhiều thiện tín vì quá ngưỡng mộ Ngài và muốn Quy y Tam Bảo nên Sư phụ đã phương tiện ban cho họ Pháp danh qua thơ tín trước còn nghi thức Quy y sau này đủ duyên mới cử hành tại Mỹ. Những hội viên khi nhận được Pháp danh mình, ai nấy đều mừng rỡ tựa hồ tái sanh và quyết tâm làm tròn bổn phận người Phật tử là hành trì câu châm ngôn: ‘Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành.’ tức không làm việc ác luôn làm các việc lành.”

Theo lời cư sĩ Quả Chánh:

“Quả Chánh nói: “Lúc đó, tại San Francisco, những người tự xưng là kẻ tôn sùng giáo lý đạo Phật có thể phân làm bốn hạng:

1) Những giáo sĩ truyền giáo đã kết hôn được Hội Phật Giáo Nhật Bản phái tới đặt cơ sở tại Mỹ Quốc;
2) Những người đầu cơ trục lợi, đề xướng Nho, Thích, Đạo—Tam Giáo đồng tôn;
3) Những nhà luận lý học với mớ kiến thức nông cạn đã làm cho Phật giáo bị hỗn tạp, trở thành phương thức “Trung Tây hợp bích”;
4) Những đạo sư Du-già (yoga) của Ấn Độ giáo đến từ xứ Ấn Độ.

Vào thời đó, muốn tìm một tu sĩ đại đức hoằng dương Chánh Pháp có thể nói là “như cầu thố giác” (như tìm sừng thỏ) vậy. Những kẻ muốn học Phật, do thiếu sự chỉ dẫn của bậc lương sư, không biết đường lối để theo, nên phần lớn đều nảy sanh tà tri tà kiến!”

Chứng kiến thảm trạng này, các hội viên Phật Giáo Giảng Đường Cựu Kim Sơn nhất trí thỉnh cầu Sư phụ sang Mỹ hoằng pháp độ sanh. Ngài từ bi hứa khả nhưng đúng vừa lúc Ngài tới Úc Châu giảng đạo, mãi đến tháng ba năm 1962, chư đệ tử tại Mỹ mới được dịp nghinh đón vị Đạo sư mà họ đã ngưỡng mộ bấy lâu.

A child offers flowers to the Venerable Master upon his arrival in San Francisco    Taking a big step in the history of Buddhism

 

(Còn tiếp)