Chinese | Vietnamese

ven_master3

ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH LƯỢC GIẢNG

 Hán dịch: Tam Tạng Sa môn Thật Xoa Nan Đà, người nước Điền, dịch vào đời Đường.

Giảng thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Hoa Kỳ, giảng vào năm 1969 tại Phật Giáo Giảng Đường, San Francisco, California

Phần 1

Phần 2

Pháp âm bài giảng của Hòa Thượng bằng Hoa ngữ

cttbbl

HayTha2



 

bookPhẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới

 



B2. KỆ TỤNG

       Gồm 2 phần:

 C1. Dẫn Đến Kệ Tụng

 C2. Kệ Tụng

 

C1. DẪN ĐẾN KỆ TỤNG

Lúc bấy giờ, Phổ Hiền Bồ tát Ma Ha Tát muốn nói lại nghĩa ấy, Ngài quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-tát Ma-ha-tát dục trùng tuyên thử nghĩa, phổ quán thập phương nhi thuyết kệ ngôn:

Lúc bấy giờ, Phổ Hiền Bồ tát Ma Ha Tát muốn nói lại nghĩa ấy: Ngay lúc ấy đại Bồ-tát Phổ Hiền muốn nói rõ lại ý nghĩa trên. Ngài quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng”: Ngài liền quán sát căn tính và nhân duyên của chúng sinh khắp mười phương và tuyên nói kệ. Quý vị xem, Bồ-tát Phổ Hiền rất từ bi với chúng ta, vì sợ chúng ta còn chưa  rõ được ý nghĩa trong kinh văn nên Ngài nói tiếp kệ tụng để thuyết minh thêm một lần nữa.

 

C2. KỆ TỤNG (gồm ba phần):

  D1. Nêu Bày Nhân Chung

 D2. Hiển Bày Công Đức Thù Thắng Của Kinh

 D3. Tóm Kết Khuyên Thọ Trì

D1. NÊU BÀY NHÂN CHUNG (gồm có hai phần):

E1. Nêu Lên Mười Môn Bằng Mười Bài Tụng Riêng Biệt

E2. Bài Tụng Tổng Kết Vô Tận

E1. NÊU LÊN MƯỜI MÔN BẰNG MƯỜI BÀI TỤNG

Gồm có tám phần:

F1. Bài tụng Lễ kính chư Phật

F2. Bài tụng Xưng tán Như Lai

F3. Bài tụng  Rộng tu cúng dường

F4. Bài tụng Sám hối nghiệp chướng

F5. Bài tụng Tùy hỷ công đức

F6. Bài tụng Thỉnh Phật chuyển pháp luân

F7. Bài tụng Thỉnh Phật trụ thế

F8. Bài tụng gồm ba nguyện sau

 

     F1. BÀI KỆ TỤNG KÍNH LỄ CHƯ PHẬT

Tất cả chư Phật trong ba đời

Ở nơi thế giới khắp mười phương

Tôi đem thân ngữ ý trong sạch

Khắp lạy chư Phật không hề sót

Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền

Phân thân hiện khắp trước Như Lai

Một thân lại hiện sát trần thân

Mỗi thân lạy khắp sát trần Phật

 

Sở hữu thập phương thế giới trung

Tam thế nhất thiết nhân sư tử

Ngã dĩ thanh tịnh thân ngữ ý

Nhất thiết biến lễ tận vô dư

Phổ Hiền hạnh nguyện oai thần lực

Phổ hiện nhất thiết Như Lai tiền

Nhất thân phục hiện sát trần thân

Nhất nhất biến lễ sát trần Phật

Đây là nói về sự kính lễ chư Phật.

“Tất cả chư Phật trong ba đời”: Mười phương chính là Đông, Tây, Nam, Bắc; thêm vào Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc và phương trên cùng phương dưới, hợp tất cả lại thành mười phương. Chùa chiền được gọi là của thập phương thường trụ, bởi chùa chính là nơi chư tăng trong mười phương đều có thể đến ở. Sao lại có chư tăng ở phương trên và phương dưới? Vì trong số chư tăng mười phương, có rất nhiều vị là Thánh Hiền Tăng, Thánh Hiền Tăng là những bậc thánh nhân đã chứng quả, có vị chứng sơ quả A-la-hán, có vị chứng nhị quả, tam quả cho đến tứ quả A-la-hán, hoặc có người là bậc Bồ-tát… quả vị không giống nhau. Bậc thánh nhân chứng quả có thể từ phương trên xuống, cũng có thể từ phương dưới lên, chư Phật cũng ở trong mười phương. Cho nên chùa chiền được gọi là của thập phương thường trụ, là nơi chiêu đãi chư tăng trong mười phương.

Trong số một trăm vị tăng, nhất định có một người tu đạo chân chính, trong một nghìn vị tăng, nhất định có một vị chứng quả A-la-hán. Ở những đại tùng lâm, khi chư tăng quá đường ăn ngọ có lúc đến mấy trăm người, hoặc mấy nghìn người không cố định. Nếu ba nghìn người thì sẽ có ba vị chứng quả A-la-hán ở trong đó, chẳng qua là quý vị không biết ba vị nào mà thôi. Vị A-la-hán cũng không cố ý khiến quý vị nhận ra Ngài, Ngài có vô số hình tướng khác nhau. Lúc hiện ra một vị oai đức lớn, có oai khiến người nể sợ, có đức khiến người kính trọng. Hoặc khi thì hiện thành một người có dáng vẻ rất khờ khạo, vừa ngu dốt lại thô lỗ, khiến ai nhìn qua đều không muốn gặp lại nữa, nhưng đâu ai biết người đó chính là một vị A-la-hán. Cho nên dù vị A-la-hán có xuất hiện trước mặt thì quý vị cũng không nhận ra Ngài đâu, đợi khi Ngài đi rồi, quý vị nhớ lại những hành xử của Ngài mới biết đó chính là một vị A-la-hán, lúc bấy giờ quý vị có đi tìm khắp nơi cũng không tìm được Ngài. Không chỉ A-la-hán như thế mà Bồ-tát cũng vậy, vì thế nên nói: “Đối diện bất thức Quán Thế Âm”, nghĩa là tuy đối diện nhưng quý vị cũng không nhận ra Ngài là Bồ-tát Quán Thế Âm.

Ở núi Thiên Thai tại Trung Qu ốc có ngôi chùa tên là Quốc Thanh. Xưa kia có một vị thái thú (giống như trưởng huyện ngày nay), có lầnchuyện trò cùng Hòa Thượng Phong Can, trụ trì chùa Quốc Thanh:

-Xưa nay Bồ-tát thường thị hiện chốn nhân gian, La-hán cũng thế. Hiện tại có rất nhiều người tu, nhưng tôi cũng chưa nhìn thấy một vị La-hán hay Bồ-tát nào cả .

Hòa Thượng Phong Can đáp:

-Ông muốn thấy Bồ-tát và A-la-hán không? Dễ lắm, trong nhà bếp sau chùa chúng ta có một người nấu cơm, đó chính là Bồ-tát Văn-thù, còn vị nấu nước chính là Bồ-tát Phổ Hiền.

Thái thú lại hỏi:

-Hai vị ấy tên gì?

-Một vị tên Hàn Sơn, còn vị kia là Thập Đắc.

Thái thú mừng rỡ:

-Thế thì tôi phải diện kiến các Ngài một lần.

Phương trượng bảo:

-Được, nếu ông thích gặp thì cứ đi gặp.

Thái thú đến nhà bếp hỏi:

-Ở đây vị nào tên là Hàn San và Thập Đắc vậy?

Có mấy vị chỉ tay nói:

-Hai người ấy chính là Hàn Sơn và Thập Đắc.

Thái Thú nhìn qua thấy tướng mạo hai vị rất xấu, đầu tóc bù xù, râu ria bờm xờm, nói một cách đơn giản là chẳng khác gì hippie (híp pi) thời nay. Nhưng hippie thì đều có ma quỷ bám theo, trên thân luôn toát ra một luồng khí đen, còn hai vị này trên thân tỏa ra ánh sáng sắc vàng.

Nếu quý vị có được thiên nhãn thông thì sẽ thấy hippie ma khí càng lớn thì hắc khí càng mạnh, phía sau luôn có ma quỷ đi theo họ, còn nếu không có thiên nhãn thông thì đương nhiên quý vị sẽ không biết gì, song quý vị cũng còn một điểm để nhận biết đó là những ma quỷ đi theo hippie luôn toát ra một mùi rất hôi. Bản thân kẻ hippie không biết, nhưng những người bình thường khác đều có thể nhận ra.

Thái Thú tuy thấy hai vị ấy nhơ nhớp xấu xí, nhưng vì tin lời của Hòa Thượng phương trượng, Hòa Thượng đã nói hai vị ấy chính là Bồ-tát Văn-thù và Bồ-tát Phổ Hiền, vì thế nên ông hướng về hai vị ấy quỳ xuống đảnh lễ. Hai vị vội hỏi:

-Ông làm gì thế? Sao lại lạy chúng tôi?

Thái Thú thưa:

-Hòa Thượng phương trượng đã mách với con hai vị chính là Bồ-tát Văn-thù và Bồ-tát Phổ Hiền, kính xin nhị vị Bồ-tát từ bi hóa độ cho con!

Hai vị nghe thế nói:

-Phong Can lắm mồm mép! ông ấy thật đa sự, toàn nói bừa!

Thế là hai Ngài lùi lại, nhưng Thái Thú cứ tiến tới, hai Ngài lùi mãi lùi mãi đến vách đá Nguyệt Quang núi Thiên Thai. Thái Thú tận mắt nhìn thấy hai Ngài đi vào trong vách đá. Thì ra vách đá có cửa, cửa vừa mở hai Ngài liền đi vào trong, cánh cửa nhanh chóng khép lại. Thái thú muốn đi theo vào nhưng không kịp, ông liền nói to:

-Hai Ngài hãy độ đệ tử! Xin phát tâm từ bi cứu độ đệ tử!

Hàn San, Thập Đắc liền nói:

-Di-đà không bái mà đuổi theo chúng tôi làm gì?

Thái Thú thưa:

-Ai là Đức Di-đà?

Hàn San, Thập Đắc bảo:

-Hòa Thượng Phong Can chính là hóa thân của Đức Phật Di-đà đến thế giới này để giáo hóa chúng sinh, sao ông không mau đi lễ bái Ngài? Đuổi theo chúng tôi làm gì?

Thái Thú nghe nói vui mừng:

-Ồ! Hòa Thượng phương trượng vốn là hóa thân của Đức Phật Di-đà!

Nói xong, cánh cửa trên vách đá liền khép lại, Thái Thú cũng không vào được. Thế là Thái Thú trở về đi gặp phương trượng, ông muốn cầu Hòa Thượng phương trượng độ cho ông, nhưng vừa vào phòng phương trượng thì Hòa Thượng phương trượng đã viên tịch, ngồi xếp bằng ngay ngắn vãng sanh. Đây thật đúng là đối diện mà để lỡ qua.

Bồ-tát Văn Thù và Bồ-tát Phổ Hiền đã đi rồi, Đức Phật Di-đà cũng đã viên tịch, nhưng may mắn là ông rất dụng công tu hành, nghe nói sau này ông tu hành rất tốt!

“Ở nơi thế giới khắp mười phương: Tất cả đấng Sư Tử trong loài người ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai cũng chính là tất cả chư Phật trong ba đời. Tôiđem thân ngữ ý trong sạch”: Tôi đem ba nghiệp thân miệng ý thanh tịnh nhất, thành khẩn nhất của tôi Khắp lạy chư Phật không hề sót đảnh lễ khắp hết thảy chư Phật, không hề có sự thiếu sót.

“Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền: Bản thân tôi không có được khả năng đi đảnh lễ khắp chư Phật trong ba đời mười phương mà là nhờ tu tập sức mạnh oai thần lớn của hạnh nguyện Phổ Hiền. Phân thân hiện khắp trước Như Lai: Khiến tôi có mặt ở trước khắp tất cả chư Phật, đảnh lễ hết thảy chư Như Lai. Tuy hiện giờ tôi đang đảnh lễ một vị Phật, nhưng cũng chính là đảnh lễ hết thảy các Đức Phật vậy.

“Một thân lại hiện sát trần thân: Một thân này của tôi lại hiện ra vô số thân nhiều như vi trần trong cõi nước. Mỗi thân lạy khắp sát trần Phật: Mỗi một thân lại kính lễ khắp chư Phật nhiều như số vi trần. Đó là hoàn toàn là do Bồ-tát Phổ Hiền gia bị, tôi mới có được cảnh giới như thế. Lễ một vị Phật chính là lễ vô số chư Phật, lễ vô số chư Phật cũng chính là lễ một vị Phật.

Quý vị có thể tu pháp môn “Pháp giới quán” này thì một thân quý vị có thể đảnh lễ khắp hết thảy chư Phật. Quý vị ở tại đây đảnh lễ cũng chính là đảnh lễ trước mười phương ba đời hết thảy chư Phật! Đây cũng giống như sự liên tục ở địa ngục vô gián, nhưng ở đây không phải là địa ngục vô gián mà là pháp giới không ngăn ngại, tu pháp không ngăn ngại.

 

F2.  KỆ XƯNG TÁN NHƯ LAI

Sát trần Phật ở trong một trần

Ðều ngồi giữa chúng hội Bồ tát

Vô tận pháp giới cũng như vậy

Sâu tin chư Phật đều đầy đủ

Tôi đều dùng tất cả âm thinh

Khắp thổ vô tận lời nói hay

Tột tất cả kiếp thuở vị lai

Khen công đức sâu dầy của Phật

 

Ư nhất trần trung trần số Phật

Các xứ Bồ-tát chúng hội trung

Vô tận pháp giới trần diệc nhiên

Thâm tín chư Phật giai sung mãn

Các dĩ nhất thiết âm thanh hải

Phổ xuất vô tận diệu ngôn từ

Tận ư vị lai nhất thiết kiếp

Tán Phật thậm thâm công đức hải

 

Đó là xưng tán Như Lai.

“Sát trần Phật ở trong một trần: Ở trong mỗi hạt vi trần đều có chư Phật nhiều như số vi trần của cõi nước. Ðều ngồi giữa chúng hội Bồ tát: Ở trong chúng hội của Phật đều có Bồ-tát, La-hán, Thanh văn, Duyên giác, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni cho đến hết thảy chúng sinh. Vô tận pháp giới cũng như vậy: nơi pháp giới vô cùng vô tận này vi trần cũng là vô tận. Sâu tin chư Phật đều đầy đ: tôi tin chắc rằng trong pháp giới, các thế giới nhiều như số cực vi trần đều có chư Phật đông đầy.

“Tôi đều dùng tất cả âm thinh, khắp thổ vô tận lời nói hay”: Mỗi một thân tôi đều dùng tất cả âm thanh như biển phát ra khắp cả những âm thanh vi diệu nhiều vô cùng vô tận và đều dùng tất cả âm thanh ấy để ca ngợi chư Phật.

“Tột tất cả kiếp thuở vị lai, khen công đức sâu dầy của Phật: Tận cùng vị lai hết thảy số kiếp luôn ca ngợi công đức thâm sâu vô lượng vô biên lớn như biển cả của chư Phật.

 

F3. BÀI KỆ TỤNG TU HẠNH CÚNG DƯỜNG

Sắm đồ rất đẹp: nào tràng hoa

Kỹ nhạc, hương, hoa cùng tàn lọng

Các thứ trang nghiêm đẹp như vậy

Tôi dùng cúng dường chư Như Lai.

Nào là y phục, các thứ hương:

Phấn hương, hương xông cùng đèn đuốc

Mỗi món đều như núi Tu Di

Tôi đem cúng dường các đức Phật.

Do nơi tâm thắng giải rộng lớn

Sâu tin tất cả Phật ba đời

Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền

Khắp đem cúng dường các đức Phật.

 

Dĩ chư tối thắng diệu hoa man

Kỷ nhạc đồ hương cập tán cái

Như thị tối thắng trang nghiêm cụ,

Ngã dĩ cúng dường chư Như Lai,

Tối thắng y phục tối thắng hương,

Mạc hương, thiêu hương dữ đăng chúc,

Nhứt nhứt giai như diệu cao tụ,

Ngã tất cúng dường chư Như Lai,

Ngã dĩ quảng đại thắng giải tâm,

Thâm tín nhứt thiết tam thế Phật,

Tất dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện lực,

Phổ biến cúng dường chư Như Lai.

 

Đây là nói về hạnh quảng tu cúng dường.

“Sắm đồ rất đẹp: nào tràng hoa”: chữ ‘đem’ giống như chữ ‘dùng’. Tôi dùng vô số tràng hoa đẹp nhất và thù thắng nhất. Chúng ta cúng Phật, nên dùng những vật phẩm tốt đẹp nhất, không nên đem những đồ vật mà ngay chính chúng ta cũng không thích để dâng cúng. ‘Hoa’ là các loại hoa; ‘mạn’ là dùng hoa kết thành từng tràng,  là vật phẩm cúng dường thuộc vào loại tràng phan.

Kỹ nhạc, hương, hoa cùng tàn lọng”: Lại hát lên vô số bài ca, trổi lên vô số âm nhạc để tán thán Đức Phật. Hương xoa là một loại nước hoa, khi bôi vào người thì tỏa ra  mùi thơm. Dù, lọng: dù là vật có tán giống như màn che, xung quanh có tua rủ xuống trông rất đẹp; lọng chính là bảo cái. Nếu quý vị khai mở được thiên nhãn thông thì có thể thấy trong hư không có rất nhiều tràng phan, bảo cái. Đó chính là những vật phẩm cúng dường mà hết thảy Bồ-tát dâng lên cúng dường chư Phật.

“Các thứ trang nghiêm đẹp như vậy, tôi dùng cúng dường chư Như Lai”: Vô số vật phẩm trang nghiêm như trên đã nói, tôi đều đem cúng dường khắp cả các đức Như Lai nhiều như số vi trần trong tất cả cõi nước chư Phật.

“Nào là y phục, các thứ hương”: Tôi dùng y phục và hương thơm tốt nhất để cúng dường chư Phật. Phấn hương, hương xông cùng đèn đuốc”: Là hương bột, hương chiên đàn dùng để đốt và đèn nến cúng dường trước Phật. Mỗi món đều như núi Tu Di”: Tôi quán tưởng vô số những vật dụng trang nghiêm vi diệu tôi dùng cúng dường chư Phật đều lớn như núi Tu-di, nhiều như nước biển lớn. Tôi đem cúng dường các đức Phật”: Tôi đem những vật báu ấy cúng dường các Đức Như Lai trong mười phương.

“Do nơi tâm thắng giải rộng lớn”: Hạnh cúng dường tôi tu là hạnh cúng dường rộng lớn. Người thông thường không hiểu rõ nhưng tôi biết rõ tâm cúng dường rộng lớn này là tâm thắng giải. Tâm cúng dường này của tôi là tâm cúng dường pháp giới, dùng tâm pháp giới để cúng dường khắp pháp giới chư Phật, đem pháp giới Phật (Dharma Realm of The Buddhas) khế nhập vào pháp giới tâm (Dharma Realm of The Mind) nên gọi là tâm thắng giải. Sâu tin tất cả Phật ba đời”: tin sâu là niềm tin chân thật, niềm tin không cùng tận. Cho dù pháp giới, hư không có tận cùng, chúng sinh, nghiệp chướng của chúng sinh, phiền não của chúng sinh đều hết sạch thì niềm tin này của tôi cũng không bao giờ cùng tận. Tôi tin tưởng một cách sâu sắc chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền”: Tôi luôn nương vào sức hạnh nguyện tu hành của Bồ-tát Phổ Hiền. Khắp đem cúng dường các đức Phật”:Tôi dùng tâm lượng pháp giới để cúng dường chư Phật khắp trong pháp giới.

 

F4. BÀI KỆ TỤNG SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG

Từ xưa đã tạo nhiều nghiệp ác

Ðều do ba độc tham, sân si

Từ thân khẩu ý mà gây nên

Tất cả nay tôi đều sám hối.

 

Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,

Giai do vô thủy tham, sân, si,

Tùng thân ngữ ý chi sở sanh,

Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.

Đây là nói về sám hối nghiệp chướng.

Vì sao phải sám hối? Vì “Tội lớn bằng trời, sám hối liền tiêu” (Di thiên đại tội, nhất sám tiện tiêu), chỉ sợ quý vị không chịu sám hối, chứ nếu sám hối thì bất kể phạm tội nghiệp gì cũng đều có thể tiêu trừ. Khổng tử cũng đã nói: “Có lỗi chớ ngại cải đổi” (Quá tắc vật đan cải). Quý vị có lỗi thì nên mau sửa đổi, nếu ngại cải đổi thì lỗi lầm sẽ ngày càng nhiều. “Chịu sửa lỗi, lỗi biến thành không” (Quá năng cải, quy ư vô),  nếu chịu cải đổi lỗi lầm thì lỗi lầm sẽ không còn nữa, còn như quý vị cố tình che giấu không cho ai biết lỗi lầm của mình thì lỗi lầm sẽ ngày một nặng hơn, ngày một nhiều thêm. “Người ngu không thấy lỗi

[1]”: Đa số người ngu đều cho rằng mình không có lỗi lầm. “Tiểu nhân giấu lỗi[2]”: Tiểu nhân phạm lỗi thì cố che giấu tội lỗi của mình, không cho ai biết. “Quân tử sửa lỗi[3]”: Người quân tử có lỗi thì vui vẻ sửa đổi. ‘Thánh nhân ít lỗi[4]’: Bậc thánh nhân hiếm khi phạm lỗi, còn Phật và Bồ-tát không hề phạm lỗi lầm.

“Từ xưa đã tạo nhiều nghiệp ác”: Những nghiệp ác tôi đã tạo ra từ trước đến giờ, trong vô lượng kiếp quá khứ đến nay. Vì sao ta lại tạo ra quá nhiều nghiệp ác như thế? “Ðều do ba độc tham, sân si”: Đều vì từ vô thủy kiếp đến nay mình luôn khởi tâm tham, tâm sân, tâm si, rồi từ đó tạo nghiệp ác. Do tham không biết chán nên tạo ra rất nhiều nghiệp tội, nếu không đạt được vật mình ưa muốn liền sinh phiền não và ngay đó tâm sân có mặt.

Vì sao phát sinh phiền não?  Chính vì ngu si. Mở đầu là tâm tham, gốc rễ của tâm tham chính là ngu si, nó sinh ra từ vô minh. Từ thân khẩu ý mà gây nên”: Từ thân của ta tạo ra nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm; từ ý niệm của ta tạo ra tham, sân, si;  và từ miệng của ta phát ra lời nói hoa mỹ, lời nói dối gian, lời nói hung ác, lời nói đâm thọc. Tất cả nay tôi đều sám hối”: Tất cả mười loại nghiệp ác đã tạo, nay tôi đều xin sám hối, cải đổi lỗi lầm, làm mới lại chính mình.

Nói đến “Si”, si này là một loại chấp trước. Thường người ta khi làm bất kỳ việc gì cũng đều có sự chấp trước vào việc đó. Người tham tiền tài thì có sự chấp mắc vào tiền tài, kẻ háo sắc đẹp thì có sự chấp mắc vào sắc đẹp, người thích viết văn thì có sự vướng mắc nơi văn chương, người thích làm thơ thì có sự vướng mắc nơi chữ nghĩa. Hôm nay tôi sẽ kể cho quý vị nghe một câu chuyện về sự chấp chữ nghĩa của một hòa thượng thích làm thơ. Vị hòa thượng này thích dùng văn thơ để giao lưu bạn bè, bệnh chấp ấy rất nặng, phàm hễ ai là người có học vấn đến viếng chùa thì hòa thượng đều vui mừng chào đón, người không có học thức đến chùa đều không được tiếp đón. Người có học vấn đến chùa nếu có thể làm được hai bài thơ thì được hòa thượng mời ở lại dùng cơm, hay nghỉ qua đêm đều được cả; nếu như không biết làm thơ thì đừng nói đến chuyện ăn cơm hay nghỉ lại mà ngay cả cổng chùa cũng không được bước vào. Bởi vì hòa thượng mắc phải bịnh cố chấp này nên liền bị ma chướng. Ma chướng gì?

Một tối nọ, có một vị khách ghé lại chùa, từ ngôi chùa này đi đến một làng quê gần đó đường hãy còn rất xa, cho nên vị khách muốn nghỉ lại qua đêm trong chùa. Chú sa-di bảo vị khách: “Nếu thí chủ muốn nghỉ lại đây thì sư phụ của tôi có một qui định. Thí chủ phải làm được một bài thơ hay một bài phú hoặc một bài văn thì mới được ở lại chùa. Thí chủ biết viết văn, làm thơ hay viết phú?” Vị khách đáp: “Cả ba tôi đều biết.” Thật ra, vị khách này ngay cả chữ cũng không nhận ra nhưng vì trời sắp tối, nên đã nói dối để được nghỉ lại qua đêm và ăn cơm no bụng rồi tính tiếp. Chú sa-di nhỏ trở vào báo lại với sư phụ: “Bạch sư phụ, có một vị khách bảo rằng ông biết viết văn, làm thơ, làm phú, thi ca từ phú cái gì cũng biết.” Sư phụ liền bảo: “Vậy thì mời ông ấy ở lại.” Thế rồi chú sa-di cho vị khách ở lại qua đêm, còn làm nhiều món chay rất ngon để đãi khách.

Vị khách này có lẽ mấy ngày rồi chưa được ăn cơm nên chẳng nghĩ nhiều đến việc làm thơ hay không làm thơ, trước ăn một bụng no nê rồi hãy tính. Dùng cơm xong, chú sa-di mang đến một bình trà rồi lui ra ngoài khóa kín cửa lại, đề phòng vị khách bỏ trốn để mai còn khảo tài văn thơ của khách. Người này vì ăn quá no nên nửa đêm đau bụng, muốn đi vệ sinh. Nhưng khi mở cửa đi ra thì bên ngoài đã bị khóa chặt, không thể mở được. Chẳng biết làm sao, khách bèn quơ đại một bình hoa  rồi đi vào đó. Một bình không đủ, khách lấy tiếp bình hoa khác và xả vào đó. Đi xong, khách lấy bình trà trên bàn uống sạch. Sau đó lại đi, lần này tận dụng luôn cả ấm trà, trong ấm trà toàn đầy…

Sáng hôm sau thức dậy, chú sa-di liền đến mở cửa và mang cơm đến cho khách. Đợi khách cơm nước xong, chú sa-di liền hỏi: “Tối qua ngài đã làm được bài thơ nào chưa?” Khách đáp: “Tôi đã làm hai bài, ở trong bình hoa ấy.” Chú sa-di nghe khách nói đã làm được hai bài thơ bèn yên tâm mở cửa cho khách đi. Sau khi khách đi rồi, vị hòa thượng liền hỏi chú sa-di: “Vị khách hôm qua có làm được bài thơ nào không?” Chú sa-di thưa: “Bạch sư phụ có ạ! Ông ta làm được hai bài thơ, để trong bình hoa ấy!” Hòa thượng nói tiếp: “Thế con mang ra cho ta xem xem!”. Chú sa-di bèn đi vào phòng, thò tay vào bình hoa lấy thơ, kết quả là nắm phải một tay phân. Chú nghĩ, chắc là nằm trong bình hoa bên kia, rồi tiếp tục thò tay vào lấy, lại vớ thêm một tay phân. Chú định lấy nước trong bình trà rửa tay, nào ngờ đổ ra cũng toàn là phân! Hòa thượng đứng bên ngoài giục đệ tử: “Con mang tất cả ra đây, thơ khách làm đâu?” Chú sa-di đành đưa hai bàn tay bẩn ra, mếu máo: “Sư phụ xem, đây chẳng phải là ‘hai tay phân’ sao!” (Trong tiếng Hán có nhiều từ phát âm gần giống nhau và nhiều từ đồng âm, nên ‘hai bài thơ’ vừa đúng giống với âm của ‘hai tay phân’ liang shou shi. Đồng thời, trong tiếng Hán, lượng từ ‘bài’ phát âm giống ‘tay’, nên khi nói ‘trái một tay, phải một tay’ khiến người nghe sẽ lầm nghĩ là ‘tay trái một bài, tay phải một bài’. Đây là lối truyện cười chơi chữ thường thấy trong tiếng Hán ). Về sau lão hòa thượng này không cho ai ở lại chùa và cũng không còn bắt ai làm thơ nữa. Hai bình phân của vị khách đã trị hết bịnh chấp chữ nghĩa của ngài.

 

[1] Nguyên văn: Ngu nhân vô quá  愚人無過

[2] Nguyên văn: Tiểu nhân văn quá 小人文過

[3] Nguyên văn: Quân tử cải quá 君子改過

[4] Nguyên văn: Thánh nhân quả quá 聖人寡過

 

F5. BÀI KỆ TỤNG TÙY HỶ CÔNG ĐỨC

Mười phương tất cả loài chúng sanh

Nhị thừa:  Hữu học cùng Vô học

Hết thảy Như Lai và Bồ-tát

Tất cả công đức đều tùy hỷ.

 

Thập phương nhứt thiết chư chúng sanh,

Nhị thừa hữu học cập vô học,

Nhứt thiết Như Lai dữ Bồ tát,

Sở hữu công đức giai tùy hỷ.

 

Đây là nói về tùy hỷ công đức.

“Mười phương tất cả loài chúng sinh”: Chúng sinh nghĩa là do các duyên hòa hợp mà sinh. Giống như làm người, không phải đơn giản mà được làm người, quý vị trước phải làm những việc của con người mới có thể làm người; nếu quý vị làm việc của quỷ thì tương lai sẽ thành quỷ. Chúng sinh cũng có thể nói là từ một tâm niệm hiện tiền này mà tạo thành. Tâm niệm hiện tại của quý vị muốn làm Phật thì tu Phật đạo, tương lai sẽ được thành Phật. Tâm niệm hiện tại của quý vị muốn thực hành Bồ-tát đạo để làm lợi ích cho mọi người, lợi mình, lợi người khác, tự mình giác ngộ, giác ngộ người khác thì có thể làm Bồ-tát. Nếu quý vị muốn tu hạnh Thanh văn thì sẽ chứng đắc quả A-la-hán. Nếu quý vị muốn tu Duyên giác đạo thì sẽ chứng đắc quả vị Duyên giác. Quý vị muốn sinh thiên thì thực hành năm giới, mười thiện. Quý vị muốn làm người thì phải thọ trì năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, được như thế mới có thể làm người. Quý vị muốn làm A-tu-la thì ngày ngày đấu tranh với người khác, sinh tâm sân hận, như thế có thể thành A-tu-la. Nếu quý vị muốn làm súc sinh thì tạo một số việc ngu xuẩn liền có thể làm súc sinh. Nếu quý vị muốn đọa ngạ quỷ thì làm một số chuyện mờ ám, hạ tiện, nhân đó sẽ được làm quỷ. Nếu quý vị muốn vào địa ngục thì cứ tạo nhiều tội nghiệp, nhất định sẽ được vào địa ngục. Tất cả đều do tâm tạo. Trong bản Kinh Hoa Nghiêm này cũng nói rõ:

Nếu người muốn biết được

Hết thảy Phật ba đời

Nên quán tánh pháp giới

Tất cả do tâm tạo

 

Nhược nhân dục liễu tri

Tam thế nhất thiết Phật

Ưng quán pháp giới tánh

Nhất thiết duy tâm tạo

 

Vốn không có thiên đường, cũng không có địa ngục; không có Phật, cũng không có Bồ-tát và cũng chẳng có người… tất cả đều không có! Thế tại sao lại có? Tất cả đều do một tâm niệm hiện tiền của chúng ta tạo thành, cho nên mới có vô số hình tướng trong mười pháp giới. Nếu chúng ta một niệm chẳng sinh thì ngay cả tâm cũng không có.  

Không tâm không niệm phúc vô biên

Dục vọng, tạp niệm tạo tội khiên.  

Vô tâm vô niệm phúc vô biên,

Tư dục tạp niệm thị tội khiên.

 

Nếu quý vị vô tâm cùng vô niệm thì là phúc đức vô biên. Nếu quý vị ích kỷ, tham dục tự lợi thì đó là tạo tội. Cho nên Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc” (Nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí tuệ đức tướng, đản dĩ vọng tưởng chấp trước bất năng chứng đắc). Chúng sinh đều có Phật tánh, chúng sinh cũng đều không có Phật tánh. Vì sao nói chúng sinh cũng đều không có Phật tánh? Nếu quý vị không tu hành thì không có Phật tánh, nếu quý vị tu hành thì có Phật tánh. Lại có thể nói tu cũng có Phật tánh, không tu cũng có Phật tánh. Quý vị tu, Phật tánh vẫn có; quý vị không tu, Phật tánh ấy vẫn tồn tại. Cho nên nói tu cũng không có mà không tu cũng không có. Vì sao nói như thế? Nếu quý vị chấp trước mà nói: ‘tôi có Phật tánh’, như thế là đã có sự chấp trước. Nếu quý vị không chấp trước thì có mà như chẳng có, không mà như chẳng phải không. Tu cũng chẳng có, không  tu cũng chẳng có, quý vị không nên chấp vào đấy! Câu chuyện tôi vừa kể giống như chuyện vui cười nhưng kỳ thật chính là phá sự chấp trước của con người. Vì sao chúng ta không thành Phật? Vì có sự chấp trước, vì thế chúng ta trước phải xả bỏ chấp trước, sau đó mới có thể thành Phật.

“Nhị thừa: Hữu học cùng Vô học”: Nhị thừa là Thanh văn và Duyên giác. Từ sơ quả đến quả thứ ba gọi là bậc hữu học, quả A-la-hán thứ tư là bậc vô học. Hết thảy Như Lai và Bồ-tát”: cho đến hết thảy Như Lai và Bồ-tát. Tất cả công đức đều tùy hỷ”: công đức của các bậc Thanh văn, Duyên giác, hữu học, vô học, tôi đều tuy hỷ; công đức của Phật tôi cũng tùy hỷ; công đức của Bồ-tát tôi cũng tùy hỷ; công đức nhỏ như vi trần tôi cũng tùy hỷ, công đức lớn như núi Tu-di tôi cũng tùy hỷ. Tôi không vì công đức nhỏ mà không tùy hỷ, chỉ tùy hỷ những công đức lớn; cũng chẳng phải công đức lớn tôi không tùy hỷ, chỉ tùy hỷ những công đức nhỏ; bất luận là công đức lớn hay nhỏ, tôi đều tùy hỷ. Vì thế nên nói:

            Chớ cho điều ác nhỏ mà làm

            Chớ cho điều thiện nhỏ mà không làm.

Quý vị không nên cho rằng điều ác này nhỏ mà làm, cũng không nên cho rằng điều thiện kia không lớn nên không làm. Quý vị phải biết tất cả các ngọn núi đều do vi trần tích tụ mà thành, một hạt vi trần tuy nhỏ nhưng tích tụ nhiều hạt lại thì sẽ biến thành một ngọn núi; một điều thiện tuy nhỏ nhưng làm nhiều điều thiện nhỏ sẽ biến thành vô lượng vô biên.

 

[1] Hạnh đầu-đà (Đầu-đà-hạnh 十二頭陀條): Tu sĩ Phật giáo lập chí giữ mười hai hạnh sau: mặc y phần tảo, mặc ba y, tự đi khất thực, không ăn quá ngọ, ngày ăn một bữa, ăn vừa đủ, ở chỗ thanh vắng, ngồi ở nơi gò mã, ngồi ở dưới gốc cây, ngồi ở vùng đất trống, ngồi ở vùng đất cỏ, thường ngồi không nằm.

[2] Lá bối (bối diệp貝葉; Gđ: Bối-đa-la; S: Pattra ): lá cây đa-la. Cây có thân là lá giống như cây cọ, cổ đại Ấn độ người ta dùng là này để chép kinh điển.

[1] Trời rồng tám bộ (hâ: Thiên long bát bộ 天龍八): tám bộ chúng gồm Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. Vì trời, rồng là ở bậc cao nhất trong tám bộ nên được trưng dẫn.  

 

F6. BÀI KỆ TỤNG THỈNH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Các đấng soi đời khắp mười phương

Vừa mới chứng nên đạo Chánh Giác

Tất cả nay tôi đều khuyến thỉnh

Chuyển xe chánh pháp diệu vô thượng

 

Thập phương sở hữu thế gian đăng

Tối sơ thành tựu Bồ-đề giả

Ngã kim nhất thiết giai khuyến thỉnh

Chuyển ư vô thượng diệu pháp luân

 

Đây là Thỉnh chuyển pháp luân.

“Các đấng soi đời khắp mười phương”: Mười phương này cũng chính là pháp giới, pháp giới cũng chính là mười phương. “Thế gian đăng” [1]: Phật là ngọn đèn sáng ở thế gian. Khi Phật chưa ra đời thì cả thế gian đều tối tăm, đầy dẫy bàng môn ngoại đạo, tà sư thuyết pháp. Sao gọi là tà sư? Tà sư là người có tri kiến không chân chính, vị ấy không thể dạy cho người chánh tri chánh kiến mà chỉ biết dạy người tà tri tà kiến, dẫn dắt con người vào cảnh giới ma. Một người có tà tri tà kiến chính là đen tối; quý vị có chánh tri, chánh kiến tức là ánh sáng.

Trước đây tôi từng nói:

 

Mộng đổng truyền mộng đổng,

Nhất truyền lưỡng bất đổng;

Sư phụ hạ địa ngục,

Đồ đệ vãng lý củng.

Mê muội truyền mê muội

Truyền nhận cả hai mê

Sư phụ đọa địa ngục

Đệ tử liền theo gót.

Đó chính là tà sư thuyết pháp. Vị ấy cho quý vị uống một ít thuốc để quý vị đạt được cảnh giới hư không, sau đó người ấy chứng minh cho quý vị rằng: “Đây chính là hư không, hư không chính là như thế, lần này con đã chứng quả rồi, đã đạt đến cảnh giới Tứ thiền”. Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền đây chẳng thành vấn đề, những cảnh giới này hết sức bình thường. Thậm chí người ấy còn nói: “Giờ con đã đạt được cảnh giới hư không rồi, cùng với Phật chẳng khác, Phật chẳng qua cũng chỉ như thế này thôi”. Đó chính là làm lệch lạc tri kiến người khác, chỉ người đi sai đường. Bản thân người ấy còn không hiểu rõ, mơ mơ hồ hồ, đó gọi là “mộng đổng”. Mộng đổng nghĩa là không biết gì cả, việc gì cũng không hiểu rõ ràng, mờ mờ mịt mịt. Người ấy tự mình đã mê mờ, lại còn muốn người khác học theo sự mê mờ này của mình, đây gọi là mê muội truyền mê muội, vừa truyền cả hai đều trở nên mê muội. Vì sao cả hai đều mê muội? Vì người mơ hồ truyền cho người mờ mịt, đó chẳng phải cả hai đều mê mờ sao! Điều này cũng giống như  người mù dẫn đường cho kẻ khác, bản thân mình đã không thấy đường lại còn dẫn đường cho người không có mắt. Trong khi người không có mắt  cho rằng người dẫn đường mình mắt sáng, họ đâu biết bản thân người dẫn đường cũng chẳng thấy đường đi, chỉ là kẻ ấy muốn gạt họ, nên dẫn đường cho họ.

Bản thân sư phụ còn không hiểu rõ tu hành phải như thế nào, cứ mê mê mờ mờ như thế mà chạy vào địa ngục. Còn đệ tử thì nghĩ: “Sư phụ đã đi trước dẫn đầu bảo đảm không lầm đường”, thế là đệ tử bám theo sau sư phụ đi. Nhưng vừa đến cửa thì cửa đã đóng lại, đệ tử dùng mõm ủi cửa ngục giống như lợn, mong muốn ủi bật cửa ra.  Đợi cửa ngục được đẩy ra rồi, sư phụ nhìn thấy đệ tử liền hỏi:

-Ngươi đến đây làm gì?

Đệ tử đáp:

– Thầy là sư phụ đã đến đây rồi, phận con là đệ tử đương nhiên phải theo thầy! Đây là nơi nào vậy sư phụ?

Sư phụ đáp:

-Hiện tại sư phụ còn chưa rõ lắm, không biết đây là Tịnh độ của Đức Phật nào.

Lát sau, quỷ Dạ-xoa đến bảo:

-Ông làm Thầy mà không có tâm dạy đệ tử cho tốt, dùng lời không thật để dối gạt người, vì thế, lần này phải đến địa ngục rút lưỡi để chịu cực hình!

Sư phụ liền bị đọa vào địa ngục rút lưỡi. Người đệ tử này tuy không dối gạt người nhưng cũng đã làm một số chuyện xấu. Quỷ Dạ-xoa bảo:

-Bắt người này bỏ vào trong chảo dầu rán giòn.

Người đệ tử hốt hoảng:

-Lần này tiêu rồi sư phụ ơi! Sư phụ gạt người bị đọa vào địa ngục rút lưỡi, tội sư phụ rất đáng! Bởi sư phụ đã làm chướng ngại người khác. Con theo sư phụ học một mớ hồ đồ này cũng đã tạo nên rất nhiều tội nghiệp, bị chiên trong vạc dầu sôi, tội này thật khó mà nhẫn chịu được!

Sư phụ than:

-Nay sư phụ chẳng có chú thuật gì để niệm, cũng chẳng có biện pháp nào cả, sư phụ không thể cứu được con! Ngay chính sư phụ cũng không thể cứu được bản thân mình.

Vị sư phụ này dẫn theo một đoàn đệ tử vào địa ngục chịu khổ. Bởi vậy nên nói tà sư thuyết pháp dẫn người lầm lạc, đưa người đi vào địa ngục.

Chúng ta tu hành cần phải tìm học với bậc thiện tri thức, thiện tri thức là người trí tuệ. Chúng ta học đạo cần phải học theo người có trí tuệ, không nên học theo người ngu si. Người có trí tuệ là người có luận lý, có tri kiến chính xác, không bao giờ dẫn người đi vào đường tà. Trước khi Phật ra đời, trên thế gian này toàn là những vị Thầy mê mờ.  Phật xuất thế giống như ánh đèn chiếu sáng khắp cả thế gian.

“Vừa mới chứng nên đạo Chánh Giác”: Người vừa mới thành tựu Bồ-đề chính là vị Phật mới thành tựu quả Phật. Ai là người vừa mới thành tựu Bồ-đề? Mọi người đều là người mới thành tựu Bồ-đề. Bồ-đề là gì? Có người nói: “Tôi nghe Hoà Thượng giảng pháp rằng: Bồ-đề chính là giác đạo, giác đạo chính là Bồ-đề”. Vậy “giác đạo”, giác là giác đạo gì? đạo làm sao để giác? Quý vị hiểu rõ tất cả việc ác đều không nên làm, tất cả việc thiện đều cần phải làm, đó chính là giác ngộ, đó chính là giác đạo. Nếu quý  vị chỉ biết làm việc ác mà không biết làm việc thiện thì đó cũng là giác đạo, nhưng đạo mà quý vị giác ngộ là ác đạo. Cho nên quý vị biết làm lành, không làm ác, đó chính là giác đạo. Giác đạo như thế càng bước càng cao, giống như cây tre, cây trúc, mắt sau cao hơn mắt trước, đạo Bồ-đề cũng giống như thế, quý vị phải bước sau cao hơn bước trước, phải từng bước lên cao. Từ phàm phu đến Phật, mỗi bước thăng hoa, đó chính là giác ngộ con đường lành, còn gọi là Bồ-đề. Nếu quý vị từng bước xuống thì sao? Đó là quý vị giác ngộ con đường ác. Cho nên nói: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt”, nghĩa là tiểu nhân đi xuống, còn quân tử thì đi lên.

Tối sơ thành tựu Bồ-đề giả chính là người ban đầu thành tựu quả vị Phật. Làm thế nào để thành tựu quả vị Phật ban đầu này? Chúng ta biết tụng kinh là tu hành, niệm chú cũng là tu hành, thực hành Lục độ vạn hạnh của Bồ-tát cũng là tu hành.  Nhưng lúc ban đầu, khi chưa có Phật, không ai biết đến Lục độ vạn hạnh, cũng không ai hiểu rõ phải tu hành như thế nào, cũng không có pháp môn tụng kinh, niệm chú. Thế mọi người phải làm sao để thành Phật?

Hiện giờ chúng ta nói, quý vị nếu thường tụng chú Lăng-nghiêm thì trong bảy đời đều được giàu có giống như vua dầu hỏa, có người nghe nói như thế liền ra sức tụng chú Lăng-nghiêm. Vì cầu giàu sang mà tụng chú Lăng-nghiêm, thế là sai! Tuy phước báu tụng chú Lăng-nghiêm ở mức độ thấp nhất cũng được giàu sang bảy đời như vua dầu hỏa, nhưng mục đích tụng chú Lăng-nghiêm thật sự không  phải để cầu giàu sang mà là muốn được thành Phật. Quý vị tụng chú Lăng-nghiêm liền có thể đạt đến quả Bồ-đề, có thể từng bước thăng hoa, từng bước lên cao. Nếu quý vị được giàu sang như vua dầu hỏa thì cũng chỉ là sự giàu có của thế gian mà thôi, sự giàu có xuất thế mới là giàu có thật sự.

Cho nên phải là người có thiện căn mới có thể tụng niệm chú Lăng-nghiêm và chú Đại Bi. Nếu quý vị không có thiện căn thì đừng nói chi đến chuyện tụng niệm mà ngay cả tên gọi của chú Đại Bi và chú Lăng-nghiêm cũng không nghe được.

Bây giờ quý vị thử tính xem trên thế gian này có bao nhiêu người không nghe đến tên, không được tụng chú Lăng-nghiêm? Có bao nhiêu người không nghe được tên, không được tụng chú Đại Bi? Hôm nay tôi thấy Quả Ninh dạy mọi người tụng chú Đại Bi, đây chính là bài dạy tu hành rất tốt. Nếu mọi người muốn học thì nên giảng cho mọi người nghe về lợi ích của việc trì tụng chú Đại Bi, dạy mọi người đều biết đọc, biết trì tụng. Người có thể trì tụng chú Đại Bi, chú Lăng-nghiêm thì những thành tựu sau này đều không thể nghĩ bàn, không chỉ làm vua dầu hỏa mà còn có thể làm quốc vương.

Chúng ta tụng kinh, trì chú chính là để thành tựu Bồ-đề, nhưng vị Phật ban đầu thành tựu Bồ-đề,  rốt cuộc Ngài đã trì chú gì, tụng kinh gì? Trong vô lượng kiếp ban đầu, vị Phật đầu tiên khai mở giáo pháp cho thế giới này, Ngài vốn là Phật, không cần phải trì niệm gì cả. Vì sao nói vốn là Phật? Vì vị Phật ấy không thể nói là vị Phật đầu tiên. Ai thành tựu đạo nghiệp thì đó chính là người thành tựu Bồ-đề trước nhất. Ai chưa thành tựu đạo nghiệp thì người đó không phải là người thành tựu Bồ-đề. Vị Phật đầu tiên ư? Xưa nay Ngài vốn hiện hữu. Cũng như Thiên Chúa đã dựa theo ý nghĩa của vị Phật đầu tiên này trong Phật Giáo mà biến hoá thành, nên gọi là Thiên Chúa.

“Tất cả nay tôi đều khuyến thỉnh”: Con nay đều thỉnh cầu chư Phật và vị thành Phật đầu tiên đó trong mười phương ba đời. Cầu thỉnh các  Ngài làm gì?“Chuyển xe chánh pháp diệu vô thượng”: Cầu thỉnh các Ngài vận chuyển bánh xe pháp vô thượng. “Chuyển” chính là chuyển động; “vô thượng” là không có gì cao hơn; “diệu pháp luân” chính là bánh xe pháp bất khả tư nghì.

Giảng kinh thuyết pháp hiển nhiên là chuyển pháp luân; tụng kinh, trì chú, ấn tống kinh sách cũng là chuyển pháp luân. Giống như chiếc máy photo này của chúng ta, chỉ cần quý vị bấm nút điều khiển như vầy thì nó sẽ in ra, quý vị không bấm nút thì nó không in, quý vị thấy có kỳ diệu không! Đây cũng là một dạng biểu hiện của việc chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu. Đó là lấy ví dụ chúng ta có thể nhìn thấy được chứ kỳ thật, bánh xe pháp nhiệm mầu này dầu chúng ta có nhìn cũng chẳng thấy, nghĩ cũng chẳng tới, vì nó vốn là “Bặt đường ngôn ngữ, dứt chỗ tâm hành” (ngôn ngữ đoạn đoạn, tâm hành xứ diệt). Tất cả những ngôn từ đều không có cách nào hình dung được, tâm quý vị muốn đi theo lối xưa nay cũng bặt luôn, không còn lối nữa. Cho nên nói:

“Miệng muốn nói nói chẳng nên lời

Tâm muốn nghĩ niệm đâu chẳng thấy”

Khẩu dục ngôn nhi từ táng,

Tâm dục ngôn nhi lự vong.

Miệng quý vị muốn nói nhưng tìm chẳng ra lời, tâm quý vị muốn nghĩ nhưng tư duy bít lối, đó chính là đang chuyển bánh xe pháp vi diệu bất khả tư nghì. Có người nói: “Tôi chẳng thấy có vị Phật nào trên thế gian chuyển bánh xe diệu pháp”. Đó là do quý vị ít đi đây đó nên không thấy.  Lại nói: “Tất cả các nước trên thế giới tôi đều đi qua nhưng cũng chẳng thấy có vị Phật nào chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu cả!”. Quý vị nói quý vị đã đi khắp các nơi thế giới, thế quý vị đã vào trong hư không chưa? Nơi hư không ấy có Phật đang chuyển bánh xe pháp. Nếu quý vị muốn xem Phật chuyển bánh xe pháp thì hãy đi vào trong hư không. Nhưng có đi vào trong hư không cũng chưa hẳn quý vị sẽ thấy được. Quý vị nhìn không thấy, có phải là do không có? Không phải vậy. Chuyển bánh xe diệu pháp không nhất định muốn quý vị phải thấy, hơn nữa, trên cõi trời cũng có chư Phật đang chuyển bánh xe pháp nhưng quý vị cũng chẳng thấy, nên không thể nói quý vị nhìn không thấy là không có. Nếu quý vị  hiểu rõ  thì tất cả, tất cả đều đang chuyển bánh xe diệu pháp; nếu quý vị không hiểu rõ thì dù Phật có đang chuyển bánh xe diệu pháp, quý vị cũng không biết. Nếu quý vị giác ngộ thì tất cả sum la vạn tượng trên thế gian này, y báo, chánh báo không có vật gì là chẳng chuyển bánh xe diệu pháp. Nếu không như thế sao lại nói:

“Trên đầu cọng lông hiện cõi Phật

Trong mỗi vi trần chuyển pháp luân[2].

Đó chính là chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu.

Có một người nghe tôi giảng như thế, rất đồng ý với cách giảng này nên hỏi: “Lần này Hòa Thượng giảng rất đúng, Thiên Chúa chính là Phật, Phật cũng chính là Thiên Chúa, chỉ là tên gọi sai khác, chứ thực chất cả hai là một, giống như một người có nhiều tên gọi. Hòa Thượng nói có phải lý này không?”. Không phải! Vừa rồi tôi nói Thiên Chúa chỉ là một tỷ dụ, tôi không hề nói Thiên Chúa là Phật, Phật chính là Thiên Chúa. Quý vị đừng cho rằng mình thông minh, đừng nên nghĩ rằng mình đã khai ngộ rồi. Vì sao vậy? Tôi sẽ giảng lại cho quý vị nghe sự khác nhau giữa Thiên Chúa và Phật.

Vị Thiên Chúa này chỉ là vua của cõi trời thứ 33 (Trời Đao-lợi), trong chúLăng-nghiêm gọi là “Nhân-đà-la-da”. “Nam-mô Nhân-đà-la-da”, câu này chính là nói về vị Thiên Chúa ấy. Vị Thiên Chúa này ngày xưa vốn là một người nữ, cô gái này thấy một ngôi chùa bị hư hoại, ngay cả nơi thờ Phật cũng không có, tượng Phật phải đặt ngồi giữa đất trống. Cô gái nhìn thấy tượng Phật bị gió táp mưa sa nên phát tâm trùng tu lại ngôi chùa ấy, nhưng sức một người có hạn, vì thế cô đã rủ thêm được 32 cô gái nữa cùng giúp sức xây chùa, sau khi ngôi chùa xây xong, cô liền được sinh về làm vua cõi trời thứ 33. Đó là nhân duyên của vị Thiên Chúa này.

Phật là vô thủy vô chung,  không có bắt đầu, cũng chẳng có kết thúc. Cho nên vừa rồi tôi nói vị Thiên Chúa này chẳng qua chỉ là một tỷ dụ. Là tỷ dụ bởi vì người theo Thiên Chúa Giáo cho rằng vị Thiên Chúa của họ có khả năng tạo ra muôn vật. Nếu nói thế thì ai là người tạo ra Thiên Chúa? Không có ai tạo, Thiên Chúa tự tạo ra chính mình. Thiên Chúa có khả năng tạo ra Thiên Chúa, thế tại sao chúng ta không có khả năng tạo ra chính mình mà phải đợi Thiên Chúa tạo ra chúng ta? Đó thật là một cách nghĩ ngu si, một cách nghĩ không có chút trí tuệ. Lại nói Thiên Chúa chỉ có một, những chúng sinh khác không thể làm Thiên Chúa, thế thì vị Thiên Chúa này chính là vị Thiên Chúa cô độc. Vị ấy muốn làm Thiên chúa cô độc thì cứ để vị ấy làm! Người sanh trong thế gian như chúng ta còn phải có một vài người bạn tốt, thế tại sao sau khi làm Thiên Chúa thì lại trở thành một cá thể rất đặc biệt, hoàn toàn khác với mọi người. Nên tôi cho rằng làm Thiên Chúa như vậy chẳng có ý nghĩa gì cả, chi bằng không làm còn hơn!

Lại nữa, theo Phật giáo mà nói thì Thiên Chúa chỉ là một vị hộ pháp, chẳng có chỗ ngồi trước Phật mà chỉ có thể đứng hầu, giống như Hộ pháp Vi-đà Tôn Thiên Bồ-tát và Già-lam Bồ-tát. Thế tại sao Thiên Chúa không nói trên Ngài còn có Phật? Đó chính là do tâm niệm ích kỷ của Thiên Chúa, giống như trong một nước, mỗi một làng có một vị thôn trưởng, chức vị giống như một vị quan nhỏ cai quản một vùng. Nhưng số người trong làng này chưa từng được đi đến những thành thị lớn, chưa nhìn thấy được những vùng đất lớn nên cũng chẳng biết rằng ngoài thôn trưởng mình ra còn có những vị quan lớn hơn. Trong khi vị quan quản lý vùng đất đó nói với dân làng rằng: “Trên thế giới này ta là lớn nhất, các ngươi đều phải nghe theo lời ta, ta bảo các ngươi làm gì thì các ngươi cứ làm đúng như thế.”

Những người dân làng suốt đời nhốt mình trong thôn, chưa từng thấy thế giới bên ngoài nên tin theo lời vị thôn trưởng, cho rằng ông là người lớn nhất. Thiên Chúa cũng tự tôn xưng mình như thế: “Ta là cao nhất”. Quý vị nói đến cao thấp thì phải đưa ra được một đạo lý công khai để nói, giáo lý của quý vị cũng phải được giảng công khai, không thể người ta hỏi quý vị: “Ba ngôi đồng một thể, đó là gì…?”. Quý vị bèn nói: “Điều đó chẳng thể hỏi, hỏi như thế là mang tội! Là đắc tội với Thiên Chúa!”. Đấy quả là chính sách ngu dân. “Quý vị không hiểu rõ à? Quý vị không được hỏi, quý vị vừa hỏi là đã phạm pháp rồi”. Đó là  một dạng chính sách ngu dân, dạy nhân dân không nên tìm cầu kiến thức, vì họ sợ nhân dân có kiến thức sẽ tạo phản. Thiên Chúa không dạy người học Phật pháp cũng chính vì lẽ đó. Vì nếu quý vị học Phật pháp, sau này thành Phật sẽ lớn hơn Thiên Chúa thì sao!

[1] Thế gian đăng 世間燈: từ tôn xưng chỉ cho chư Phật là ngọn đèn sáng trong đời.

[2] Nguyên văn: “Ư nhất hào đoan hiện Bảo Vương sát, tọa vi trần lý chuyển Đại Pháp luân”  於一毫端現寶王剎,坐微塵裏轉大法輪  (Kinh Lăng Nghiêm).

 

F7. BÀI KỆ TỤNG THỈNH PHẬT TRỤ THẾ

Chư Phật nếu muốn nhập Niết Bàn

Tôi xin thành tâm đều mời thỉnh

Cúi mong ở lại lâu trong đời

Cho chúng sanh được nhờ lợi lạc.

 

Chư Phật nhược dục thị Niết Bàn

Ngã tất chí thành nhi khuyến thỉnh

Duy nguyện cửu trụ sát trần kiếp

Lợi lạc nhất thiết chư chúng sinh

 

Đây là bài kệ nói về hạnh Thỉnh Phật trụ thế.

“Chư Phật nếu muốn nhập Niết Bàn”: Có người không nguyện đạt Niết-bàn, họ nói Niết-bàn chính là chết, vì thế họ không muốn vào Niết-bàn. Kỳ thật,“Niết” chính là bất sinh, “Bàn” chính là bất diệt, Niết-bàn cũng chính là đến được Tịnh Độ Thường Tịch Quang. Tịnh Độ Thường Tịch Quang là bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh, là trụ xứ của chư Phật.

Thế giới mà chúng ta hiện đang ở gọi là Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Trong thế giới ấy có phàm phu, thánh nhân, cũng có Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác cùng ở chung lẫn nên gọi là Phàm Thánh Đồng Cư. Nơi ở của hàng Nhị thừa gọi là Phương Tiện Hữu Dư Độ. Vì sao gọi là “phương tiện”? Vì nơi ấy cũng tốt, trụ lại ở đó cũng được, có điều nơi ấy chẳng phải là Niết-bàn rốt ráo mà chỉ là Niết-bàn hữu dư. Nơi Bồ-tát ở gọi là Thật Báo Trang Nghiêm Độ, Bồ-tát trong cõi ấy có đầy đủ thần thông dạo chơi khắp cõi nước Phật, giáo hóa chúng sinh. Chỉ có nơi ở của chư Phật trụ mới được gọi là cõi Thường Tịch Quang.

Quý vị học Phật pháp phải nên biết “tứ độ” là gì, không nên bắt chước người ta nói mình đã thành Phật rồi. Tôi hỏi vị ấy: “Anh ở cõi nước nào?”. Người ấy đáp không ra, bản thân mình không có chỗ ở thì thành Phật gì chứ? Ngay cả nơi Phật ở còn không biết mà lại dám ba hoa mình đã thành Phật! Người ấy lại nói: “Mọi người đều là Phật!” Tôi hỏi lại: “Anh thành Phật gì?” Người ấy ngậm câm không trả lời được. “Ai thọ ký cho anh, anh thành Phật hiệu là gì?” Người ấy lại cứng họng, điều đó chứng minh kẻ ấy là Phật dỏm. Cho nên nếu nói thành Phật thì quý vị phải biết mình sẽ đến nơi nào, hiệu là gì. Như Tôn giả Xá-lợi-phất theo học Phật hơn bốn mươi năm, sau đó Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thọ ký cho Tôn giả sau này sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang. Trên cuộc đời này cái gì cũng có giả, cho đến Phật cũng giả. Ha ha ha! – (nói đến đây Hòa Thượng bật cười sảng khoái). Từ vô lượng kiếp đến nay, những chúng sanh cần được độ, Đức Phật đều đã độ xong, đó gọi là “hóa duyên dĩ tận”. Nhân duyên Phật giáo hóa chúng sinh đã hết, thế nên ngài sẽ vào Niết-bàn đến cõi Thường Tịch Quang.

“Tôi xin thành tâm đều mời thỉnh”: Bồ-tát Phổ Hiền tu mười nguyện lớn, lúc chư Phật muốn vào Niết-bàn thì Ngài thành khẩn tha thiết cầu xin Phật đừng vào Niết-bàn mà trụ ở đời để độ nhiều chúng sinh.

“Cúi mong ở lại lâu trong đời; cho chúng sanh được nhờ lợi lạc”: Mong Phật trụ lâu ở đời số kiếp nhiều như vi trần trong các cõi nước để giáo hóa, làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh.

 

F8. KỆ HỢP BA NGUYỆN SAU

(Gồm có hai phần: G1. Kệ hợp ba nguyện; G2. Nguyện sanh Tịnh độ)

G1. Kệ Hợp Ba Nguyện

(Gồm có ba phần: H1. Tổng nêu hồi hướng; H2. Kệ riêng của ba nguyện; H3. Quy kết hồi hướng )

 

H1.TỔNG NÊU HỒI HƯỚNG

Bao nhiêu phước đức bởi cúng dường

Ngợi khen, thỉnh pháp, mời trụ thế

Tuỳ hỷ, sám hối các căn lành

Hồi hướng, chúng sanh cùng Phật đạo.

 

Sở hữu lễ tán cúng dường phật

Thỉnh phật trụ thế chuyển pháp luân

Tùy hỷ sám hối chư thiện căn

Hồi hướng chúng sinh cập Phật Đạo.

 

Đây là bài kệ nói về hạnh nguyện Hồi hướng cùng khắp.

“Bao nhiêu phước đức bởi cúng dường”: Tất cả những phước kính lễ chư Phật, xưng tán Như Lai, rộng tu cúng dường ở trước, có thuyết nói là “cúng dường phước”. Cúng dường Phật cũng chính là cúng dường phước, vì Phật là bậc đầy đủ cả phước và tuệ.

“Ngợi khen, thỉnh pháp, mời trụ thế”: Tôi dùng tâm thành khẩn nhất, nương nguyện lực mười nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền để thỉnh Phật thường trụ ở đời, thường chuyển bánh xe pháp vi diệu.

“Tuỳ hỷ, sám hối các căn lành”: Vô số căn lành được sanh ra từ sự tùy hỷ và sám hối của tôi. Nhờ sám hối mà tội nghiệp được tiêu, căn lành thêm lớn, do đó, sám hối cũng là gieo trồng căn lành.

“Hồi hướng, chúng sanh cùng Phật đạo”: Tất cả những căn lành ấy, tôi đều hồi hướng cho chúng sinh khắp pháp giới. Tất cả những công đức tôi có được đều là công đức của chúng sinh khắp pháp giới. Tất cả những tội lỗi của chúng sinh khắp pháp giới đều giao cho mình tôi gánh vác, tôi nguyện chịu khổ thay cho chúng sanh để hồi hướng thành tựu Phật đạo.

 

H2. KỆ RIÊNG CỦA BA NGUYỆN

 Gồm có ba phần:

I1. Kệ thường học theo Phật;

I2. Kệ thuận theo chúng sinh;

I3. Kệ hồi hướng khắp cả

 

I1. Kệ Thường Học Theo Phật

 

Tôi nay theo học với Như Lai

Tu tập viên mãn hạnh Phổ Hiền

Cúng dường chư Phật về quá khứ

Cùng với mười phương hiện tại Phật.

Vị lai tất cả Thiên Nhân Sư

Hết thảy tâm nguyện đều viên mãn

Nguyện theo học khắp ba đời Phật

Mau chứng nên quả đại Bồ Ðề.

 

Ngã tùy nhất thiết Như Lai học

Tu tập Phổ Hiền viên mãn hạnh

Cúng dường quá khứ chư Như Lai

Cập dữ hiện tại thập phương Phật

Vị lai nhất thiết Thiên Nhân Sư

Nhất thiết ý lạc giai viên mãn

Ngã nguyện phổ tùy tam thế học

Tốc đắc thành tựu đại Bồ-đề

 

Đó là kệ nói về hạnh Thường học theo Phật.

“Tôi nay theo học với Như Lai, tu tập viên mãn hạnh Phổ Hiền”: Tôi nguyện mãi mãi theo chư Phật để học tập Phật đạo, học tập hạnh nguyện tròn đầy của Bồ-tát Phổ Hiền. Cúng dường chư Phật về quá khứ, cùng với mười phương hiện tại Phật”: Cúng dường tất cả chư Phật trong quá khứ và hiện tại trong mười phương.

“Vị lai tất cả Thiên Nhân Sư, hết thảy tâm nguyện đều viên mãn”: Tất cả bậc Thiên Nhân Sư ở vị lai cũng chính là chư Phật, tất cả những sự hoan hỷ trong lòng nguyện theo học khắp ba đời Phật, mau chứng nên quả đại Bồ Ðề”: con nguyện luôn theo học Phật pháp với chư Phật trong ba đời, nhanh chóng thành tựu giác ngộ Bồ-đề.

 

I2. Kệ Hằng Thuận Chúng Sinh

 

Cả thảy cõi cùng khắp mười phương

Rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm đẹp

Chúng hội vây quanh các Như Lai

Ðều ở dưới cội Bồ Ðề thọ,

Bao nhiêu chúng sanh trong mười phương

Nguyện lìa lo khổ thường an lạc

Ðều được lợi ích chánh pháp mầu

Dứt hết phiền não không còn thừa.

 

Sở hữu thập phương tam thế sát

Quảng đại thanh tịnh diệu trang nghiêm

Chúng hội vi nhiễu chư Như Lai

Tất tại Bồ-đề thọ vương hạ

Thập phương sở hữu chư chúng sinh

Nguyện ly ưu hoạn thường an lạc

Hoạch đắc thậm thâm chánh pháp lợi

Diệt trừ phiền não tận vô dư

 

“Cả thảy cõi cùng khắp mười phương”: Tất cả là bao hàm toàn thể pháp giới, tất cả các cõi nước chư Phật trong mười phương pháp giới. “Nhất thiết sát” chính là tất cả các cõi nước, tất cả cõi nước của chư Phật.

“Rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm đẹp”: Cõi nước của chư Phật rộng lớn thanh tịnh, không có một mảy may ô nhiễm; có vô số sự vi diệu không thể nghĩ bàn trang nghiêm pháp giới mười phương này.

“Chúng hội vây quanh các Như Lai”: Lại có hải hội Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, hoặc hải hội Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; hải hội tám bộ trời rồng đến nhiễu quanh tất cả chư Phật.

“Ðều ở dưới cội Bồ Ðề thọ”: Cõi nước của chư Phật trong mười phương đều có cây Bồ-đề. Mỗi một vị Phật đều ngồi dưới cội Bồ-đề này thành đạo.

“Bao nhiêu chúng sanh trong mười phương”: Tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới.

“Nguyện lìa lo khổ thường an lạc”: Tôi hồi hướng cho họ, nguyện cho tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới đều lìa xa tất cả lo buồn khổ não, luôn được an vui.

“Ðều được lợi ích chánh pháp mầu”: Đều được lợi lạc từ pháp mầu trí tuệ thâm sâu. Dứt hết phiền não không còn thừa”: Diệt trừ hết thảy các phiền não, không còn vương lại mảy may. Nói thì dễ thế nhưng thực hành lại rất khó. Quý vị muốn không có phiền não thì phiền não lại đến; muốn đoạn trừ phiền não nhưng đoạn không dứt. giống như phiền não ấy đã thân thiết với quý vị từ rất lâu rồi vậy, cho nên muốn dứt cũng không dứt được. Vì sao quý vị không lìa được phiền não? Do vì quý vị không có trí tuệ, chính vì ngu si mà không thể dứt được phiền não. Người có trí tuệ sẽ chiếu phá được phiền não, phiền não bị chiếu phá sẽ tiêu mất không còn. Chúng ta nghe kinh pháp, nói là học tập trí tuệ, kỳ thật, trí tuệ ấy không phải do học tập mà có, nó là cái vốn có của chúng ta. Chúng ta vốn có sẵn thứ trí tuệ ấy, chẳng qua từ rất lâu, chúng ta không sử dụng đến trí tuệ bát-nhã vi diệu sâu mầu ấy nên quên mất. Bây giờ chúng ta nhờ nghe kinh pháp mà nhớ lại được toàn bộ trí tuệ vốn có của mình. Quý vị khơi dậy được trí tuệ thì ngu si, phiền não sẽ chạy mất, cho dù quý vị không đuổi nó thì nó cũng không thể tồn tại được. Vô minh phiền não này vốn ở nơi tăm tối, nay ánh sáng đã chiếu đến nơi ấy thì chúng sẽ tự rút lui. Ánh sáng đó là gì? Ánh sáng chính là trí tuệ. Hắc ám là gì? Hắc ám là vô minh, vô minh cũng chính là hắc ám. Cho nên nếu quý vị không còn vô minh thì phiền não không có mặt, phiền não không có mặt thì trí tuệ chân chính phát sinh. Vô minh chính là mơ hồ, mơ hồ chính là không rõ ràng. Vì sao có phiền não? Vì không hiểu rõ , nếu hiểu rõ thì sẽ không có phiền não.

I3. Kệ Tụng Hồi Hướng Khắp Cả

Gồm có hai phần:

J1. Phát đại nguyện riêng biệt;

J2. Tổng kết đại nguyện

J1. Phát đại nguyện riêng biệt

Gồm có mười:

K1. Nguyện thọ trì

K2. Nguyện tu hành tự lợi và lợi tha

K3. Nguyện giáo hóa chúng sinh

K4. Nguyện chẳng xa lìa chúng sinh

K5. Nguyện cúng dường

K6. Nguyện làm lợi ích

K7. Nguyện chuyển pháp luân

K8. Nguyện sinh Tịnh độ

K9. Nguyện thừa sự

K10. Nguyện thành Chánh Giác

 

K1. NGUYỆN THỌ TRÌ

 

Khi tôi vì Bồ Ðề mà tu

Trong các loài đều biết túc mạng

Thường được xuất gia tu tịnh giới

Không nhơ không lỗi cũng không hư.

Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà

Nhẫn đến loài Người cùng Phi Nhơn

Tất cả ngôn ngữ của chúng sanh

Ðều dùng các tiếng tăm nói pháp.

 

Ngã vị Bồ-đề tu hành thời

Nhất thiết thú trung thành túc mệnh

Thường đắc xuất gia tu tịnh giới

Vô cấu vô phá vô xuyên lậu

Thiên long dạ-xoa cưu-bàn-trà

Nãi chí nhân dữ phi nhân đẳng

Sở hữu nhất thiết chúng sinh ngữ

Tất dĩ chư âm nhi thuyết pháp

 

“Khi tôi vì Bồ Ðề mà tu”: Khi tôi vì cầu đạo Bồ-đề giác ngộ mà tu hành. Quý vị muốn có trí tuệ thì phải tu hành, không tu hành thì không có trí tuệ. Quý vị thấy những người thông minh, họ đều đã từng tu đạo, hoặc kiếp trước đã từng xem kinh rất nhiều nên đời này được thông minh; hoặc kiếp trước đã từng dụng công tu khổ hạnh nên nay sinh ra liền được thông minh. Nhưng sự khổ hạnh ấy chẳng phải là khổ hạnh về sự ngủ nghỉ, cũng chẳng phải là khổ hạnh về ăn uống, khổ hạnh về lười biếng. Cái gì cũng không làm, chẳng phải là chuyện dễ; phải có chút định lực mới có thể làm biếng, nếu không có định lực thì ngồi mãi cũng chẳng thoải mái, đứng mãi cũng không tự tại. Tu hành có nhiều phương pháp: Có người tu hạnh bố thí, có người tu hạnh trì giới, có người tu hạnh nhẫn nhục, người thì tu hạnh hạnh tinh tấn, kẻ lại tu hạnh thiền định và có người tu hạnh trí tuệ… Có những pháp tu khác nhau như thế.

Giảng đến đây, tôi nhớ ra một công án. Cách đây một vạn năm, có một vị hành giả già. Làm sao biết được cách đây cả vạn năm? Đương nhiên là biết, có những việc xảy ra từ mấy vạn năm trước, các nhà khảo cổ học hiện nay đều biết rõ, huống gì Phật giáo có năng lực ngũ nhãn, lục thông có thể biết được những việc từ mấy trăm vạn năm trước. Vị hành giả già ấy tu pháp gì? Vị ấy ngồi thiền. Lúc đầu mới tập ngồi thiền, ngồi được một lúc thì bắp chân đau không chịu nổi, vị lão hành giả liền đấu tranh với bắp chân đau rằng:

-Ngươi không chịu đau được à? Nhưng ta thì chịu đau được!

Ông đã thương lượng với bắp chân như thế.

Bắp chân rên rỉ:

-Ôi! Tôi chịu hết nổi rồi.

-Không chịu được là việc của ngươi. Ta không quan tâm.

Ông vẫn tiếp tục ngồi thiền. Lần đầu, ông ngồi được nửa giờ thì đổi chân, sau đó kiên trì luyện tập ngồi được một tiếng, rồi đến một tiếng rưỡi, hai tiếng. Cứ luyện tập như thế, về sau, mỗi lần ngồi là ông có thể ngồi được mấy ngày hoặc mấy tháng, thậm chí mấy năm cũng không có vấn đề gì. Bắp chân của ông cuối cùng đã phải chịu thua. Trải qua một thời gian dài ngồi thiền, ông không còn quan tâm đến khái niệm thời gian nữa, mỗi lần ngồi là nhập định cả mấy mươi năm. Ngồi suốt mấy mươi năm, ông đứng dậy đổi chân rồi lại ngồi tiếp, ngồi đợi Đức Phật Thích-ca ra đời giúp Ngài hoằng dương Phật pháp. Vì ông ta thích nhập định nên ở luôn trong định không dậy. Lần này vào định ở luôn trong ấy suốt mấy nghìn năm, quần áo trên người đều đã mục nát, mặt đầy bụi đất, tóc trên đầu cũng bị chim dùng làm tổ. Ông tuy là người nhưng nhìn chẳng khác gì một pho tượng, không biết ông đã ngồi như thế bao nhiêu năm.

Đến đời Đường, Pháp sư Huyền Trang đi Ấn Độ thỉnh kinh, trên đường gặp vị hành giả này. Lúc ấy, y phục trên thân ông đã rách đến độ không thể rách thêm được nữa. Bụi đất bám trên y phục, trên mặt, trên đầu thành một lớp rất dày. Pháp sư Huyền Trang bèn đánh lên một hồi khánh dài để gọi ông tỉnh dậy. Keng! Vị lão hành giả ấy đã tỉnh. Ông hỏi Pháp sư Huyền Trang:

-Ngài làm gì vậy?

-Thế Tôn giả đang làm gì? Pháp sư Huyền Trang hỏi lại.

-Tôi ở đây đợi Đức Phật Thích-ca ra đời sẽ đến giúp Ngài hoằng dương Phật pháp.

-Ồ! Tôn giả đã nhập định quá lâu, suốt mấy nghìn năm. Đức Phật Thích-ca-mâu-ni đã nhập Niết-bàn hơn một nghìn năm rồi mà Tôn giả vẫn còn đợi Ngài xuất thế ư! Pháp sư Huyền Trang nói.

-Thế chẳng sao, tôi sẽ ngồi thiền tiếp để đợi Đức Phật Di-lặc ra đời sẽ giúp Ngài giáo hóa chúng sinh.

Thế là ông lại muốn nhập định tiếp. Vì ông đã quen nhập định rồi, nên chỉ luôn muốn nhập định.

Pháp sư Huyền Trang khuyên:

-Này Tôn giả, Tôn giả đừng nên nhập định nữa. Tuy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nay đã nhập Niết-bàn, nhưng Phật pháp vẫn còn ở thế gian, Tôn giả hãy giúp tôi hoằng dương Phật pháp.

-Tôi giúp Ngài hoằng dương Phật pháp như thế nào? Ngài là ai?

-Tôi là người xuất gia ở triều Đường, pháp danh Huyền Trang, nay tôi chuẩn bị đến Ấn Độ thỉnh pháp bảo của Phật. Đợi tôi thỉnh kinh về nhất định phải có người giúp tôi hoằng dương Phật pháp. Tôn giả đã nhập định đợi ở đây nhiều năm như thế, việc gì cũng chẳng làm quả thật là đáng tiếc. Tôn giả hãy đến giúp tôi hoằng dương Phật pháp!

-Tôi có thể giúp được Ngài ư?

-Có thể, nhưng không phải bằng thân này. Tôi tin thân hiện tại này của Tôn giả muốn đứng cũng không đứng dậy được bởi Tôn giả đã ngồi quá lâu nên hai chân đã gắn khít vào nhau. Vì thế, Tôn giả nên đổi căn phòng này của mình (ý nói là xác thân này) và dọn sang một ngôi nhà khác.

-Thế tôi phải dọn đến đâu?

-Tôn giả nên đầu thai vào ngôi nhà có mái ngói lưu ly màu vàng ở Trường An, đợi sau khi trở về, tôi sẽ đến tìm Tôn giả.

-Vâng! Tôi tin lời Ngài, tôi sẽ giúp Ngài hoằng dương Phật pháp.

Thế là vị ấy đầu thai đến Trường An.

Nguyên Pháp sư Huyền Trang bảo vị ấy đầu thai vào nhà có mái ngói lưu ly màu vàng, nhưng vị ấy nhớ lầm thành mái ngói màu xanh nên đã đầu thai nhầm vào nhà quan Úy Trì[1], làm con trai của người anh quan Úy Trì.

Lúc pháp sư Huyền Trang rời Trường An, vua Đường Thái Tông có hỏi Ngài:

-Lúc nào Pháp sư về? Khi về, nhớ báo tin trước để trẫm nghinh đón Pháp sư.

Pháp sư Huyền Trang liền chỉ vào cây tùng trước cung nói:

-Nhánh của cây tùng này đều phát triển về hướng Tây, Hoàng thượng xem khi nào nhánh của nó quay về hướng Đông thì đó chính là lúc bần đạo trở về.

Vì thế, vua Đường Thái Tông thường nhìn cây tùng xem lúc nào nhánh của nó uốn về hướng Đông.

Trải qua mười bốn năm, có một hôm, tất cả nhánh của cây tùng này đều uốn về hướng Đông. Quý vị xem có kỳ lạ không? Cây tùng này có sự cảm ứng rất lớn. Thái Tông liền bảo triều thần: “Có lẽ hôm nay Pháp sư Huyền Trang trở về, chúng ta mau ra ngoài thành nghinh đón Pháp sư quay về”. Thế là mọi người đều ra ngoài thành nghinh đón, quả nhiên rước được Pháp sư Huyền Trang trở về. Pháp sư Huyền Trang vừa nhìn thấy Thái Tông liền vui mừng nói:

-Bần đạo xin chúc mừng Hoàng thượng.

-Pháp sư chúc mừng trẫm điều gì? Trẫm cũng đâu có việc gì đặc biệt. Vua nói.

Huyền Trang đáp:

-Chẳng phải bần đạo vừa đi được một năm thì Hoàng thượng hạ sinh được một thái tử sao?

-Đâu có! Pháp sư đi đã bao nhiêu năm, trẫm cũng chẳng có thêm được một thái tử nào!

Huyền Trang vừa nghe, bảo:

-Thật kỳ lạ, bần đạo có bảo một người đến làm thái tử của Hoàng thượng, sao người ấy vẫn chưa đến? Hoàng thượng hãy chờ, đến tối bần đạo sẽ quan sát xem người ấy đến nơi nào.

Vua Đường Thái Tông cũng không biết Pháp sư Huyền Trang nói chuyện gì nên cũng chỉ nói xuôi theo nhưng không tin lắm. Đợi đến chiều tối, pháp sư Huyền Trang ngồi thiền, quán sát nhân duyên của người kia thì thấy ông đã đầu thai vào nhà họ Úy Trì, nay đã mười bốn tuổi, dáng người cao to nhưng suốt ngày chỉ biết rong chơi lêu lổng. Quý vị xem! Vị hành giả này trước kia sống rất khuôn phép, nhưng khi đến nhà họ Úy Trì thì chẳng giữ phép tắc nữa. Không giữ phép tắc như thế nào? Người ấy lại ăn thịt, uống rượu, vui đùa với phụ nữ … không từ một thú vui ngũ dục nào. Vì nhà họ Úy Trì có tiền có thế, lại có địa vị cho nên người ấy làm gì cũng không ai dám ngăn cản.

Pháp sư Huyền Trang thấy người ấy đi lầm đường, đầu thai vào nhà họ Úy Trì nên ngày hôm sau, Ngài tâu với vua:

-Hôm qua bần đạo nói bệ hạ sẽ sinh một thái tử, nhưng người ấy đã đi lầm đường. Trước đây bần đạo bảo người ấy đầu thai làm thái tử nhưng người ấy lại đi nhầm vào nhà họ Úy Trì. Nay xin Hoàng thượng hạ thánh chỉ bảo người ấy xuất gia vì trước đây bần đạo có giao hẹn với người ấy đến giúp đỡ bần đạo hoằng dương Phật pháp.

Đường Thái Tông nghe xong nói:

-Được.

Thế rồi, Hoàng đế hạ một đạo chiếu thư bắt đứa cháu trai của ông Úy Trì phải phụng chỉ xuất gia. Mệnh lệnh của Hoàng đế thì gọi là chiếu thư, hay thánh chỉ. Ông Úy Trì vừa tiếp chiếu thư bèn gọi người cháu đến, bảo:

-Nay Hoàng đế bắt cháu phải xuất gia.

-Đâu có lý ấy. Vì sao Hoàng đế lại có thể bắt cháu xuất gia! Cháu còn vui chơi chưa đủ, sao có thể xuất gia được chứ!

-Không thể cãi lệnh được, Hoàng đế bảo cháu xuất gia, cháu không tuân lệnh sẽ bị chém đầu. Cháu không thể kháng lại lệnh của Hoàng đế! Ông Úy trì nói.

Người cháu không phục:

-Thế cháu sẽ đi gặp Hoàng đế để hỏi cho ra lẽ.

Pháp sư Huyền Trang biết người ấy không muốn xuất gia nên ngày hôm trước Ngài đã thưa với vua:

-Ngài mai, cháu của ông Úy Trì sẽ đến diện kiến bệ hạ để nói lý lẽ. Người ấy sẽ xuất gia có điều kiện, nhưng bất luận người ấy đưa ra điều kiện gì, xin Hoàng thượng đều chấp thuận, người ấy thích như thế nào nên chiều theo thế ấy.

Vua Đường Thái Tông nói:

-Được! Ngày mai trẫm sẽ theo ý Pháp sư.

Hôm sau, quả nhiên ông Úy Trì dẫn cháu đến diện kiến Hoàng thượng. Đường Thái Tông bảo người cháu:

-Nay trẫm tin sâu Phật pháp, biết xuất gia là một việc rất tốt, cho nên trẫm hy vọng khanh xuất gia để hoằng dương Phật pháp.

– Hoàng thượng muốn thần xuất gia ư? Nhưng thần có ba thứ chẳng thể bỏ được, nếu Hoàng thượng có thể chấp nhận ba điều kiện này thì thần xin vâng chỉ. Còn như Hoàng thượng không chấp nhận thì dù Hoàng thượng có giết thần, thần cũng không xuất gia!

Quý vị xem! Người này quả thật xem thường sự sống chết.

-Ngươi có ba điều kiện gì?

-Thần rất thích uống rượu, người xuất gia thì không được uống rượu, nhưng lần này thần vâng chỉ xuất gia, xin Hoàng thượng cho ngoại lệ vì thần không thể thiếu rượu. Sau khi thần xuất gia, bất luận là đi đến chỗ nào đều phải có một xe rượu theo sau.

-Trẫm chấp nhận cho khanh điều kiện này. Vậy điều thứ hai là gì? Đường Thái Tông hỏi.

-Thần rất thích ăn thịt, người xuất gia phải ăn chay, nhưng thần thì không thể, thần nhất định phải có thịt, một ngày không ăn thịt thần không chịu nổi. Cho nên bất luận thần đi đến nơi nào cũng đều có một xe thịt theo sau.

-Cũng được! Chuyện nhỏ, trẫm chấp nhận. Còn điều kiện thứ ba? Đường Thái Tông hỏi.

-Xuất gia làm Hòa thượng thì không được có vợ, không được có người nữ, Hoàng thượng ép thần xuất gia nhưng thần không thể thiếu được nữ sắc. Nên bất kể thần đi đến đâu cũng phải có một xe mỹ nữ theo sau. Thần cần một xe rượu, một xe thịt, một xe mỹ nữ, nếu bệ hạ chấp nhận được ba điều kiện ấy của thần thì thần có thể miễn cưỡng xuất gia theo ý Hoàng thượng. Nếu một trong ba điều kiện không được đáp ứng thì thần cũng không xuất gia!

-Những điều kiện ngươi đưa ra quá hư đốn. Thái Tông nói.

Nhưng Pháp sư Huyền Trang đã dặn dò vua trước là bất luận người ấy có đưa ra yêu cầu gì thì vua cũng đều nên đáp ứng, vì thế Thái Tông đều chấp thuận cho người ấy, ngài nói:

-Được! Ngươi muốn một xe mỹ nữ, ta cũng đáp ứng cho ngươi, chỉ cần ngươi xuất gia là được. Những điều kiện của ngươi ta đều chấp nhận. Bây giờ ngươi có thể xuất gia rồi chứ?

Người cháu ông Úy Trì nghĩ: “Những gì mình thích đều có, Hoàng thượng đều đã đáp ứng nguyện vọng rồi, tuy lòng không vui lắm nhưng cũng đành buồn bã chấp nhận đến xuất gia ở chùa Đại Hưng Thiện”.

Chùa Đại Hưng Thiện là chùa Pháp sư Huyền Trang ở tu tập. Cổng ngoài cách phòng phương trượng mười dặm, tức là xa khoảng 3-4 km. Bên trong chùa có thể chứa được cả mấy vạn người. Lần này Hoàng đế hạ chiếu cho người đến xuất gia nên chùa gióng chuông trống cung nghinh rất náo nhiệt. Trong chùa, khi có Phật sự gì gióng chuông trống lên thì  Hộ pháp Thiện thần đều đến hộ trì, cho nên chuông trống trong chùa không thể tùy ý muốn đánh thì đánh, không muốn thì không đánh. Nếu chùa có pháp hội thì nhất định phải đánh, đánh chuông trống không phải để thông báo cho mọi người biết mà là để cho tất cả Hộ pháp đều nghe được hiệu lệnh ấy. Lúc này, chùa Đại Hưng Thiện có người phụ trách đánh trống người phụ trách đánh chuông, tiếng chuông trống được đánh vang lên tùng… tùng… tùng …tùng, boong… boong …boong …boong.

Cháu ông Úy Trì đi vào trong chùa, nghe được tiếng chuông trống vang lên như thế, người ấy bỗng nhiên khai ngộ và nhớ rõ: “Ồ! Ta vốn là hậu thân của một vị tu hành già nọ!” Thế là người ấy quay lại xua tay bảo với ba xe đằng sau:

-Các ngươi hãy quay về, quay về đi! Nay ta đã đủ cả rồi, không cần gì cả!

Thế là xe mỹ nhân cũng lui về, xe rượu cũng chạy mất, xe thịt cũng không còn. Người ấy đã đến chùa Đại Hưng Thiện xuất gia như thế, vì vậy, có người gọi Ngài là Tổ sư ba xe (Tam Xa Tổ sư).

Vị Tổ sư ba xe đó chính là pháp sư Khuy Cơ[2], bậc thầy về Duy thức. Ngài thông minh tuyệt đỉnh, bất luận kinh điển gì, chỉ cần xem qua một lần là ghi nhớ chẳng bao giờ quên. Đó là nhân duyên (xuất gia) tu hành của Pháp sư Khuy Cơ. Về sau, Ngài đã dùng hết tâm lực của mình vào sự nghiệp hoằng dương Phật pháp ở triều Đường.

“Trong các loài đều biết túc mạng”: Cho dù ở trong ác đạo cũng đều có thể thành tựu được Túc mạng thông, đều biết được kiếp trước của mình. A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh gọi là tứ ác thú (bốn ác đạo). “Thường được xuất gia tu tịnh giới”. Quý vị chớ nên cho rằng xuất gia là việc dễ làm, ai cũng có thể tùy tiện xuất gia. Xuất gia thực sự không dễ. Nên nói:

Chớ bảo xuất gia là việc dễ, đều do nhiều kiếp tạo căn lành”.

Ở Bảo Hoa Sơn có một hang động, có người chưa qua khỏi được hang động này thì bị  ma chướng, hoặc bị chết ngay trong hang. Có người thọ giới, khi thọ giới Sa-di thì không sao, nhưng đến lúc thọ giới Tỳ-kheo thì bị phát điên, không thọ giới được. Những chuyện như thế xảy ra rất nhiều. Vì sao vậy? Vì những người đó không có đức hạnh.

Vị Tam Xa Tổ sư đã nói ở trên, kiếp trước Ngài đã tu hành trải qua không biết bao nhiêu năm, nhưng đến đời này vẫn bị mê, khi xuất gia còn yêu cầu một xe rượu, một xe thịt và một xe mỹ nữ, đến lúc vừa nghe tiếng chuông trống nhất loạt vang lên mới ngộ ra kiếp trước mình vốn là một người tu đạo. Thế là từ đó Ngài trợ giúp Pháp sư Huyền Trang hoằng dương Phật pháp, Ngài chuyên nghiên cứu về Tông Duy thức.

Đương thời còn có một vị Pháp sư rất nổi tiếng là Luật sư Đạo Tuyên. Luật sư Đạo Tuyên chuyên tu trì giới luật, bốn oai nghi lớn đi, đứng, nằm, ngồi đều không một chút khiếm khuyết, luôn giữ đúng giới luật. Giữ như thế nào? Đi như gió thoảng, lúc đi giống như “thanh phong từ lai, thủy ba bất hưng”. Gió nhẹ thoảng qua không làm mặt nước gợn sóng, nếu là gió mạnh thì mặt nước sẽ dậy sóng! Đi đứng cũng phải nhẹ nhàng như thế. “Lập như thông”, lúc đứng thì đứng thẳng như cây tùng. “Tọa như chung”, lúc ngồi dáng vững chãi như một quả chuông. “Ngọa như cung”, lúc nằm giống như một cây cung. Đó là bốn uy nghi lớn đi đứng nằm ngồi, Ngài đều thực hành rất tốt. Miệng không nói tùy tiện, mắt không nhìn ngắm tùy ý, tai cũng không tùy tiện nghe các âm thanh. Đó gọi là “phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động[3]”. Những gì không hợp với lễ thì không nhìn, những tiếng không hợp với lễ thì chẳng nghe, những điều không hợp với đạo lý thì không nói,  những việc không hợp với lễ thì chẳng làm. Vì Ngài trì giới rất chân thật, rất nghiêm minh nên cảm ứng trời người đến cúng dường. Ngài nhật trung nhất thực, một ngày chỉ ăn một bữa. Bữa ăn đó Ngài chẳng cần làm mà do vị thiên cõi trời cúng dường cho Ngài. Vị trời đó tên là Lục Huyền Sướng.

Pháp sư Khuy Cơ chính là Tam xa Tổ Sư, khi chưa xuất gia, thịt gì Ngài cũng ăn qua, sau khi xuất gia Ngài cũng nếm qua hầu hết các món chay thượng vị. Tất cả những món ăn trong nhân gian Ngài đều thưởng thức qua, nên Ngài lại khởi niệm tham. Tham gì? Ngài nói: “Mình chưa được ăn thức ăn của cõi trời. Luật sư Đạo Tuyên có chư thiên dâng cúng, chi bằng mình đến đó hóa duyên”. Pháp sư Khuy Cơ do phụng chỉ xuất gia nên rất có địa vị, lại là một quốc sư, vì thế Ngài muốn làm là làm.

Một sáng nọ, Ngài đi đến chỗ Luật sư Đạo Tuyên. Luật sư ra đón Ngài, Ngài nói: “Ồ, thức ăn gì tôi cũng đã nếm qua, chỉ có thức ăn cõi trời là tôi chưa được ăn. Đợi khi chư thiên mang thức ăn đến cúng dường, Luật sư nên chia cho tôi một phần, không nên ăn hết một mình”. Luật sư Đạo Tuyên bảo: “Được! Tôi sẽ chia cho Pháp sư một phần, Pháp sư ở đây đợi nhé!” Đợi mãi, đợi mãi đã quá ngọ rồi mà chư thiên vẫn chưa mang đến. Lần đó Pháp sư Khuy Cơ không những không ăn được thức ăn cõi trời mà ngay cả thức ăn cõi người cũng chẳng được ăn. Bởi ở đó  Luật sư Đạo Tuyên vốn không chuẩn bị thức ăn, lại không có nhà bếp, không có gạo, mì, dầu, muối, rau…cái gì cũng không có, trong sạch thanh khiết. Nếu thực sự muốn ăn thì chỉ có thể ăn những loại như cỏ, lá cây. Pháp sư Khuy Cơ có chút không vui, trách rằng: “Thì ra Luật sư gạt tôi, Luật sư nói có chư thiên đến cúng dường, sao đến giờ này vẫn chưa thấy vị nào đến?” Luật sư Đạo Tuyên cũng chẳng nói gì, vì Ngài là người trì giới nên chẳng muốn nhiều lời. Ông nói tôi lừa dối, cũng được; nói tôi vọng ngữ, cũng được, tôi cũng chẳng cần biện bạch. Cứ thế chờ đợi mãi đến khi trời tối. Từ Trường An đến núi Chung Nam khoảng bảy mươi dặm đường, đêm xuống, trời tối cũng không thể đi được, Pháp sư Khuy Cơ đành phải ngủ lại đó một đêm.

Vào phòng, Pháp sư Khuy Cơ vừa đặt mình xuống giường là đã ngủ ngay, hơi thở vang dậy như sấm. Xưa nay Luật sư Đạo Tuyên nhất mực trì giới tu hành không hề khởi vọng tưởng, nhưng lần này vọng niệm đã khởi lên, Ngài nghĩ: “Thật là, còn ra thể thống gì của một vị quốc sư nữa! Một chút tu hành cũng không có, ngủ kiểu gì mà như thế, thật chẳng ra gì cả”. Trong lòng đang khởi vọng tưởng như thế, thì Ngài cảm thấy trên thân có con rận đang cắn mình. Vì người xuất gia thường nhiều ngày không tắm rửa, nên thân thể có lúc sinh rận. Có rận cắn mình, Ngài túm lấy nó liệng xuống đất. Lúc sau, con rận khác lại cắn, Ngài cũng bắt nó ném xuống đất. Cứ như thế, cộng thêm tiếng ngáy như sấm của Pháp sư Khuy Cơ làm cho Luật sư Đạo Tuyên ngồi thiền không tài nào nhập định được, trở thành vọng tưởng suốt đêm.

Sáng sớm hôm sau, Luật sư Đạo Tuyên không nhịn nổi nên nói với Pháp sư Khuy Cơ:

-Pháp sư thật là, đêm qua ngủ ngáy như sấm, chẳng có quy củ gì cả, làm tôi suốt đêm không thể nhập định.

Pháp sư Khuy Cơ nói:

-Ồ, Luật sư nói tôi chẳng có tu hành gì ư? Chính Luật sư mới không biết tu!

Hai người tranh biện với nhau, Luật sư Đạo Tuyên hỏi:

-Sao Pháp sư biết tôi không tu hành?

Pháp sư Khuy Cơ bảo:

-Luật sư là bậc chuyên tu trì giới, đáng lẽ không nên sát sinh, nhưng đêm qua Luật sư đã bắt hai con rận trên thân phải không? Con thứ nhất Luật sư nhẫn tâm liệng mạnh xuống đất, làm nó chết ngay. Con thứ hai tuy Luật sư liệng nhẹ hơn nhưng cũng làm nó gãy chân. Con rận chết xuống địa phủ tố cáo Luật sư với Diêm vương rằng Luật sư là bậc tu hành trì giới mà còn sát sanh. Tôi liền đến đó hòa giải, nói Luật sư không cố ý, bảo nó không nên báo thù. Vua Diêm-la gọi nó đi đầu thai, nên oan trái này mới được hóa giải.

Luật sư Đạo Tuyên nghe nói kinh ngạc:

-Ôi! Hôm qua mình bắt rận rất khẽ, không ai hay biết, sao ông ấy lại biết vậy kìa? Kỳ lạ quá!

Pháp sư Khuy Cơ cũng không vui mấy nên cáo từ:

-Tôi đi đây! Ở đây không hề có chư thiên gì đến cúng dường, Luật sư toàn gạt người!

Pháp sư Khuy Cơ nói xong, bỏ đi.

Đến giờ ngọ,  vị trời tên là Lục Huyền Sướng lại đem cơm đến. Luật sư Đạo Tuyên rất không vui hỏi vị trời ấy rằng:

-Hôm qua sao ông không mang cơm đến? Hôm qua tôi có khách quý đến muốn dùng cơm, sao ông không mang cơm đến?

Vị trời Lục Huyền Sướng thưa:

-Xin Luật sư từ bi tha thứ cho con. Hôm qua, con vốn mang cơm đến cúng dường Luật sư như thường lệ, nhưng trong vòng bốn mươi dặm nơi đây được bao quanh bởi hào quang sắc vàng, con muốn đi vào trong vòng kim quang ấy nhưng không tài nào mở mắt ra được, không thể phân biệt được Đông, Tây, Nam, Bắc. Lúc ấy, con hỏi thần thổ địa ở đây, ông ta chính là vị thần cai quản nơi này. Ông ta nói có nhục thân Bồ-tát ở chỗ của Ngài, vì thế, trong vòng bốn mươi dặm đều có hào quang  sắc vàng này. Do vậy mà con không thể đến, xin Luật sư hoan hỷ cho con.

Luật sư Đạo Tuyên vừa nghe nói như thế, bèn nghĩ: “Ồ! Pháp sư Khuy Cơ là nhục thân Bồ-tát! Đó là cảnh giới bất khả tư nghì, thế mà mình lại nói Ngài không tu hành gì, ngủ ngáy như sấm, thì ra Ngài cố ý làm ra vẻ như vậy. Cảnh giới của Ngài cao hơn mình rất xa, ngay cả chư thiên cũng không thể đến  gần được Ngài.”

Về sau, Luật sư Đạo Tuyên càng tinh tấn  tu hành. Pháp sư Khuy Cơ cũng không còn khởi ý niệm muốn ăn thức ăn chư thiên cúng dường nữa. Kết quả, hai người bạn tu hành đều trở thành bậc cao tăng trong thời ấy.

“Thường được xuất gia tu tịnh giới”: Luôn được xuất gia, tu trì giới luật thanh tịnh. Vừa rồi giảng về Luật sư Đạo Tuyên và tổ sư Khuy Cơ đều thuộc cảnh giới Bồ-tát bất khả tư nghì, người bình thường không thể sánh được. Hiện tại chúng ta tu tập mười đại nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền cũng phải phát nguyện luôn được xuất gia. Xuất gia chính là ra khỏi nhà phiền não, ra khỏi nhà tam giới và ra khỏi nhà vô minh. Thế nào là ra khỏi nhà phiền não? Mọi người đều có phiền não, nếu quý vị có thể buông bỏ phiền não, không khởi phiền não nữa thì đó gọi là ra khỏi nhà phiền não. Ra khỏi nhà tam giới, tam giới chính là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Quý vị tuy đang ở trong Dục giới nhưng không có tâm dâm dục, hình sắc cũng không, cho đến vô sắc giới cũng không nốt, đó gọi là ra khỏi nhà tam giới. Ra khỏi nhà vô minh, vô minh chính là gốc rễ phiền não, quý vị có thể phá vỡ được vô minh, đạt được giác ngộ bồ đề, trí tuệ tròn đầy, đó gọi là ra khỏi nhà vô minh.

Ở Trung Hoa, không nhất định ai xuất gia cũng đều có thể tu hành. Trước đây, người Trung Hoa có xu hướng như vầy: Một đứa bé vừa sinh ra đã có rất nhiều bệnh tật, mời bác sĩ đến trị cũng chẳng lành, đứa bé xem như không cứu được. Lúc ấy, cha mẹ đứa bé nói: “Dù sao con cũng sẽ chết, chi bằng mình đem nó vào chùa cho làm Sa-di”. Khi đã xuất gia, bệnh của đứa bé liền khỏi, không sợ chết nữa. Trường hợp xuất gia như thế đương nhiên là có căn lành nhưng vì do sợ chết mà xuất gia, đó gọi là mê. Mê như thế nào? Người ấy không biết tu hành. Thiện căn tuy có nhưng quên mất, cho nên người đó không chắc chắn là có thể tu hành. Đó là do trường hợp lúc nhỏ đưa vào chùa xuất gia.

Còn có trường hợp vì vấn đề cuộc sống mà xuất gia. Có nhà quá bần cùng, nghe nói xuất gia rất dễ có cơm ăn, áo mặc, thế là liền đi xuất gia. Đó là trường hợp vì bát cơm mang áo mà đi xuất gia. Lại có người tuổi đã già nhưng không có ai để nương nhờ, vì thế phát tâm xuất gia, sau đó thâu nhận đệ tử nhỏ cốt để có người phụng dưỡng mình. Vì đệ tử phải có bổn phận hiếu thuận với sư phụ, bất luận ăn gì trước đều phải cúng dường sư phụ, đối với sư phụ nhất mực cung kính. Khi chưa xuất gia, người ấy là một cụ già không có con cái; sau khi xuất gia thì có đệ tử, xem như đã có người chăm sóc. Trường hợp xuất gia như thế chỉ muốn dưỡng lão, dạng xuất gia như thế cũng không bảo đảm là có thể tu hành được. Cũng có người bị hoàn cảnh bức ngặt mà xuất gia, giống như  tổ sư Khuy Cơ là do hoàn cảnh mà xuất gia, nhưng Ngài có thể tu hành. Còn có một dạng khác nữa, trước đây pháp luật Trung Hoa có ra một điều lệ là bất kể người nào giết người phóng hỏa, cướp bóc… tạo ra bao nhiêu tội ác nhưng một khi đã xuất gia thì chính phủ không truy tội nữa, đây là vì chạy trốn pháp luật mà xuất gia. Hạng người này cũng không chắc chắn có thể tu hành.

Còn có một hạng người có thể tu hành, đó là hạng người nào? Là người thật sự vì sinh tử mà phát tâm Bồ-đề, hạng người ấy có thể tu hành. Do đó xuất gia cũng có nhiều nhiều loại khác nhau. Có khi quý vị sẽ nghe người ta nói: “Họ là người xuất gia, sao còn nhiều sân hận như thế? Còn nhiều phiền não như thế?” Bởi nhân duyên xuất gia của mỗi người khác nhau, cho nên biểu hiện sau khi xuất gia cũng có rất nhiều hình thái.

“Không nhơ không lỗi cũng không hư”: Tu trì giới thanh tịnh, trong sạch như bảo châu, vĩnh viễn không bao giờ phá giới, về phương diện giới luật không có chỗ khiếm khuyết.

 

Trời, Rồng, Dạ xoa, Bàn Trà quỷ

Nhẫn đến loài Người cùng Phi Nhân

Tất cả ngôn ngữ của chúng sanh

Ðều dùng các tiếng tăm nói pháp.

 

Thiên Long Dạ-xoa Cưu-bàn-trà

Nãi chí nhân dữ phi nhân đẳng

Sở hữu nhất thiết chúng sinh ngữ

Tất dĩ chư âm nhi thuyết pháp

 

“Trời, Rồng, Dạ xoa, Bàn Trà quỷ”: Khi ấy có trời, rồng và các loài quỷ như dạ-xoa, Cưu-bàn-trà…Do nguyên nhân gì mà làm rồng? Bởi vì giữ giới không tinh nghiêm, chúng rất tinh tấn tu pháp Đại thừa, nhưng lại cho rằng giới luật rất bình thường, rất phổ thông, trì không trì cũng được, nên bị đọa lạc làm loài súc sinh. Rồng cũng là một loại súc sinh nhưng do trước có tu hành nên tuy làm loài súc sinh mà vẫn có thần thông. Rồng là loài vật có thần thông.

Trời, rồng, dạ xoa là nói bao quát cả tám bộ thần chúng gồm A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Càn-thát-bà v.v… Cưu-bàn-trà là một loại có thân chiều ngang rộng hơn chiều đứng, chiều cao hơn ba thước nhưng bề ngang hơn năm thước. Nó không có đầu, cũng không có chân, trông giống như cối xay hoặc trái bí đao, cho nên còn gọi là quỷ quả bí.  Nó đợi người ta ngủ say liền đến giở trò. Nó giở trò gì? Nó chuyên môn đè người, làm người bị đè toàn thân cứng đờ, có khi quý vị còn mở mắt, có thể nhìn thấy đồ vật nhưng muốn cử động lại không cử động được, muốn nói cũng không phát ra tiếng. Cứ như thế, có người bị đè đến ngạt thở mà chết. Do vậy quỷ Cưu-bàn-trà là một loại quỷ rất nguy hại. Trong kinh này vì có mười nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền cảm hóa, nên nó không những không hại người mà còn có thể trở lại hộ pháp.

“Nhẫn đến loài Người cùng Phi Nhơn”: Cho đến loài người hoặc chẳng phải người. Tất cả ngôn ngữ của chúng sanh”: Hết thảy ngôn ngữ của chúng sinh không kể là trời, người hoặc A-tu-la…. Ðều dùng các tiếng tăm nói pháp”: Đều có thể dùng tất cả ngôn ngữ của chúng sinh để thuyết pháp cho họ nghe, gặp loại chúng sinh nào thì dùng ngôn ngữ của chúng sinh ấy.

 

[1] Úy Trì 尉遲: Họ kép, như ở đời đường có ông Úy Trì Kính Đức.

[2] Khuy Cơ 窺基 (632~682): Người Trường An, họ Úy Trì, tự Hồng Đạo, xuất gia năm 17 tuổi, thờ ngài Huyền Trang làm thầy. Ngài chính là Sơ tổ tông Pháp tướng, đạo hiệu thường gọi là Pháp sư Khuy Cơ.

[3] Nguyên văn: 非禮勿視,非禮勿聽,非禮勿言,非禮勿動

 

K2. Nguyện tu hạnh tự lợi, lợi tha

         

Siêng tu thanh tịnh ba-la-mật

Thường chẳng quên mất Bồ-đề tâm

Diệt trừ cấu chướng không ngăn ngại

Thành tựu tất cả diệu hạnh lành.

Thế gian hoặc nghiệp và ma cảnh

Giải thoát ra ngoài chẳng vấn vương

Giống như hoa sen không dính nước

Như vầng nhật nguyệt chẳng trụ không.

 

Cần tu thanh tịnh Ba-la-mật

Hằng bất vong thất Bồ-đề tâm

Diệt trừ chướng cấu vô hữu dư

Nhất thiết diệu hành giai thành tựu.

Ư chư hoặc nghiệp cập ma cảnh

Thế gian đạo trung đắc giải thoát

Do như liên hoa bất trước thủy

Diệc như nhật nguyệt bất trụ không.

 

 “Siêng tu thanh tịnh ba-la-mật”: siêng tu tức là không giải đãi, không sợ gian khổ, không sợ mệt nhọc, lúc nào cũng đều tinh tấn. Luôn tinh tấn siêng tu các hạnh ba-la-mật thanh tịnh không nhiễm ô. Ba-la-mật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch đáo bỉ ngạn, nghĩa là từ bờ sinh tử bên này đạt đến bờ Niết-bàn bên kia.

“Thường chẳng quên mất Bồ-đề tâm”: đời đời kiếp kiếp đều không quên phát tâm Bồ-đề. Thế nào là tâm Bồ-đề? Chính là tâm siêng cầu Phật đạo. Đời đời kiếp kiếp không bao giờ quên mất tâm siêng cầu Phật đạo ấy.

“Diệt trừ cấu chướng không ngăn ngại”: diệt trừ tất cả các cấu chướng như báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng. Có phiền não giống như có bụi bẩn, giờ trừ sạch hết khiến những bụi bẩn ấy không còn nữa.

“Thành tựu tất cả diệu hạnh lành”: vừa rồi, tôi nghe mẹ của Quả Diệu nói: sau này khi Quả Diệu kết hôn thì phải đến Phật đường để làm lễ. Nếu nhưquý vị nói sau này khi muốn tu đạo thì sẽ đến Phật đường để tham thiền tĩnh tọa, liễu sinh thoát tử, đó chính là tu diệu hạnh. Tu hạnh gì thì thành tựu hạnh ấy, đó gọi là thành tựu diệu hạnh bất khả tư nghì. Thế nào là bất khả tư nghì? Bất khả tư nghì là vượt ngoài dự đoán của con người, quý vị không tưởng tượng đếnđược. Điều không tưởng đến được nhưng rốt cuộc cũng đạt được, đó gọi là diệu. Cái ‘diệu’ ấy là quý vị không có cách nào nghĩ đến, không chỉ tâm không thể nghĩ đến mà lời nói cũng không thể luận bàn. Thế nào gọi là hạnh vi diệu chẳng thể nghĩ bàn? Đấy là tham thiền khai ngộ. Quý vị có khả năng khai ngộ thì thành tựu hạnh vi diệu chẳng thể nghĩ bàn.

“Thế gian hoặc nghiệp và ma cảnh”: Sao gọi là hoặc nghiệp? Hoặc chính là mê hoặc, cũng chính là nghi hoặc. Hoặc có ba loại: kiến tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc. Kiến hoặc là hoặc thô (bên ngoài), tư hoặc còn gọi là hoặc vi tế (bên trong), trần sa hoặc cũng gọi là vô minh hoặc. Kiến hoặc là một loại tâm tham ái phát sanh khi gặp cảnh, lòng tham ái ấy chính là một dạng của mê hoặc. Mê hoặc nhiều thì mơ hồ, không rõ ràng. Tư hoặc là một loại tâm phân biệt sai lầm phát sinh khi không thông suốt đạo lý. Trần sa hoặc có rất nhiều, nhiều như bụi trần ở thế gian hay như số cát sông hằng. Trong tâm chúng ta cóloại vô minh này, vô minh vốn rất ít và cũng rất nhỏ, nhưng từ ít mà thành nhiều, rồi nhiều lại càng nhiều, nên  gọi là trần sa hoặc. Giống như quý vị gặp một cảnh nào đó, liền sinh tâm tham ái. Mặc dù nói nó là kiến hoặc nhưng trên căn bản vẫn là do vô minh sinh ra. Vì sao khởi sinh ra tâm tham ái? Tâm tham ái này từ đâu sinh ra? Quý vị ngược dòng tìm về nguồn cội của nó thì sẽ thấy đó là vô minh, cho nên vô minh chính là gốc rễ của sinh tử. Chúng ta sở dĩ không thể thoát khỏi sinh tử chính là do vô minh này ngăn chướng, nên mãi bị sanh tử triền miên.

Có bao nhiêu kiến hoặc? Có đến tám mươi tám phẩm kiến hoặc. Tư hoặc thì sao? Tư hoặc có tám mươi mốt phẩm. Đoạn trừ tám mươi tám phẩm kiến hoặc thì chứng quả vị thứ nhất. Dứt trừ sáu phẩm tư hoặc đầu của Dục giới thì chứng quả vị thứ hai. Dứt trừ ba phẩm tư hoặc sau của Dục giới thì chứng quả vị thứ ba. Dứt trừ hết tám mươi mốt phẩm tư hoặc của Tam giới thì chứng quả vị  thứ tư. Đến cảnh giới Bồ-tát thì đoạn được trần sa hoặc. Đạt cảnh giới Đẳng Giác bồ-tát thì vẫn còn một phần sinh tướng vô minh chưa được phá trừ, phá trừ xong phần vô minh ấy thì thành tựu Diệu Giác, Diệu Giác chính là Phật.

Nghiệp chính là các hành động thiện hay ác mà quý vị đã làm. Nên nói:  

“Giả sử trải trăm nghìn kiếp,

Nghiệp tạo không mất đi,

Nhân duyên hội đủ thời,

Quả báo mình tự chịu[1]”.

 

Giả sử trải qua trăm nghìn kiếp sau, nghiệp mà quý vị đã tạo sẽ không bao giờ mất đi. Quý vị làm thiện sẽ được quả lành, quý vị làm ác sẽ bị quả xấu, những nghiệp thiện ác ấy luôn theo sát quý vị, đến khi nhân duyên chín mùi thì quý vị phải tự mình lãnh thọ quả báo. Quý vị gieo nhân thiện, tương lai sẽ kết quả lành, quý vị gieo nhân ác, mai sau sẽ gặp quả xấu. Làm việc tốt thì được quả báo tốt, làm việc xấu thì chịu quả báo xấu.

Ngày xưa có một người rất giàu. Người ấy làm nghề bán gạo và rượu. Ở Trung Hoa, gạo được tính bằng đơn vị cân, vì thế phải dùng cân hoặc dùng đấu đểđo lường. Người ấy đổ nước vào trong gạo để làm cho gạo được nặng ký hơn, hạt gạo cũng lớn hơn, dùng đấu đong được nhiều hơn, dùng cân cân được nặng hơn. Thí dụ có 100 pounds[2] gạo thì ông ta lại đổ thêm 10 pounds hoặc 20 pounds nước, như vậy hạt gạo vừa to vừa trông đẹp hơn, nhưng sau khi khô lại còn chẳng được bao nhiêu. Cứ như thế, ông kiếm được rất nhiều tiền. Ông còn bán rượu nấu, ông nói: “Người có tiền mới uống rượu, không có tiền uống không nổi rượu, mình phải tìm cách móc hầu bao của những người có tiền”. Thế rồi ông cũng pha nước vào rượu, cứ một cân rượu thì thêm vào hai lạng nước,như vậy một cân lời thêm được hai lạng rượu, mười cân thì dư ra được rất nhiều, cứ thế ông cũng nhờ vào việc bán rượu mà phát tài. Ông một đời kiếm đượctiền chẳng biết bao nhiêu mà kể, tóm lại là rất nhiều. Ông có ba đứa con, do một đời ông vui thích vàng bạc nên đặt tên cho đứa con lớn là Kim Tử, đứa thứ hai là Ngân Tử, còn đứa thứ ba tên là Nghiệp Chướng.

Khi về già, ông mắc bệnh, bệnh nặng sắp chết, mời lương y đến xem bệnh, lương y cũng hết cách, xua tay bảo: “Tôi không cứu nổi bệnh ông, ông có gì ngon nên ăn nhiều một chút”. Đó chính là đợi ngày ra đi vậy.

Ông nghĩ: “Ta có nhiều tiền vậy mà chết như thế này thật vô nghĩa! Ta nên thương lượng với các con, xem có đứa nào tình nguyện đi theo ta. Thường ngàyta rất yêu thương đứa con lớn, nên bảo nó đi cùng ta”. Ông bèn gọi đứa con lớn Kim Tử đến nói: “Con biết không, một đời này người ta thương mến nhất làcon”. Người con lớn đáp “Dạ, con biết! Cha đối với con không tệ, cha là cha của con, cha có nhiều tài sản như thế, tương lai những tài sản này đều là của con vì con biết cha đối với con rất tốt”. Ông nói: “Cha thương yêu con, nay cha sắp chết rồi, nhưng cha chẳng nỡ rời con, con có thể theo cha không?” Người con nói: “Cha bệnh sao mà ngớ ngẩn mất rồi! Con làm sao có thể chết theo cha được? Phải chăng cha đang đùa với con? Được rồi cha, cha không nên giỡn như vậy!”.

Người cha nói: “Không phải giỡn, cha đang nói thật với con đó, chẳng phải đùa giỡn đâu! Rốt cuộc con có thể theo cha được không?” Người con lớn khẳng định: “Không thể được! Cha đã cưới vợ cho con, hiện con đã có con, nếu con chết rồi thì con của con phải làm sao đây?” Người cha than: “Thế sao! Cha một đời thương yêu con vô cùng, nay cha bảo con theo cha xuống cửu tuyền mà con chẳng chịu. Con không chịu cũng đành thôi! Hãy mau đi đi! Gọi Ngân Tử đến gặp ta”.

Ông lại thương lượng với Ngân tử rằng: “Trước đây cha đối xử với anh con có phần ưu ái hơn con một chút, nhưng nay cha phát hiện nó không có một chút tâm hiếu nào đối với cha. Cha thấy con thường ngày rất hiếu thuận, rất nghe lời cha, nay cha sắp chết rồi, con có thể chết cùng cha không?”. Ngân Tử đáp: “Anh Kim Tử đã không đồng ý chết theo cha thì con làm sao có thể chết theo cha được? Điều đó không thể. Nếu cha đã sắp chết thì hãy chết nhanh một chút, cha không thể bảo con chết cùng cha được”. Thế rồi Ngân Tử rũ tay áo bỏ đi, vừa đi vừa mắng: “Làm cha như ông thật là ngớ ngẩn, không có chút nhận thức, tôi tuổi trẻ như vầy, chưa hưởng thụ được bao nhiêu mà lại bảo tôi chết với ông, há có đạo lý này sao! Loại già lão như ông dù có nán lại ở đời cũng chỉ là mộtvật bỏ đi mà thôi”.

Bấy giờ ông chỉ còn cách tìm đến đứa con út. Ông gọi người con thứ ba Nghiệp Chướng vào bảo: “Nghiệp Chướng! Nay cha sắp chết rồi, con có thể đi cùng cha không?” Nghiệp Chướng thưa: “Dạ được! dạ được! Đó là điều con vui mừng nhất. Cha đi đến nơi nào thì con đi theo nơi ấy, con theo để hầu hạ cha”. Ông nghe như thế rất hài lòng, trong đời này vẫn còn một đứa con chịu chết theo mình, thế là mãn nguyện lắm rồi. Thế là Nghiệp Chướng cùng cha xuống  gặp vuaDiêm La.

Vua Diêm La thấy ông đến, liền hỏi: “ Ông một đời bán gạo đã đổ thêm nước, bán rượu cũng pha nước vào, có việc đó không?” Ông thưa: “Dạ, không có, tôi không hề làm những chuyện thất đức như thế!” Lúc ấy, Nghiệp Chướng con ông vọt miệng: “Có, con thấy cha bán rượu, bán gạo đều đổ thêm nước vào, vuaDiêm La nói không sai, sao cha không chịu thừa nhận?”. Đứa con này đến đây để làm chứng cho cha, chứng minh ông đã từng làm những việc xấu, ông chẳng còn chối cải gì được, thế là bị tống vào địa ngục. Bấy giờ ông chợt ngộ ra, bảo rằng: “Thì ra con theo để làm chứng cho ta, làm chứng ta đã tạo tội nghiệp. Sớm biết như thế, thà con đừng theo ta thì hơn”. Vì thế có bài kệ:

 

Kim, Ngân chẳng chịu đi

Chỉ có Nghiệp theo mình

 Diêm Vương tra hỏi đến

Nghiệp bảo chẳng hề sai.

 

Lúc quý vị lìa đời, vàng, bạc đều chẳng mang theo được, chỉ có nghiệp cùng sát cánh với quý vị. Khi Diêm Vương xét hỏi đến, nghiệp chướng liền làm chứngđiều này thật có, điều kia cũng chẳng sai, thế nên nghiệp chướng rất là tai hại. Sao gọi là nghiệp chướng? Nghiệp chướng chính là những hành động tạo tác của quý vị. Nếu quý vị làm việc tốt thì được nghiệp lành, quý vị làm việc xấu thì bị nghiệp ác, nghiệp ác chính là nghiệp chướng.

Giảng đến đây, tôi lại nhớ đến một chuyện lúc nhỏ của mình. Đó là chuyện hồi tôi còn làm Sa-di. Lúc ấy nhằm vào dịp tết, người Trung Hoa ăn tết bất luậnlà ở chùa chiền hay nhà dân đều phải viết đối liễn dán trên cửa, còn gọi là “huy xuân” (đón xuân). Ở chùa, người ta thường viết chữ “Cát tường như ý”, hoặc viết vô số những lời tốt lành. Lúc ấy, tôi viết bốn chữ “trí tuệ như hải”.  Tôi viết bốn chữ này viết rất nhanh, lại có hồn. Có một sư huynh khác cũng là Sa-di thấy bốn chữ này rất thích, sư huynh luôn miệng đọc: “Trí tuệ như hải, trí tuệ như hải, trí tuệ như hải…”. Đọc tới đọc lui nhiều lần mãi như thế khiến tôi nghe phátchán nên nói với sư huynh:

-Tôi thấy sư huynh “Nghiệp lực như biển” thì có. Nghe tôi nói thế, tức thời sư huynh nổi giận sừng sộ:

– Vì sao chú nói tôi nghiệp lực như biển? Vì sao chú nói tôi nghiệp lực như biển? Thái độ gần như muốn đánh lộn với tôi vậy.

– Sư huynh đừng nóng vội, hãy nghe tôi nói. Tôi nói sư huynh “nghiệp lực  như biển”, đúng ra sư huynh không nên giận mà còn phải cám ơn tôi đã chúc phúc cho sư huynh.

-Đâu có lý ấy, chú nói tôi nghiệp lực như biển mà tôi còn phải cám ơn chú sao ? Không có lẽ ấy.

Tôi ôn tồn:

-Sư huynh hãy nghe tôi giải thích tí nào, giải thích rồi sư huynh sẽ rõ.

-Chú giải thích thế nào?

-Sư huynh biết thế nào gọi là nghiệp không?

-Nghiệp chính là sự tạo tác của con người.

-Nghiệp này có nghiệp lành và nghiệp dữ. Nếu tôi nói nghiệp lành của sư huynh như biển thì sư huynh sẽ như thế nào?

Lúc ấy, sư huynh trợn tròn mắt nhìn tôi không nói lời nào.

Tôi nói:

-Tôi không nói là sư huynh nghiệp lành hay nghiệp dữ như biển, vì sao sư huynh lại nổi sân lên? Ý của tôi là nghiệp lành của sư huynh như biển, nhưng giờthì sư huynh như thế nào?

-“Không có vấn đề gì, tôi chỉ muốn, tôi muốn….” Rồi sư huynh xin lỗi nhận sai với tôi. Tôi lại nói:

-Từ câu nói này của tôi, sư huynh phải mời tôi một bữa cơm chay mới được.

Sư huynh vui vẻ:

-“Được, được, được!” đồng ý mời tôi dùng cơm chay.

Quý vị xem có kỳ diệu không, chỉ bỏ bớt đi một chữ, thêm vào chữ thiện thì sự sân giận của sư huynh không còn nữa, quý vị nói có kỳ lạ hay không? Đây cũng là diệu pháp, quý vị hiểu không? Chỉ một chữ tôi không nói rõ mà sư huynh đã nổi sân giận, tôi lại thế vào một chữ khác “thiện nghiệp như hải”, thì sư huynh tôi liền hoan hỷ vô cùng. Cho nên, chỉ một chữ cũng có thể khiến người giận dữ hay vui mừng. Tâm tính của con người vô cùng kỳ lạ, giận hay vui chỉtrong một chữ. Nghiệp lực chính là như thế.

Còn có một lần, tôi cầm trên tay một cuộn giấy và lại bị chính vị sư huynh Sa-di ấy nhìn thấy. Vị sư huynh này là người nhiều chuyện, thích xen vào chuyện của người khác, sư huynh ấy hỏi tôi:

– Chú đang cầm vật gì ở trên tay vậy?

– Đó là giấy bán sư huynh.

Hả! Sư huynh lại nổi giận, do vì tánh hay giận, cho nên thỉnh thoảng tôi cũng tìm chút chuyện ghẹo sư huynh. Sư huynh hỏi lại lần nữa:

– Cái gì?

– Giấy bán sư huynh.

-Vì sao chú lại có thể bán ta? Vì sao chú lại có thể bán ta? Chú có quyền gì dám bán ta? Sư huynh giận dữ.

-Đương nhiên tôi có quyền bán sư huynh, tôi có đặc quyền ấy. Tôi bán sư huynh, sư huynh phải hoan hỷ,  nếu không hoan hỷ thì tôi sẽ không bán sư huynh.

-Làm sao chú lại có đặc quyền? Sư huynh càng giận dữ với tôi hơn.

-Tôi bán sư huynh, có người mua, sư huynh nhất định sẽ hoan hỷ – Tôi nói.

-Đâu có lý ấy! Hãy nói cho ta biết, chú bán ta, có người mua, ta sẽ còn hoan hỷ nữa à?

-Tôi bán sư huynh cho Đức Phật Thích-ca Mâu-ni để sư huynh mãi mãi làm tu sĩ.

Mắt sư huynh lại sáng lên, nhìn tôi không chớp mắt. Tôi hỏi:

-Có được không? Sư huynh có vui không?

-Được, được chứ!

Lúc nhỏ, tôi nghịch ngợm như thế đấy!

Quý vị xem, sự việc như thế, thông qua sự trình bày của tôi, tôi nói muốn bán sư huynh, sư huynh lại rất thích thú. Đó cũng là diệu pháp. Quý vị không nên cho rằng đây là chuyện cười.

Lại nói về ma cảnh. Ma cảnh chính là cảnh giới của ma, nếu quý vị không tu đạo, thì ma ấy không tìm đến quý vị; một khi quý vị vừa tu đạo, ma chướng lập tức tìm đến quý vị ngay. Vì sao? Vì người khi không tu đạo giống như kẻ nghèo cùng, còn ma thì giống như thổ phỉ. Thổ phỉ không đến cướp đoạt của người bần cùng, bởi chúng biết rằng người bần cùng vốn không có đồ vật gì để cướp. Quý vị vừa khởi tâm tu đạo, giống như người phát tài. Quý vị có tiền rồi, thổ phỉsẽ không kể ngày hay đêm luôn tìm cơ hội đến cướp đoạt tài vật của quý vị. Cho nên quý vị tu đạo là có ma. Có bài kệ rằng:

 

Ma để mài chánh đạo

Chánh đạo mới có ma

Càng mài càng lấp lánh

Lấp lánh càng phải mài

Mài sáng như trăng thu

Lồng lộng chiếu chúng ma

Chúng ma tiêu biến hết

Bản tánh Phật xưa nay.

 

Quý vị tu đạo có chút thành tâm chân chính rồi thì ma mới đến mài quý vị. Ma ấy đến chính là để khảo nghiệm quý vị. Vì muốn biết quý vị dụng công chân thật đến đâu nên ma ấy mới đến thử thách quý vị. Quý vị càng nhẫn thọ được thử thách bao nhiêu thì ánh sáng càng hiển lộ bấy nhiêu. Ánh sáng cũng chính là tánh sáng. Ánh sáng của quý vị mới lóe, cần phải mài nhiều thêm một chút, mài sáng cũng  giống như trăng sáng ngày rằm trung thu. Lúc ấy quý vị có thể ở giữa hư không chiếu phá quân ma. Đó cũng chính là nói nếu quý vị có được trí tuệ chân chính thì ma đến quý vị liền nhận biết, ánh sáng trí tuệ của quý vị sẽ soi thấu mọi ngõ ngách của quân ma, khiến chúng phải bỏ chạy. Lúc này bản tánh Phật xưa nay của quý vị sẽ xuất hiện.

Khi quý vị tu đạo có được chút thành tựu thì sẽ có ma chướng phát sinh. Chẳng hạn nói về việc giữ giới, trong tâm quý vị vốn chẳng muốn phạm giới, vốn chẳng muốn sát sinh, nhưng không biết vì sao lại sát sinh, lại phạm vào giới cấm. Quý vị vốn không muốn trộm cắp nhưng cũng không hiểu sao lại trộm cắp. Quý vị vốn không muốn tà dâm nhưng không biết sao cũng lại phạm phải. Sao lại không hay không biết gì cả? Chính là mơ hồ, lúc ấy vô minh ở ngay trước mặt. Một khi vô minh xuất hiện thì cái gì cũng quên, giới đã thọ cũng quên, trì trai cũng quên, do đó mới phạm trai, phá giới. Quý vị vốn không muốn nói dối,nhưng khi vô minh hiện khởi thì lại nói dối. Quý vị vốn không nghĩ đến uống rượu, nhưng vô minh có mặt thì lại uống rượu. Đây đều do vô minh ngăn che trí tuệ của quý vị, do không có trí tuệ nên đã phạm giới. Đó cũng là một loại cảnh giới.

Quý vị ngồi thiền vừa có một chút định lực, do định lực ấy mà phát sinh một ít trí tuệ, bèn muốn đoạn trừ tâm dâm dục, thế rồi quý vị phát tâm, nói: “Việc quan hệ nam nữ là chuyện chẳng tốt, tôi nhất định phải cải trừ”. Quý vị chưa khởi tâm đoạn trừ dâm dục thì không có việc gì, nhưng một khi quý vị vừa phát tâm đoạn trừ dâm dục thì ma dâm tìm đến ngay. Tìm đến bằng cách nào? Hoặc lúc quý vị đang ngủ , nó hóa thành vô số gái đẹp, quý vị thích hình dáng thếnào thì nó liền hóa hiện những cô gái hình dáng như thế ấy để dụ dỗ quý vị. Nếu là người nữ thì nó sẽ hóa hiện ra vô số chàng trai đẹp để mê hoặc quý vị, khảo nghiệm quý vị ngay trong giấc mộng. Lúc ấy nếu quý vị không nắm rõ, liền phạm giới ngay trong mộng, mất đi định lực. Không có định lực thì cũng không có trí tuệ. Hoặc là không phải ở trong mộng mà ngay cả lúc bình thường, hoặc là quý vị gặp lại bạn trai hay bạn gái trước kia của mình và cũng bất tri bất giácphạm vào giới cấm. Phạm giới rồi sẽ không còn định lực, giống kẻ ngu si, không có trí tuệ. Đây đều do vô minh che lấp trí tuệ của quý vị, khiến cho quý vị phá hoại giới luật. Đây là một cảnh giới khác của ma.

Lại nữa, quý vị suốt ngày tĩnh tọa, tham thiền, khi ngồi cũng sẽ phát sanh ma chướng. Hoặc là quý vị thấy vô số cảnh giới, hoặc là quý vị thấy mình có thần thông, hoặc là quý vị thấy thân mình lớn như hư không. Năm mươi cảnh giới của ngũ ấm ma trong kinh Lăng Nghiêm đề cập đều hiện ra trước mắt, đây đều lànhững cảnh giới của ma.

Trước kia có một lão hành giả tọa thiền tu đạo tại đây, lúc sắp nhập định nhưng vẫn chưa vào định thì thấy một cảnh giới hiện ra. Vị ấy thấy trên đầu mìnhcó một sợi dây rất nhỏ treo một khối đá nặng đến mấy tấn lơ lửng trên đầu, và trên sợi dây còn có một con chuột đang gặm sợi dây. Nếu dây bị cắn đứt thì nhất định khối đá đó sẽ rơi xuống đè chết vị ấy. Khi thấy cảnh giới này, nếu vị ấy sợ hãi, hoặc bỏ chạy thì sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, ma vương sẽ giành được phần thắng. Nhưng tâm của vị ấy như nước lặng: “Anh đem khối đá treo trên đầu tôi mong muốn đè tôi chết, tôi cũng mặc, dù tôi có chết cũng phải ngồi ở đâythiền”. Sau đó vị ấy nhập định, và kết quả là không có tảng đá nào đè vị ấy chết cả.

Lại nữa, lúc đức Phật Thích-ca Mâu-ni sắp thành đạo, ma vương Ba-tuần hoảng sợ, nói: “Ôi! Cù-đàm Tất-đạt-đa sắp thành Phật rồi, chúng ta cần phải nghĩ cách khiến cho hắn không thể thành Phật”. Lúc ma vương đang lo lắng tìm kế thì con gái ma vương đến hỏi cha: “Phụ vương! Vì sao cha lại buồn rầu như thế?”. Ma vương nói: “Hiện nay Cù-đàm sắp thành Phật rồi, cha không muốn ông ta thành Phật, vì ông ta thành Phật thì họ hàng ma vương của chúng ta không còn thế lực nữa, nên giờ đây cha đang nghĩ cách khiến cho Cù-đàm không thể thành Phật”. Con gái ma vương thưa: “Con xung phong, con sẽ đi nhiễu loạn đạo tâm của ông ta, khiến cho ông ta sinh tâm dâm dục”. Thế rồi ma nữ bèn đi phá hoại đạo nghiệp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Ma nữ xinh đẹp tuyệt trần, nó đi đến chỗ Đức Phật Thích Ca dùng vô số tư thế kiều mỵ để hòng mê hoặc Ngài, muốn Ngài khởi sanh tâm dâm dục. Nhưng Đức Phật lại như như bất động trước cảnh giới ấy, Ngài còn quán tưởng, nói rằng: “Ngươi cho rằng hiện giờ mình xinh đẹp, nhưng theo thời gian già suy, da dẻ trở nên sần sùi, tóc tai bạc trắng, trên mặt cũng sẽ xuất hiện những nếp nhăn nheo trông thật xấu ”. Đức Phật Thích Ca vừa quán tưởng như thế, ma nữ nhìn lại thấy mình lập tức trở thành một bà lão già nua, mắt mờ, tai lãng… Thế là ma nữ liền sinh tâm hổ thẹn, biến mất.

Nói về cảnh giới của ma thì có rất nhiều, có điều người tu đạo chúng ta bất luận gặp phải cảnh giới nào đều không nên để nó làm lay động. Quý vị không để bất kỳ cảnh giới nào làm lay động, đó chính là định lực, quý vị có định lực thì có thể nhiếp phục được tán loạn, không tán loạn thì không bị tẩu hỏa nhập ma và như thế có thể phá trừ được cảnh giới của ma.

Giải thoát ra ngoài chẳng vấn vương”: Ở trong thế gian đạo cũng được giải thoát. Thế gian đạo chính là đạo lý ở thế gian này của chúng ta. Ở ngaynơi thế pháp mà có thể xuất thế, tức ngay ở nơi thế gian mà có thể xuất thế gian. Thế nào là ở trong thế gian mà xuất thế gian? Nghĩa là không chấp trước, quý vị xa rời được sự chấp trước của mình thì sẽ được giải thoát. Thế nào là không chấp trước? Đó là: 

Thân tại thế gian, tâm xuất thế; hoa trong đáy giếng chẳng nhuốm trần[3]

 

Người dù ở trong thế giới này mà tâm vượt thoát ngoài trần thế, cũng giống như trồng hoa trong giếng, bụi trần không thể làm nhuốm bẩn.

“Giống như hoa sen không dính nước”: cũng giống như hoa sen mọc từ bùn mà không nhiễm bùn. Rễ của hoa sen tuy phát triển ở trong bùn nhưng hoa của nó lại nở trên mặt nước hoàn toàn tinh khiết. Nếu chúng ta không đắm chấp tất cả các pháp thế gian thì cũng giống như hoa sen không  nhiễm bùnvậy.

“Như vầng nhật nguyện chẳng trụ không”: Cũng giống như mặt trời, mặt trăng, tuy ở trong hư không mà không bị dính mắc bởi hư không, không chỗ chấp trước.

 

[1] Nguyên văn: 假使百千劫,所作業不亡;因緣會遇時,果報還自受

[2] Bảng (pound) 磅: đơn vị đo trọng lượng của người Anh. 100 pounds (bảng)=45kg36.

[3] Nguyên văn: 人在塵心出塵,井裏栽花不染塵

 

K3. NGUYỆN THÀNH THỤC CHÚNG SINH

 

Dứt hết tất cả khổ ác đạo

Khắp đồng ban vui cho quần sinh

Như thế trải qua vô số kiếp

Lợi ích mười phương không cùng tận.

Tôi thường tùy thuận các chúng sanh

Cùng tận tất cả vị lai kiếp

Hằng tu hạnh lớn của Phổ Hiền

Viên mãn quả Bồ Ðề Vô Thượng.

 

Tất trừ nhất thiết ác đạo khổ

Đẳng dữ nhất thiết quần sinh lạc

Như thị kinh ư sát trần kiếp

Thập phương lợi ích hằng vô tận

Ngã thường tùy thuận chư chúng sinh

Tận ư vị lai nhất thiết kiếp

Hằng tu Phổ Hiền quảng đại hạnh

Viên mãn vô thượng đại Bồ-đề

 

“Dứt hết tất cả khổ ác đạo, Khắp đồng ban vui cho quần sinh”: Hoàn toàn đoạn trừ hết thảy các khổ trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đồng thời mang đến an lạc một cách bình đẳng cho tất cả chúng sinh.

“Như thế trải qua vô số kiếp, Lợi ích mười phương không cùng tận”: Trải qua kiếp số như vi trần đều thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh trong mười phương như thế, không lúc nào cùng tận.

“Tôi thường tùy thuận các chúng sanh, Cùng tận tất cả vị lai kiếp”: Tôi tu học mười nguyện rộng lớn của Bồ tát Phổ Hiền thường tùy thuận tất cả chúng sinh cho đến tất cả kiếp cùng tận vị lai.

“Hằng tu hạnh lớn của Phổ Hiền, Viên mãn quả Bồ Ðề Vô Thượng”: Tôi thường tu tập theo phương pháp rộng lớn của Bồ-tát Phổ Hiền như thế để thành tựu trọn vẹn thiện căn Đại Bồ-đề vô thượng, đạt đến viên mãn.

 

K4. NGUYỆN KHÔNG XA LÌA

 

Nguyện tất cả người cùng phạm hạnh

Ở khắp mọi nơi đồng tụ hợp

Thân khẩu ý nghiệp đều tương ưng

Cùng nhau tu học hết thảy hạnh.

Các thiện tri thức lợi ích tôi

Vì tôi chỉ bày hạnh Phổ Hiền

Nguyện thường tụ hợp cùng với tôi

Ðối với tôi lòng luôn hoan hỷ.

 

Sở hữu dữ ngã đồng hạnh giả

Ư nhất thiết xứ đồng tập hội

Thân khẩu ý nghiệp giai đồng đẳng

Nhất thiết hạnh nguyện đồng tu học

Sở hữu ích ngã thiện tri thức

Vị ngã hiển thị Phổ Hiền hạnh

Thường nguyện dữ ngã đồng tập hội

Ư ngã thường sanh hoan hỷ tâm

 

 “Nguyện tất cả người cùng phạm hạnh, Ở khắp mọi nơi đồng tụ hợp”: Tất cả những người tu hành cùng tu mười hạnh nguyện rộng lớn Phổ Hiềnnhư tôi, dù đang ở bất cứ nơi nào, chúng tôi cũng đều có thể tập hợp lại với nhau.

“Thân khẩu ý nghiệp đều tương ưng, Cùng nhau tu học hết thảy hạnh.”: Ba nghiệp thân khẩu ý của chúng tôi cũng đều giống nhau, chúng tôi cũng đều tu học tất cả những hạnh nguyện như nhau.

“Các thiện tri thức lợi ích tôi, Vì tôi chỉ bày hạnh Phổ Hiền”: Tất cả những thiện tri thức làm lợi ích cho tôi, đều dạy tôi hạnh môn tu hành này của Bồ tát Phổ Hiền.

“Nguyện thường tụ hợp cùng với tôi”: Những người có duyên với nhau mới có thể tụ hội lại một chỗ, người không có duyên thì dẫu có muốn tụ họp cũng không được. Cho nên những người thường có thể ở chung với nhau tu đạo đều là đời đời kiếp kiếp có lập nguyện này, muốn cùng nhau ở chung trong một pháp hội để dụng công tu hành.

“Ðối với tôi lòng luôn hoan hỷ”: Những người ấy thường khởi tâm hoan hỷ với tôi. Nếu là người không có duyên thì dù quý vị có đối xử tốt với họ thế nào, họ cũng không thấy tốt; nếu là người có duyên thì dù quý vị có đánh mắng họ thế nào đi nữa, họ đều sinh tâm hoan hỷ. Vì sao thế? Vì có duyên với nhau. Do đó luôn có một mối quan hệ vi diệu giữa người và người với nhau.

 

K5. NGUYỆN CÚNG DƯỜNG

 

Nguyện thường diện kiến các Như Lai

Cùng chúng Phật tử khắp vây quanh

Nguyện rộng cúng dường đến chư Phật

Tột kiếp vị lai không nhàm mỏi.

Nguyện gìn pháp mầu của chư Phật

Hiển bày cả thảy hạnh Bồ Ðề

Rốt ráo thanh tịnh hạnh Phổ Hiền

Trọn kiếp vị lai thường tu tập.

 

Nguyện thường diện kiến chư Như Lai

Cập chư Phật tử chúng vi nhiễu

Ư bỉ giai hưng quảng đại cúng

Tận vị lai kiếp vô bì yếm

Nguyện trì chư Phật vi diệu pháp

Quang hiển nhất thiết Bồ-đề hạnh

Cứu cánh thanh tịnh Phổ Hiền đạo

Tận vị lai kiếp thường tu tập.

 

“Nguyện thường diện kiến các Như Lai”: Tôi phát nguyện thường đến các cõi nước trong mười phương để diện kiến, thân cận hết thảy chư Phật.Cùng chúng Phật tử khắp vây quanh”: Cùng ở chung trong tất cả chúng đệ tử của chư Phật nhiễu quanh, tán thán, cúng dường chư Phật. Nguyện rộng cúng dường đến chư Phật”: Đối với tất cả chúng hội, tôi đều phát khởi tâm cúng dường rộng lớn, cúng dường hết thảy chư Phật cùng tất cả đệ tử của Ngài.Tột kiếp vị lai không nhàm mỏi”: Nguyện tâm cúng dường rộng lớn này của tôi cho đến cùng tận kiếp vị lai cũng không nhàm mỏi.

“Nguyện gìn pháp mầu của chư Phật”: tôi lại phát nguyện thọ trì pháp vi diệu thâm sâu của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, tôi nguyện nương theo pháp môn vi diệu của chư Phật để tu hành. Đó gọi là:

Pháp vi diệu rất sâu vô thượng

Trăm nghìn muôn kiếp khó gặp được

Con nay thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Phật.

Quý vị không nên cho rằng Phật pháp đơn giản dễ hiểu. Phật pháp không những không đơn giản dễ hiểu mà ngay cả gặp được Phật pháp cũng là vô cùng khó. Vì thế nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, Thiện tri thức khó gặp[1]”. Phật pháp khó được nghe nhưng hiện tại chúng ta đã được nghe Phật pháp; thân người khó được nhưng chúng ta cũng đã được thân người rồi; thiện tri thức khó gặp thì chúng ta phải tìm thiện tri thức. Rõ bày cả thảy hạnh Bồ Ðề”: tôi phải xiển dương Phật pháp sâu rộng, khiến cho ánh sáng giác ngộ chiếu soi, hiển bày khắp trong vũ trụ. Rốt ráo thanh tịnh hạnh Phổ Hiền”: đạt đến cảnh giới Niết-bàn thanh tịnh rốt ráo, trọn vẹn đạo Bồ-đề lớn này của Bồ tát Phổ Hiền. Trọn kiếp vị lai thường tu tập”: Đến cùng tận kiếp vị lai tôi đều luôn tu tập tất cả hạnh Phổ Hiền này.

 

K6. NGUYỆN LÀM LỢI ÍCH

 

Tôi ở trong tất cả các cõi

Hằng tu phước, trí vô cùng tận

Ðịnh, tuệ, phương tiện và giải thoát

Ðược những tạng công đức vô tận.

Trong một mảy trần vô số cõi

Trong mỗi cõi nước vô số Phật

Mỗi Phật hiện thân trong chúng hội

Tôi thấy luôn giảng hạnh Bồ Ðề.

 

Ngã ư nhất thiết chư hữu trung

Sở tu phúc trí hằng vô tận

Định tuệ phương tiện cập giải thoát

Hoạch chư vô tận công đức tạng

Nhất trần trung hữu trần số sát

Nhất nhất sát hữu nan tư Phật

Nhất nhất Phật xứ chúng hội trung

Ngã kiến hằng diễn Bồ-đề hạnh

 

Tôi ở trong tất cả các cõi, Hằng tu phước, trí vô cùng tận”: tôi ở tất cả những nước trong ba cõi, thường tu tập phúc đức và trí tuệ không bao giờ dừng nghỉ. Quý vị muốn tu phúc đức thì phải làm những việc tốt, quý vị muốn tu trí tuệ thì phải học nhiều Phật pháp, quý vị làm nhiều việc công đức lành thì có phúc; quý vị luôn hoằng dương Phật pháp, chuyển bánh xe pháp lớn, giáo hóa chúng sinh thì sẽ khai mở trí tuệ. Làm được như thế thì phúc cũng vô tận, màtuệ cũng vô biên.

“Ðịnh, tuệ, phương tiện và giải thoát, Ðược những tạng công đức vô tận”: Định lực đươc viên mãn và tuệ lực cũng trọn vẹn, dùng pháp môn phương tiện quyền xảo và giải thoát mà đạt được tạng công đức không cùng tận này. Tạng công đức ấy lớn như hư không, nhiều như pháp giới, cho nên đếncùng kiếp vị lai cũng không cùng tận.

“Trong một mảy trần vô số cõi”: Với Phật pháp, trong lớn có thể hiện nhỏ, trong nhỏ cũng có thể hiện lớn. Một hạt vi trần là rất nhỏ, nhưng trong hạt vi trần ấy lại có thể hiện ra vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật. Trong mỗi cõi nước vô số Phật”: Lại lấy mỗi hạt vi trần ở trong cõi nước ấy làm thành một cõi Phật, trong mỗi cõi Phật này lại có vô số cõi Phật nhiều như vi trần.

“Mỗi Phật hiện thân trong chúng hội”: Mỗi một vị Phật đều có một pháp hội, trong những pháp hội ấy đều có chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn A-la-hán cung kính vây quanh, tán thán. Tôi thấy luôn giảng hạnh Bồ Ðề”: Tôi thấy tất cả các Bồ-tát, những người tu đạo trong các hải hội ấy của chư Phật cũng đều tu theo hạnh Bồ-đề này của Bồ-tát Phổ Hiền.

 

K7. NGUYỆN CHUYỂN BÁNH XE PHÁP

 

Khắp cùng mười phương các cõi nước

Mỗi đầu sợi lông đủ ba đời

Phật cùng quốc độ số vô lượng

Tôi trải trần kiếp khắp tu hành.

Lời nói Như Lai đều thanh tịnh

Một lời đủ cả các âm thinh

Theo tiếng chúng sanh lòng ưa thích

Biển pháp tuôn chảy Phật biện tài.

Tất cả chư Phật trong ba đời

Dùng biển ngữ ngôn vô tận ấy

Hằng chuyển pháp luân diệu lý thú

Trí lực sâu tôi vào được khắp.

 

Phổ tận thập phương chư sát hải

Nhất nhất mao đoan tam thế hải

Phật hải cập dữ quốc độ hải

Ngã biến tu hành kinh kiếp hải

Nhất thiết Như Lai ngữ thanh tịnh

Nhất ngôn cụ chúng âm thanh hải

Tùy chư chúng sinh ý nhạo âm

Nhất nhất lưu Phật biện tài hải

Tam thế nhất thiết chư Như Lai

Ư bỉ vô tận ngữ ngôn hải

Hằng chuyển lý thú diệu pháp luân

Ngã thâm trí lực phổ năng nhập

 

“Khắp cùng mười phương các cõi nước”: Trong biển Phật quốc khắp mười phương. ‘Biển’ là chỉ cho số nhiều; ý nói là vô lượng vô biên, quý vị không có cách nào tính biết được số ấy là bao nhiêu. Mỗi đầu sợi lông đủ ba đời”: Ở trên mỗi đầu một sợi lông lại hiện ra hết thảy cõi nước của chư Phật trong mười phương ba đời. Phật cùng quốc độ số vô lượng”: Tất cả chư Phật số nhiều như biển lớn và tất cả cõi nước của chư Phật cũng nhiều không hạn lượng.Tôi trải trần kiếp khắp tu hành”: thời gian tôi tu hành cũng vô lượng vô biên, như biển lớn độ sâu khó dò.

“Lời nói Như Lai đều thanh tịnh”: Tất cả âm thanh thuyết pháp của chư Phật Như Lai đều là thanh tịnh âm. Một lời đủ cả các âm thinh”: ở trong mỗi lời nói đều đầy đủ tất cả biển âm thanh, âm thanh này cũng là vô lượng vô biên. Trong Kinh Địa Tạng nói Phật có vô lượng âm thanh, như tiếng sấm động, tiếng sấm động lớn, tiếng sư tử gầm, tiếng sư tử gầm lớn… Theo tiếng chúng sanh lòng ưa thích”: Biển âm thanh này của Phật cũng là âm thanh diễn nóitùy theo sự ưa thích, sự ước nguyện của chúng sinh. Biển pháp tuôn chảy Phật biện tài”: mỗi một âm thanh đều lưu xuất từ vô lượng tam-muội biện tài của Phật, nên gọi là biển biện tài. Phật thuyết pháp chỉ một âm mà mỗi loại chúng sanh đều nghe hiểu. Khi Phật thuyết pháp, chỉ thuyết bằng một loại ngôn ngữ nhưng tất cả các loài chúng sinh đều nghe hiểu, không cần phiên dịch, cho nên nói pháp Phật thuyết pháp là không thể nghĩ bàn.

“Tất cả chư Phật trong ba đời”: ba đời nếu theo sự mà nói chính là quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu y lý mà nói thì chỉ có một đời, không có quá khứ, cũng không có hiện tại và vị lai. Vì sao thế? Khi quý vị nói đó là quá khứ thì nó đã đi qua rồi; khi quý vị nói đây là hiện tại thì hiện tại này lại trở thành quá khứ;quý vị nói là vị lai thì vị lai còn chưa đến, hà tất gì phải nói đến nó? Thế nên nói: “tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được[2]”.

Nếu quý vị đã rõ ba tâm đều chẳng thể được thì ba đời chư Phật ở đây cũng cùng là một lý ấy, đó chỉ là một từ mang tính khái quát. Nếu quý vị chỉ nói quá khứ thì đã sót mất hiện tại; nếu quý vị nói vị lai thì quá khứ và hiện tại cũng chẳng bao hàm ở trong đó. Vậy nên nói ba đời để bao hàm luôn quá khứ, hiện tại và vị lai ở trong đó. Đó là nói chung, là một cách nói tổng quát. Như “tất cả chư Phật” chính là chỉ cho vô lượng vô biên các đức Phật, cũng có thể chỉ cho mộtvị Phật mà quý vị đang đối trước.

“Dùng biển ngôn ngữ vô tận ấy”: hết thảy chư Phật trong mười phương ba đời đều dùng biển ngôn ngữ vô cùng tận – như biển lớn vô lượng vô biên –  của mình. Hằng chuyển pháp luân diệu lý thú”: Các ngài thường xoay bánh xe pháp của thú vi diệu chẳng thể nghĩ bàn. ‘Lý’ (noumenon) là dựa vàosự, hiện tượng (phenomena) mà nói lý, tức là giảng lý luận. ‘Thú’ là thú nhập, là đạo lý mà “lý” biểu hiện. Giống như hiện nay chúng ta đang giảng kinh thuyết pháp, chính là giảng về lý và thú[3]. Lý thú ấy có sâu có cạn, có rộng có hẹp[4]. Trí lực sâu tôi vào được khắp”: Tôi tu tập sâu sắc hạnh Bát-nhã này, cho nên có được sức mạnh trí tuệ Bát-nhã thâm sâu, có thể lãnh hội được vô lượng pháp âm của tất cả chư Phật.

 

    K8. NGUYỆN TỊNH ĐỘ

 

Tôi hay thâm nhập đời vị lai

Tất cả kiếp thâu làm một niệm

Hết thảy những kiếp trong ba đời

Trong khoảng một niệm tôi đều nhập,

Tôi trong một niệm thấy ba đời

Tất cả các đấng Nhơn Sư Tử

Cũng thường vào trong cảnh giới Phật

Như huyễn giải thoát và oai lực.

 

Ngã năng thâm nhập ư vị lai

Tận nhất thiết kiếp vi nhất niệm

Tam thế sở hữu nhất thiết kiếp

Vi nhất niệm tế ngã giai nhập

Ngã ư nhất niệm kiến tam thế

Sở hữu nhất thiết nhân sư tử

Diệc thường nhập Phật cảnh giới trung

Như huyễn giải thoát cập uy lực.

 

“Tôi hay thâm nhập đời vị lai”: Tôi không chỉ có thể thấu triệt tất cả biển âm thanh trong hiện tại mà còn có thể lãnh hội được tất cả biển âm thanh ở vị lai. Tất cả kiếp thâu làm một niệm”: có thể thâu vạn kiếp thành một niệm, phóng một niệm thành vạn kiếp. Tất cả kiếp cũng chính là một niệm, một niệm cũng chính là tất cả kiếp. Đạo lý này thật khó hiểu. Nay tôi kể ra một câu chuyện để minh họa cho đạo lý ấy, quý vị sẽ dễ hiểu hơn.

Tại Hàng Châu, Trung Hoa có năm ngọn núi Thiên Mục, đó là Đông Thiên Mục, Tây Thiên Mục, Nam Thiên Mục, Bắc Thiên Mục và Trung Thiên Mục. Vì sao những ngọn núi này có tên là Thiên Mục? Vì trên mỗi đỉnh núi đều có hai dòng suối, nhìn từ xa giống như hai con mắt của núi, vì thế gọi là núi Thiên Mục (mắt trời). Trên núi ấy có rất nhiều người tu hành. Ở trên núi Tây Thiên Mục có một ngọn gọi là Đảo Quải Liên Hoa, hình dạng giống như một đóa hoa sen treo ngược, có một vị thiền sư tên Cao Phong Diệu tu đạo ở đây.

Vì sao Ngài phải đến đây tu hành? Bởi vì mỗi lần tọa thiền, ngài hay bị ngủ gục, ngủ gục như vậy thì chẳng thể nhập định, bị bệnh hôn trầm rất nặng. Quý vị từng nghe trong Tâm Kinh  khi giảng về ‘tập đế’ trong ‘khổ, tập, diệt, đạo’, tôi có đề cập đến hai mươi sáu thứ phiền não, trong đó có một thứ phiền não tên là hôn trầm. Vì sao gọi hôn trầm là phiền não? Bởi vì quý vị tu đạo mà bị hôn trầm thì không thể nhập định, không thể nhập định thì tâm sinh tán loạn. Thiền sư Cao Phong Diệu muốn tự mình tìm một phương pháp đối trị bệnh hôn trầm ấy. Ngài biết có một nơi ở Đảo Quải Liên Hoa thuộc Tây Thiên Mục có thể ngồi thiền,nơi đây tuy có thể ngồi thiền nhưng nếu hôn trầm thì sẽ bị rơi xuống khe núi. Khe núi này sâu đến mấy nghìn vạn trượng, nếu như bị rơi từ trên cao xuống thìchắc chắn sẽ nát thịt tan xương.

Thiền sư Cao Phong Diệu chẳng kể đến sinh mạng tìm đến Đảo Quải Liên Hoa để tu đạo, ngồi thiền trên vực sâu vạn trượng, nếu như ngủ gục sẽ bị rơi xuống mà chết. Ngài tọa thiền ngày thứ nhất không bị ngủ gục, ngày thứ hai, thứ ba cũng không ngủ gục, đến ngày thứ tư, không duy trì nổi, ngài lại bị ngủ gục. Quả nhiên khi vừa ngủ gục liền bị rơi xuống, lúc đang rơi ngài giật mình tỉnh dậy, nhưng khi rơi được nửa đường thì không rơi tiếp nữa, có một người đỡđưa ngài lên.

Ngài hỏi:

-Ai đã cứu đưa tôi lên đây?

-Người ấy đáp:

-Tôi là Hộ pháp Vi-đà[5].

Ngài vừa nghe nói Hộ pháp Vi-đà cứu đưa mình lên liền sinh tâm tự hào hỏi Bồ-tát Vi-đà:

-Bạch Bồ-tát, trên thế gian này những người tu hành giống tôi được bao nhiêu?

Bồ-tát Vi-đà đáp:

-Trên thế gian này những người tu hành giống ông nhiều như lông trâu, thậm chí còn nhiều hơn lông trên thân trâu, ông thật không biết hổ thẹn! Tám vạn đại kiếp ta sẽ không hộ pháp cho ông nữa. Nói xong, Vi-đà liền bỏ đi.

Thiền sư Cao Phong Diệu vừa nghe Bồ-tát Vi-đà nói tám vạn đại kiếp không hộ pháp cho mình, lần này tiêu rồi, liền than khóc, sinh tâm hổ thẹn nói: “Ôi chao! Ta thật là người chẳng chút tu hành, Bồ-tát Vi-đà vừa mới hộ pháp cho mình, sao mình lại sinh tâm kiêu ngạo như thế?” Tự cảm thấy hổ thẹn khóc lớn. Khóc độ khoảng một hồi lâu, bất chợt ngài lại nghĩ: “Trước đây mình chẳng biết có Bồ-tát Vi-đà hộ pháp cho mình, mình cũng tu hành thế thôi! Mình cũng không nhất định phải dựa vào sự hộ pháp của Bồ-tát Vi-đà mới có thể tu đạo? Nay Bồ-tát Vi-đà không còn hộ pháp cho mình, chả lẽ mình không tu đạo đượchay sao! Mình vẫn sẽ tu hành như trước!”. Thế rồi ngài phát tâm tiếp tục tọa thiền ở trên đó. Lần này lại càng tinh tấn hơn, ngài hạ quyết tâm: “Ta chẳng màng đến sinh mạng, dù cho có rơi chết ta cũng phải ngồi thiền để thành tựu đạo nghiệp”. Thế rồi ngài duy trì được mấy ngày, sau đó lại ngủ gục, rồi lại rơi xuống. Lần này khi rơi đến nửa đường cũng lại có người nâng Ngài lên. Ngài lại hỏi:

-Lần này ai đến hộ pháp cho tôi?

Vị ấy lại nói:

-Vi-đà.

Thiền sư Cao Phong Diệu liền nổi giận nói: “Này ông Vi-đà, ông cũng biết vọng ngữ sao? Ông nói tám vạn đại kiếp không hộ pháp cho tôi, vì sao nay ông lại cứu tôi, chẳng phải ông đã nói dối sao?”

Bồ-tát Vi-đà đáp:

-Chẳng phải! Trước đây tôi nói ngài đã sinh tâm cống cao thì tám vạn đại kiếp tôi không hộ pháp cho ngài, nhưng sau đó ngài sinh tâm hổ thẹn, ngài vừa hổ thẹn thì đã vượt qua tám vạn đại kiếp rồi, vì thế nay tôi lại đến hộ pháp cho ngài.

Thiền sư Cao Phong Diệu một niệm sám hối có thể vượt qua tám vạn đại kiếp thì nguyên lý cùng tận hết thảy kiếp gồm trong một niệm cũng như thế.

“Hết thảy những kiếp trong ba đời, Trong khoảng một niệm tôi đều nhập”: Hết thảy các kiếp trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, trong một niệm tôi có thể đi vào bằng khoãng thời gian dài của hết thảy các kiếp trong mười phương ba đời.

“Tôi trong một niệm thấy ba đời, Tất cả các đấng Nhơn Sư Tử”: Với thời gian ngắn chỉ trong một niệm, nhưng tôi có thể thấy được  tất cả chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai trong mười phương. Bậc Sư Tử chính là chư Phật. “Cũng thường vào trong cảnh giới Phật”: tôi cũng thường đến cảnh giới của Phật. Cảnh giới của Phật là gì? Chính là cảnh giới bất khả tư nghì, cảnh giới của một niệm thâu vạn kiếp, vạn kiếp trong một niệm. Cảnh giới ấy người thiếu trí tuệ và không có thiện căn chẳng thể tin hiểu. Vì sao chẳng thể tin? Vì trí tuệ của họ không đạt đến cảnh giới ấy nên họ không tin.

“Như huyễn giải thoát và oai lực”: Cảnh giới của Phật cũng chính là Như huyễn tam muội[6], Như huyễn tam-muội cũng chính là giải thoát tam-muội. Phật lại có sức mạnh thần thông đại oai đức, tất cả đều như huyễn như hóa, thần thông dạo khắp, thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, đó chính là cảnh giới của chư Phật và Bồ-tát. Tóm lại:  Cảnh giới của Phật chính là cảnh giới bất khả tư nghì, là cảnh giới Như huyễn tam-muội. Quý vị nói nó là cảnh giới thật, nó lại  như huyễn; quý vị nói nó là cảnh giới giả, nó lại là thật.

 

 K9. NGUYỆN THỪA SỰ

 

Trong mỗi hạt bụi đầu sợi lông

Xuất hiện cõi trang nghiêm ba thuở

Mười phương cõi nước các đầu lông

Tôi đều nguyện vào để nghiêm tịnh.

Vị lai các đấng Chiếu Thế Ðăng

Thành đạo chuyển pháp ngộ quần sanh

Phật sự xong rồi hiện nhập diệt

Tôi đều đi đến để thân cận.

 

Ư nhất mao đoan cực vi trung

Xuất hiện tam thế trang nghiêm sát

Thập phương trần sát chư mao đoan

Ngã giai thâm nhập nhi nghiêm tịnh

Sở hữu vị lai chiếu thế đăng

Thành đạo chuyển pháp ngộ quần hữu

Cứu cánh Phật sự thị Niết-bàn

Ngã giai vãng nghệ nhi thân cận.

 

 “Trong mỗi hạt bụi đầu sợi lông”: Trên đầu mỗi chóp lông hay trong mỗi hạt bụi, Xuất hiện cõi trang nghiêm ba thuở”: xuất hiện cõi nước trang nghiêm của chư Phật trong ba đời. Đó cũng chính là cảnh giới “Ở đầu sợi lông hiện cõi nước Bảo Vương[7], ngồi trong hạt bụi chuyển bánh xe pháp lớn’. Mười phương cõi nước các đầu lông”: Trên đầu sợi lông xuất hiện cõi nước nhiều như số vi trần trong mười phương. Tôi đều nguyện vào để nghiêm tịnh”:tôi dùng sức mạnh của mười hạnh nguyện lớn Phổ Hiền đi vào bên trong cảnh giới ấy, ở trong cõi nước bảo vương trên đầu mỗi sợi lông chuyển bánh xe pháp lớn, làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh.

“Vị lai các đấng Chiếu Thế Ðăng, Thành đạo chuyển pháp ngộ quần sanh”: Hết thảy chư Phật ở trong đời vị lai, những vị đang thành đạo, chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh. “Ngộ quần sinh” cũng chính là giáo hóa chúng sinh, giáo hóa hết thảy chúng hữu tình. Phật sự xong rồi hiện nhập diệt”:Mãi đến sau khi làm xong tất cả các Phật sự, các Ngài đều thị hiện Niết-bàn. Tôi đều đi đến để thân cận”: Khi mỗi vị Phật sắp nhập Niết-bàn, tôi đều đếnhết thảy những đạo tràng ấy để thân cận hầu hạ tất cả các Ngài.

 

 

K10. NGUYỆN THÀNH CHÁNH GIÁC

 

Sức thần thông rộng khắp chóng mau

Sức phổ môn khắp nhập Ðại thừa

Sức trí hạnh khắp tu công đức

Sức đại từ oai thần che khắp.

Sức phước thù thắng khắp trang nghiêm

Sức trí huệ không hề chấp dính

Sức định, huệ, phương tiện, oai thần

Sức hay khắp chứa đạo Bồ Ðề.

Sức thanh tịnh tất cả nghiệp lành

Sức hay bẻ diệt mọi phiền não

Sức hay hàng phục các chúng ma

Sức hành viên mãn hạnh Phổ Hiền.

 

Tốc tật chu biến thần thông lực

Phổ môn biến nhập Đại Thừa lực

Trí hành phổ tu công đức lực

Uy thần phổ phục đại từ lực

Biến tịnh trang nghiêm thắng phúc lực

Vô trước vô y trí tuệ lực

Định tuệ phương tiện uy thần lực

Phổ năng tích tập Bồ-đề lực

Thanh tịnh nhất thiết thiện nghiệp lực

Tồi diệt nhất thiết phiền não lực

Hàng phục nhất thiết chư ma lực

Viên mãn Phổ Hiền chư hạnh lực

 

“Sức thần thông rộng khắp chóng mau”: Nương vào nguyện lực khiến tôi nhanh chóng thành tựu hết thảy thần thông. Sức phổ môn khắp nhập Ðại thừa”: Tôi nương theo  hạnh nguyện phổ môn thị hiện để thành tựu sức mạnh thâm nhập vào tất cả biển giáo pháp Đại thừa. Sức trí hạnh khắp tu công đức”: dùng hạnh tu trí tuệ rộng tu hết thảy công đức. Sức đại từ oai thần che khắp”: Lại thành tựu nguyện lực đại từ bi, dùng sức thần oai đức lớn che chở khắp hết thảy chúng sinh.

Những vị sắp đi Đài Loan thọ giới phải chuẩn bị cho mình một ít tư lương. Đó là những gì? Tức dành nhiều thời gian nghiên cứu bản chú giải “Tâm Kinh”này. Quý vị đến Đài Loan, Hồng Kông, nói không chừng sẽ có người thỉnh quý vị giảng kinh. Khi giảng kinh, quý vị phải có một chút tư lương Phật pháp chân chính trao cho mọi người, nếu chỉ giảng một cách chung chung thì chẳng có gì đặc biệt. Hoặc quý vị giảng “Tâm Kinh”, hoặc giảng “Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện”, những bài kinh này khá ngắn, chỉ cần một hoặc vài tuần là giảng xong, cho nên quý vị cần phải chuẩn bị một chút. Còn “Tỳ-ni Nhật Dụng Thiết Yếu”thì mỗi ngày đều phải đọc tụng. Hiện giờ bản Tỳ-ni đã có chú giải, quý vị có thể xem hiểu, nếu có chữ nào không biết thì có thể đến hỏi tôi, đợi đến lúc thọ giớithì những bài Tỳ-ni này đều phải học thuộc lòng. Lại còn mười bài chú ngắn và các kệ tụng, mỗi sáng sớm thức dậy bước chân xuống giường là phải thầm niệm:

Từ sớm tinh mơ đến đầu hôm

Hết thảy chúng sanh tự giữ mình,

Nếu rủi mất mạng dưới chân này,

Nguyện ngươi tức thời sinh Tịnh Độ[8].

 

Còn có bài:

Thùy miên thủy ngộ,

Đương nguyện chúng sanh,

Nhất thiết trí giác,

Châu cố thập phương.

 

Ngủ nghỉ mới thức,

Nên nguyện chúng sanh,

(Thành tựu) tất cả trí giác,

Thấy khắp mười phương.

Bài này cũng phải niệm. Tức là sáng sớm vừa mới ngủ tỉnh dậy không nói gì khác mà chỉ trước nói: Tôi vừa tỉnh giấc, nên nguyện cho hết thảy chúng sanh thành tựu tất cả trí tuệ giác ngộ, thấy khắp mười phương. Không chỉ riêng mình tôi được như thế mà nguyện cho tất cả chúng sanh cũng đều không khác. Bất luận chúng ta phát nguyện gì, đều phải nói xin nguyện cho chúng sinh, nguyện cho chúng sinh là hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Như tam quy y cũng nói:

“Tự quy y Phật

Xin nguyện chúng sinh

Tỏ ngộ đạo lớn

Phát tâm Vô thượng”

Đó đều là vì hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Nên quý vị muốn đi thọ giới thì những kệ tụng và năm mươi ba bài chú ngắn đều phải thuộc nằm lòng. Quý vị là người nước ngoài, nếu đợi đến lúc đó mới học thì khó mà học thuộc. Quý vị phải sớm chuẩn bị cho tốt, đến lúc đó người ta vẫn chưa thuộc thì quý vị đã thuộc rồi. Cũng có khả năng quý vị là người Mỹ, nói không chừng họ sẽ mời quý vị dẫn đầu chúng Sa di (làm “Sa-di thủ”). Vì thế, mọi cái quý vị đều phải học, nếu không đến lúc ấy cái gì cũng không biết thì mọi người sẽ không phục.

Người Trung Hoa thích đặt cho người ngoại quốc một vài cái tên đặc biệt, như họ đã đặt cho người Ấn Độ một cái tên gọi là Ma-la-sát (Mleccha). “Ma-la” nghĩa là rất hoang thô, nói cái gì cũng đều là ma-la, ma-la, khiến người khác nghe không hiểu. “Sát” là chỉ cho giống người không biết chút lịch sự. Người TrungHoa cũng đã tặng cho người Tây phương một cái tên rất đặc biệt gọi là Lão phiên, lại gọi là Phiên quỷ. Ý nói hình dạng người ngoại quốc giống như quỷ vậy. Nếu quý vị đến đó mà điều gì cũng chẳng hiểu thì họ sẽ gọi quý vị là “Lão phiên”. Chữ “Phiên” có nghĩa là lỗ mãng, nói chung là không tốt lắm. Lại còn, nếu quý vị không hiểu lý lẽ gì thì họ sẽ gọi quý vị là “đại phiên thự” (củ khoai to). Điều này tôi biết rõ, người Trung Hoa rất xấu miệng.

“Sức phước thù thắng khắp trang nghiêm”: Phước lực thù thắng đều do sự tu hành rộng khắp và thanh tịnh mà có. Thắng phước chính là phước báuvô cùng siêu việt thù thắng, chẳng phải người bình thường có thể có được. Đó là phước gì? Chính là phước siêu xuất ba cõi, cũng chính là phước đức mà chư Phật và Bồ-tát tu tập. Vì sao nói Phật và Bồ-tát mới có được phước lực thù thắng này? Vì ngoài chư Phật ra, chỉ có Bồ-tát mới có thể có được phước lực thù thắng rộng khắp thanh tịnh, nên mới được trang nghiêm như thế. Thân của Phật gọi là thân phước huệ nhị nghiêm, thân của Bồ-tát cũng được gọi như thế, tứclà thân được trang nghiêm bằng phước đức và trí tuệ. Loại phước đức và trí tuệ ấy đều do vô lượng kiếp tu tập mà có, nghĩa là ở trong vô lượng kiếp đã từng làm vô số việc thiện, tu tập vô số căn lành mới có thể có được phước đức thù thắng ấy để trang nghiêm.

“Sức trí huệ không hề chấp dính”: Phước đức đã thù thắng, nên trí tuệ cũng thù thắng. Thế nào gọi là trí tuệ thù thắng? Đó là trí tuệ không chấp trước. Không chấp trước cũng chính là không nương tựa. Nương tựa cũng chính là chấp trước, chấp trước cũng chính là nương tựa. Không chấp, không trước nghĩa là không dính mắc, không nương tựa. Trí tuệ của người bình thường chúng ta đều có chỗ dính mắc, thấy cảnh giới nào thì liền chấp trước vào cảnh giới ấy nên chẳng thể giải thoát. Trí tuệ giải thoát này là trí tuệ chân chánh sáng tỏ. Trí tuệ chân chánh sáng tỏ là không chấp trước vào bất kỳ sự vật nào. Quý vị còn chấp trước là không có sự sáng suốt chân chính, cũng chính là không có trí tuệ thật sự. Nếu có, đa phần cũng chỉ là một thứ khôn lanh của thế gian, gọi là thế trí biện thông, nghĩa là dùng sự thông minh của trí tuệ thế gian để biện luận. Loại thế trí biện thông này luôn có sự chấp trước.

“Sức định, huệ, phương tiện, oai thần”: Không có định lực thì không thể phát sinh tuệ lực, không có tuệ lực cũng chẳng thể hiển lộ được định lực của quý vị. Người có trí tuệ lớn ắt có định lực, không có định lực thì sẽ không có đại trí tuệ. Thế định lực ấy từ đâu mà có? Định lực từ giới mà sinh. Nếu quý vị không trì giới thì sẽ không có định lực, không có định lực tất nhiên cũng sẽ không có tuệ lực. Nên không có tuệ lực cũng đồng nghĩa với không có giới lực vậy.

Người có trí tuệ mới có thể trì giới, người không có trí tuệ thì không thể trì giới. Vì sao vậy? Vì người ấy vô minh quá nặng, vô minh quá nặng đồng với không có trí tuệ, mà không có trí tuệ thì sẽ phạm giới. Đã thế, người ấy lại còn cho rằng mình không phạm, cho rằng mình đang giữ giới, thật là đại ngu si, đây là không phạm mà phạm vậy.

Nói “Định tuệ phương tiện”, “phương tiện” chính là pháp phương tiện. Vì sao gọi là pháp phương tiện? Pháp phương tiện là pháp không cố định, đó chính là “quán cơ đậu giáo”, tùy người mà thuyết pháp. Quán xét cơ duyên của chúng sinh, gặp phải hạng người nào thì nói pháp thích hợp với hạng người đó. Thuyết giảng Phật pháp phải ứng hợp với căn cơ người nghe, nên nói: “Tùy người thuyết giáo, tùy bệnh cho thuốc[9]”. Phải tùy theo căn cơ của từng người mà thuyết giảng Phật pháp, họ mắc bệnh nào thì cho thuốc đúng bệnh ấy, đó gọi là pháp phương tiện. Quý vị đã có phương tiện lực, còn phải có uy thần lực. Uy là có uy đáng kính, thần là thần thông. Ví như có người nói dối, họ tự cho mình nói rất trơn tru, không ai biết, song họ không thể lừa dối được quý vị, đây gọi là uy thần lực.

“Sức hay khắp chứa đạo Bồ-đề”: Những gì chúng ta có hôm nay đều do tích lũy mà thành, đó cũng chính là từ nhỏ có lớn, từ gần đến xa, từ cạn đến sâu. Bồ-đề cũng là do từng bước từng bước tích tu mà thành, chẳng phải tu một ngày mà có thể thành công. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tu phước huệ trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp chính là tích tụ Bồ-đề, trăm kiếp trồng tướng hảo cũng là tích tụ Bồ-đề.

Hình như quý vị vừa mới bắt đầu học Phật pháp từ năm ngoái, đó gọi là học Bồ-đề. Học Bồ-đề cũng chính là tích lũy Bồ-đề, tích lũy Bồ-đề cũng chính là tập hợp Bồ-đề, nghĩa là gom Bồ-đề tập trung về một chỗ. Từ khi quý vị bắt đầu học Bồ-đề cho đến hiện nay thì hạt giống Bồ-đề của quý vị ngày càng nhiều, quý vị hiểu được Phật pháp ngày cũng một nhiều. Lúc quý vị mới học Phật pháp, tôi giảng gì quý vị cũng chẳng hiểu, trải qua một khoảng thời gian thì có thể hiểu được một chút, đây chính là đã tích tụ được Bồ-đề. Nghe thêm một khoảng thời gian nữa thì những gì tôi giảng quý vị đều hiểu được cả. Lúc ấy quý vị sẽ thốt lên “Ồ! thì ra đạo lý này là như vậy”. Vì sao quý vị nghe đều hiểu hết? Bởi vì quý vị đã tích tụ Bồ-đề. Tích tụ Bồ-đề phải có tâm kiên trì dài lâu, chẳng phải hôm nay học, ngày mai lại không học. Quý vị không học thì Bồ-đề sẽ mất, quý vị sẽ không hiểu.

Giống như chúng tôi ở đây có một chú Sa-di xin phép ra ngoài hai tuần, nhưng đến sáu tuần mới về, vượt qua thời gian cho phép gấp ba lần. Trong sáu tuần ấy, chú Sa-di đã mất rất nhiều Bồ-đề, ngay cả bản thân chú cũng không hiểu vì sao lại mất! Quý vị không được chính là mất vậy! Không được học Phật pháp, chạy đông chạy tây ở khắp bên ngoài, đây gọi là không tích tụ được Bồ-đề, làm cho Bồ-đề bị tan mất.

Quý vị học Phật pháp chính là tích tụ Bồ-đề, quý vị không học Phật pháp chính là để Bồ-đề bị tiêu mất. Bồ-đề là giác, quý vị để mất Bồ-đề cũng đồng với bất giác. Bất giác là không biết mình sai, không biết mình để thời gian trôi qua vô ích. Có cơ hội tốt như vầy, quý vị lại không chịu học Phật pháp, cứ chạy rong khắp nơi, quý vị nói xem đó có phải là ngu si hay không? Đó quả là ngu si! Người ngu si thì không thể tích tụ Bồ-đề. Có sức định tuệ, sức thần thông mới có thể tích tụ được Bồ-đề, sức mạnh Bồ-đề này chính là một loại sức mạnh của giác ngộ. Giác ngộ chính là việc quý vị vốn không rõ mà nay rõ, không hiểu mà nay hiểu. Vốn nghe Phật pháp không hiểu, mà nay vừa nghe đã hiểu, thậm chí không nghe cũng giác ngộ mà nói rằng: “Ồ, thì ra việc tu giới lực quan trọng như vậy, mình nhất định phải tu trì giới luật”. Nếu quý vị không giữ giới, tùy tiện uống một ít rượu, tùy tiện làm một ít việc xấu, tùy tiện làm những việc mê mờ, đó gọi là không tích tụ Bồ-đề,  như thế không chỉ phạm giới mà còn mất cả Bồ-đề.

“Sức thanh tịnh tất cả nghiệp lành”: chúng ta làm việc thiện vì sao không thành Phật? Cũng vì thiện ác lẫn lộn, làm được một chút việc thiện thì trong đó lại dính một chút việc ác, làm một chút việc ác trong đó lại xen lẫn chút thiện. Ví như gặp một người bần cùng không có cơm ăn, áo mặc, quý vị liền giúp đỡ họ. Sau khi giúp đỡ, quý vị lại muốn lợi dụng họ mà rằng: “Trước đây tôi đối xử tốt với người ấy, nay tôi có thể bảo người ấy làm giúp tôi một ít việc mà không cần phải trả tiền công”. Người kia trước đây mang ân quý vị, nay quý vị nhờ họ làm việc, họ cũng rất ngại đòi tiền lương. Ví dụ, vốn người ấy làm công một ngày có thể kiếm được hai mươi đồng, nay quý vị kêu người ta làm một ngày công chỉ trả mười đồng, vô hình trung rẻ hơn mười đồng. Đó chính là quý vị có tâm tư lợi trong khi làm việc thiện, công đức của mười đồng ấy sẽ không còn nữa.

Tóm lại, nếu quý vị làm việc thiện mà có tâm tính toán, mong cầu, hy vọng tương lai được quả báo tốt thì bên trong thiện nghiệp ấy đã có lẫn ác nghiệp,khiến cho thiện nghiệp đã làm không còn thanh tịnh nữa. Do vậy khi chúng ta làm bất kỳ việc thiện gì cũng đừng nên mong cầu người ta báo đáp. Ví như quý vị giúp đỡ người thì không nên hy vọng người ấy sẽ giúp đỡ lại quý vị. Nếu quý vị hy vọng người ta đến giúp đỡ mình, đó chính là có tâm tư lợi, đây vốn không phải quý vị đang giúp đỡ người khác mà là đang giúp đỡ chính mình. Nếu quý vị thật tâm giúp đỡ người khác thì sao còn hy vọng người ta giúp lại mình? Vì sao lại muốn người ta có cảm tình tốt với mình? Quý vị nói thử xem! Bây giờ quý vị giúp đỡ người ta, hy vọng người ta sẽ cảm kích, mang ơn quý vị và sau này giúp đỡ lại quý vị. Đây há chẳng phải là một loại tâm tham sao! Đây chẳng phải giúp đỡ người một cách chân thật. Chân thật làm việc thiện giúp đỡ người thì phải nên “Ban ân không cần báo, cho người không hối tiếc[10]. Quý vị đối xử tốt với bất kỳ ai đều không nên mong họ sau này báo đáp lại quý vị. Giả như họ thật muốn báo đáp thì đó là việc của họ, bản thân quý vị không nên móng lên hy vọng. Quý vị có hy vọng, đó chính là phan duyên. Quý vị cho người khác bất kỳ thứ gì cũng không nên hối tiếc nói: “Ây da! Tôi cho anh ta vật này thật tiếc quá, đáng lẽ tôi không nên cho”. Đó chính là hối tiếc. Vật quý vị đã cho thì cũng đã cho rồi, vật chất thế gian là để cho người thế gian dùng. Nên có câu:

Người nào làm việc thiện

Mong muốn được người biết

Nên biết việc thiện ấy

Chẳng phải thiện chân thật.

Người nào làm việc ác

Sợ người biết tội mình

Nên biết việc ác ấy

Là điều ác lớn nhất.[11]

Giống như có một số người làm việc thiện, hoặc cúng dường Tam Bảo, bất luận bỏ ra chút của cải gì họ cũng đều muốn được báo chí đăng tin, quảng cáo về mình. Hình như ở đây có một người, thỉnh thoảng mua một ít rau cải và trái cây mang đến chùa, khi mang những thứ này đến, người ấy luôn hy vọng mọi người đều nhìn thấy và khen ngợi: “Quý vị xem, tôi là một đại hộ pháp đến đây cúng dường Tam Bảo!” Quý vị làm việc thiện mà thích mọi người biết đến, đó không phải là chân thiện. Vì sao vậy? Vì quý vị còn tham cái danh làm việc thiện. “Ông A thật là một người tốt, trên báo đăng ông ấy đã làm được những việc tốt gì gì đó”. Làm được một chút việc gì đều muốn được đăng lên báo cho mọi người biết, đó không phải là tốt thật sự mà chỉ là giả danh, giả danh như thế chi bằng đừng làm tốt hơn. Ban đầu tuy là giả danh, nhưng nếu biết ý thức dần dần có thể đạt đến chỗ chân thật, nếu ngay cả việc thiện giả cũng không làm thìcàng tệ hơn nữa. Quý vị làm việc xấu lại sợ người khác biết, đó chính là ác tệ hại nhất.

Quý vị làm việc thiện mà thích mọi người thấy biết, đó không phải là nghiệp thiện thanh tịnh. Vậy thì phải lén lén làm việc thiện ư? Không cần như thế, quý vị không cần muốn mọi người biết, cũng không cần cầu mọi người đừng biết. Nếu quý vị nhất định phải âm thầm làm việc thiện không cho mọi người biết, đó chính là thích cái danh không muốn rầm rộ. Dạng này cũng giống như trên. Cho nên tu đạo quan trọng nhất chính là ở chỗ này, quý vị không cần khoe khoang để người khác biết, cũng không cần giấu diếm người khác làm gì, làm việc phải vô tâm, làm mà giống như không làm. Quý vị muốn mọi người biết mình làm việc thiện, đó là háo danh; quý vị không muốn mọi người biết cũng là háo danh. Khó là khó ở chỗ này. Quý vị làm việc thiện muốn mọi người biết, đó là chấp trước; quý vị làm việc thiện nhưng không muốn mọi người biết cũng lại là một dạng chấp trước. Vậy phải làm sao đây? Không nên chấp trước. Quý vị không nhất thiết phô trương để người biết, cũng không nhất thiết che giấu để người không biết. Việc mà quý vị phải làm giống như không làm. Quý vị không làm thì làm gì có tâm háo danh hay tâm không háo danh! Không có, không có gì cả,  đó gọi là nghiệp lành thanh tịnh. Nghiệp lành thanh tịnh chính là pháp thanh tịnh như thế. Sức mạnh của loại nghiệp lành thanh tịnh này là rất lớn.

“Sức hay bẻ diệt mọi phiền não”: “Tồi” chính là bẻ gãy, diệt chính là tiêu diệt. Diệt cái gì? Diệt phiền não của mình, đây là việc khó nhất. Con người mà, quý vị bảo họ thế nào cũng được, nhưng quý vị bảo họ không phiền não thì rất khó. Vì phiền não là vô tận, nên làm cho không còn phiền não là rất khó. Khó thì khó, nhưng quý vị vẫn phải đoạn trừ nó! Trong“Tứ hoằng thệ nguyện” chẳng phải đã nói: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” đó sao? Thệ nguyện đoạn cũng chính là bẻ diệt. Bẻ diệt cũng chính là đoạn trừ, đoạn trừ tất cả các phiền não. Nhưng phải đoạn trừ từ đâu? Phương pháp đoạn trừ như thế nào? Và phải diệtra sao? Quý vị không sinh đó chính là  diệt! Có sinh mới có diệt, có diệt mới có sinh. Quý vị không sinh phiền não đó chính là diệt rồi vậy. Nếu quý vị khởi phiền não thì phiền nào ấy chẳng diệt được, quý vị chẳng sinh cũng chẳng diệt thì chẳng có phiền não. Đó chính là bẻ gãy tất cả phiền não. Phiền não, nếu giảngrộng ra có rất nhiều, nói một cách đơn giản đó là tham, sân, si. Ba thứ này là phiền não căn bản. Quý vị không có tâm tham, tâm sân, tâm si tức là đã trừ (dứt)diệt tất cả phiền não. Tuy nói là thệ nguyện đoạn những phiền não này, nhưng quý vị cũng có thể phát thêm một nguyện nữa, thệ nguyện không đoạn! Không đoạn, vậy giữ nó để làm gì? Giữ nó lợi ích rất lớn. Nếu quý vị đoạn trừ phiền não thì Bồ-đề cũng bị đoạn theo. Vì thế tôi không bảo quý vị đoạn phiền não, bởi phiền não chính là Bồ-đề. Nhưng nếu phiền não không đoạn thì phải làm sao đây? Phải chuyển hóa. Phương pháp chuyển hóa như thế nào? Chuyển hóa này là sự biến hóa vô cùng, nên nói:

“Động tắc biến,

Biến tắc hóa.

Duy thiên hạ chí thành vi năng hóa[12]

 

Động thì biến,

Biến tức hóa.

Chỉ có sự chí thành nhất mới có thể làm cho chuyển hóa được. Phiền não cần phải được chuyển hóa, quan trọng nhất chính là ở chỗ này: chuyển hóa. Trước đây mọi người nói đoạn trừ phiền não, nay tôi đổi thành chuyển hóa phiền não chứ không đoạn trừ phiền não, vì phiền não một khi đoạn thì Bồ-đề cũng bị dứt (diệt) luôn. Vì sao thế? Vì phiền não tức là Bồ-đề mà! Vấn đề là phải chuyển hóa như thế nào? Đương nhiên là có phương pháp. Hiện nay khoa học đã tiến bộ như thế, hóa học đã phát triển như thế thì phiền não cũng nên dùng một chữ  “hóa” để chuyển hóa.

Chuyển hóa bằng phương pháp nào? Tôi nói cho quý vị hay, phiền não chính là băng mà Bồ-đề chính là nước. Nếu quý vị đập nát băng rồi bỏ qua một bên thì đó chính là  “đoạn” và như thế Bồ-đề cũng chẳng còn. Nếu quý vị dùng ánh mặt trời chiếu vào thì băng sẽ tan chảy thành nước, mà nước chính là Bồ-đề. Phiền não tức Bồ-đề chính là đạo lý này vậy. Nếu quý vị đem phiền não chuyển hóa thành nước, biến thành Phật tính vốn có của mình thì đó chính là Bồ-đề, chính là giác đạo. Đây là một đạo lý rất hiển nhiên dễ hiểu, tôi thường giảng cho quý vị nghe, có điều do quý vị không chú tâm nên không biết sử dụng. Ví như có một cục nước đá to như một ly trà, quý vị dùng cục đá ấy đánh vào đầu người ta thì có thể làm cho họ bị vỡ đầu chảy máu lập tức đi diện kiến Diêm-la. Nếu quý vị đem cục đá ấy hóa thành một chén nước, dùng hết sức mình đổ lên đầu người khác thì cũng không thể gây chết người. Vốn cùng là một vật, từ băng biến thành nước, tuy không khác nhau bao nhiêu nhưng kết quả thì sai biệt rất lớn.

Từ điểm này có thể chứng minh, nếu quý vị có thể sử dụng tâm Bồ-đề để giáo hóa chúng sinh, chúng sinh sẽ vui mừng tiếp nhận; nếu quý vị dùng phiền não để giáo hóa chúng sinh thì chúng sinh thà chết chứ không tiếp nhận sự giáo hóa của quý vị. Vì thế, chúng ta nay nên chuyển hóa phiền não chứ không nên đoạn trừ. Phiền não của quý vị mà đoạn dứt thì Bồ-đề cũng sẽ mất. Quý vị nói tảng băng có thể giết chết người nên không cần nó, nhưng nếu quý vị không cần tảng băng thì nước cũng không còn. Phiền não này từ đâu mà đến? Phiền não đến từ Bồ-đề, chẳng qua nó biến thành băng mà thôi, nhưng băng ấy cũng chính là nước và nước cũng chính là băng. Vì lẽ này nên nói phiền não tức Bồ-đề. Nếu quý vị biết sử dụng thì là Bồ-đề, nếu không biết sử dụng thì là phiền não. Khi quý vị biết sử dụng thì nó trở nên vi diệu vô cùng; còn không biết sử dụng thì trở thành thô thiển không thể tả, chẳng có chút ý nghĩa gì cả. Vì thế, tôi khuyên các vị không nên đoạn trừ phiền não mà nên giữ lại nó.

“Sức hay hàng phục các chúng ma”: Hàng phục ma quân chính là khiến cho ma không đến quấy phá chúng ta tu đạo, trái lại còn trở thành hộ pháp. Hàng phục ma có rất nhiều cách: Có thể dùng thần thông của mình để hàng phục quân ma, cũng có khi dùng đạo lực, đức hạnh, định lực, tuệ lực, giới lực… để hàng phục chúng. Chúng quân ma bao gồm: thiên ma trên trời, địa ma dưới đất, nhân ma ở nhân gian, ma quỷ trong hàng quỷ quái, ly mỵ võng lượng. Lại có ma cảnh chính là cảnh giới của ma, lại có ma bệnh, ma tâm. Tất cả ma bên ngoài như thiên ma, địa ma, thần ma, quỷ ma, nhân ma cho đến ly mỵ võng lượng đều dễ dàng hàng phục, duy chỉ có ma tự tâm là rất khó hàng phục. Ma tự tâm này luôn luôn ở trong tâm chúng ta, nó khiến chúng ta không giữ quy củ, cho nên khó hàng phục nhất. Nhưng nếu sức trì giới của quý vị kiên cố, có được sức giới chân chính thì tất cả ma vương cũng chẳng thể dùng ma thuật gì để có thể lay động được giới lực, định lực của quý vị, cho nên nếu quý vị có định lực cũng có thể hàng phục tất cả chúng ma. Nên nói: “Đại sơn băng tiền nhi bất kinh, mỹ nữ đương tiền nhi bất động” nghĩa là dẫu núi lớn lở trước mặt quý vị cũng chẳng kinh sợ. Điều mà con người dễ phạm nhất là ma dâm dục, không kể là nam hay nữ, khi ma dâm dục này đến thì quý vị khó mà trụ vững. Ma dâm dục này hoặc là giả làm một người bình thường đến mê hoặc quý vị, hoặc là dùng biến hóa thân để dụ dỗ quý vị. Nếu những điều ấy không làm động tâm quý vị được thì nó đi vào giấc mộng để mê hoặc quý vị. Ở trong giấc mộng nó biến hóa ra một người con gái vô cùng xinh đẹp đến dẫn dụ quý vị, muốn đoạt được bảo bối của quý vị. Lúc ấy nếu quý vị không có định lực thì sẽ bị ma dâm dục ấy nhiễu loạn. Ma dâm dục ấy gặp người nam thì biến thành người nữ, gặp người nữ thì hiện thân người nam. Hoặc hiện tướng rất đẹp, hoặc hiện ra người mà thường ngày quý vị yêu thích nhất. Nếu quý vị không đủ định lực thì sẽ bị cảnh giới của ma chuyển. Nếu định lực của quý vị đủ vững thì sẽ không bị dao động.

Giảng đi giảng lại về những loài ma ấy, rốt cuộc “ma” nghĩa là gì? Ma gọi là ma-la (Māra), dịch là “sát giả”, nó chuyên môn phá hoại người tu đạo. Quý vị muốn tu đạo, nó sẽ đến phá hoại đạo nghiệp của quý vị. Người bị ma nhiễu loạn là những người như thế nào? Là những hạng người ngu si, không có trí tuệ. Quý vị muốn hàng phục ma cũng phải có vô số phương pháp, nếu quý vị có kiếm trí tuệ thì có thể hàng phục được các loài ma. Quý vị có kiếm trí tuệ, khi tất cả ma vương đến quý vị đều có thể chém phăng nó. Có người dùng năng lực thần chú để hàng phục các ma. Nếu quý vị trì chú, trì một cách viên mãn cũng có thể hàng phục các ma; quý vị tụng kinh, tụng một cách thuần thục cũng có thể hàng phục các ma; quý vị lễ lạy Kinh điển, lạy đến có cảm ứng cũng có thể hàng phục được các ma. Phương pháp hàng phục ma rất đa dạng, vì chủng loại ma vương vô số, nên phương pháp hàng phục chúng cũng rất nhiều, nhưng phải xem đến lúc đó quý vị có biết sử dụng hay không. “Chú Lăng-nghiêm” có năm hội. Năm hội được chia thành năm bộ: Trung tâm là Phật bộ, phương Đông là Kim Cương bộ, phương Nam là Bảo Sinh bộ, phương Tây là Liên Hoa bộ, phương Bắc là Thành Tựu bộ. Trung ương Phật bộ tôn Phật Tỳ-lô-giá-na cũng chính là Phật Thích-ca Mâu-ni làm bộ chủ. Đông phương Kim Cương bộ tôn Phật A-súc-bệ làm bộ chủ. Nam phương tôn Phật Bảo Sinh làm bộ chủ, Tây phương Liên Hoa bộ tôn Phật A-di-đà làm bộ chủ. Bắc phương tôn Phật Thành Tựu làm bộ chủ, còn gọi là Yết-ma bộ. Ngũ bộ này có năm pháp:

  1. Tức tai pháp: chính là tiêu diệt tất cả các tai nạn.
  2. Tăng ích pháp: tụng thần chú này sẽ trợ giúp cho đạo tâm, trí tuệ của quý vị gia tăng, tất cả đều có lợi ích cho quý vị.
  3. Hàng phục pháp: dùng đại thần thông lực của thần chú để hàng phục chính quý vị, khiến cho quý vị nhất nhất đều giữ quy củ.
  4. Câu triệu pháp: bất kể các loài ma cách bao xa, hoặc là nghìn dặm, vạn dặm, vạn vạn dặm, trăm nghìn vạn vạn dặm, thậm chí ở thế giới khác, hành tinh khác, một khi quý vị tụng thần chú này liền có thể triệu tập chúng đến, giống như dùng móc câu, câu gom chúng lại, chúng không đến cũng không được. Đó gọi là Câu triệu pháp.
  5. Thành tựu pháp: bất luận quý vị làm việc gì, nếu tụng chú này đều có thể thành tựu.

Trong “Chú Lăng-nghiêm” bao hàm cả năm sức mạnh như thế, vi diệu không thể  kể xiết, thật là cảnh giới bất khả tư nghì.

“Sức hành viên mãn hạnh Phổ Hiền”: sức hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền rất lớn, ngài là lực hạnh đệ nhất. Ở Trung Hoa, Bồ-tát Phổ Hiền trụ tại núi Nga My, tỉnh Tứ Xuyên. Núi Nga My là một trong bốn núi nổi tiếng ở Trung Hoa. Trên đỉnh núi thường xuất hiện vầng ánh sáng màu vàng kim. Người tu đạo đa phần muốn đến Tứ Xuyên để lễ bái núi Nga My. Núi Nga My rất cao, đường lên núi hơn một trăm dặm rất khó đi, nhưng lúc nào cũng có rất nhiều người băng ngàn vượt suối từ những nơi rất xa đến lễ bái Bồ-tát Phổ Hiền. Vì sao phải lễ bái Ngài? Vì vị Bồ-tát này có phát nguyện: Phàm người nào đến núi Nga My lễ bái, Ngài đều giúp cho thành tựu đạo nghiệp, cho nên có rất nhiều người tu đến đây lễ bái Ngài. Hạnh lực này của Bồ-tát Phổ Hiền không phải dễ dàng tu được viên mãn, nhưng Ngài lại có thể viên mãn tất cả những hạnh nguyện này. Như mười đại nguyện vương mà Ngài đã phát, mỗi một nguyện đều phải tu đến hư không chẳng còn, cho đến cõi giới chúng sinh, nghiệp của chúng sinh, phiền não của chúng sinh tất cả đều không còn mà hạnh nguyện của Ngài vẫn không cùng tận, Ngài vẫn y theo nguyện lực ấy mà hành.

 

[1] Nguyên văn: 人身難得,佛法難聞,善知識難遇.

[2] Nguyên văn: quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.過去心不可得,現在心不可得,未來心不可得.

[3] Lý (luận) và biểu hiện của nó.

[4] The Buddhas forever turn the wonderful Dharma wheel of noumenon and phenomena. Buddhas constantly turn the Dharma wheel of noumenon and phenomena. “Noumenon” is the opposite of “phenomena.” The noumenon refers to reality; reality is the principle which the noumenon represents. For example, we explain the Dharma of the Sutras by explaining their principles. Explaining the Dharma of the Sutras is explaining the noumenon. The noumenon includes both the superficial and the profound; it is both broad and narrow. “Broad” means far-reaching and great; “narrow” means not wide and expansive, but minute.

 

[5] Vi-đà 韋馱 (Skanda): Vị bồ-tát hóa thân thành thiên tướng ở cõi trời Tứ Thiên Vương, hộ trì Phật pháp trong ba châu thiên hạ.

[6] Như huyễn tam-muội 如幻三昧: là một loại định mà từ đó có thể thông đạt được lý như huyễn của vạn pháp.

[7] Bảo vương寶王: từ tôn xưng chỉ cho đức Phật.

[8] Nguyên văn: 從朝寅旦直至暮,一切眾生自迴護;若於足下喪其形,願汝即時生淨土。

 

[9] Nguyên văn: 因人施教,應病下藥

[10] Nguyên văn: 施恩不求報,予人不追悔

[11] Nguyên văn: 善欲人見,不是真善;惡恐人知,便是大惡。

[12] Nguyên văn: 動則變,變則化,唯天下至誠為能化

From movement there is change.

And  from change there comes transformation.

Only by being the world’s most sincere person can you effect a transformation.

 

J2. Tổng Kết Đại Nguyện (gồm hai phần)

K1. Tổng kết mười nguyện

K2. Quy kết nhị thánh

 

K1. TỔNG KẾT MƯỜI NGUYỆN

 

Khắp hay nghiêm tịnh các cõi nước

Giải thoát hết thảy chúng quần sanh

Khéo hay phân biệt tất cả pháp

Có thể sâu vào biển trí huệ.

 

Phổ năng nghiêm tịnh chư sát hải

Giải thoát nhất thiết chúng sinh hải

Thiện năng phân biệt chư pháp hải

Năng thậm thâm nhập trí tuệ hải

 

“Khắp hay nghiêm tịnh các cõi nước”: Khéo trang nghiêm thanh tịnh khắp tất cả cõi nước nhiều như biển lớn của chư Phật. Giải thoát hết thảy chúng quần sanh”: Tất cả chúng sinh chúng ta đều có chấp trước, hễ có chấp trước thì không thể giải thoát, không có giải thoát thì không thể đạt được tự do chân chính. Vì sao không được tự do? Chính là vì có chấp trước.

Trước kia có một vị Tỳ-kheo xin bậc thiện tri thức khai thị, vị ấy đắp y, quỳ gối chắp tay thưa vị thiện tri thức rằng:

– Dùng phương pháp nào mới có thể đạt được giải thoát?

Vị thiện tri thức chỉ nói một câu khiến vị Tỳ-kheo liền khai ngộ:

– Ai đã trói ông?

Vị Tỳ-kheo bèn nghĩ: “Không ai trói ta cả! Chỉ có ta tự trói lấy mình”. Thế là vị ấy khoát nhiên khai ngộ, liền được giải thoát.

Giải thoát một chúng sinh, hai chúng sinh là việc dễ. Nếu muốn cho tất cả chúng sinh đều được giải thoát mới là khó. Tuy khó nhưng nếu quý vị có thể thành tựu thì cũng không phải là khó.

“Khéo hay phân biệt tất cả pháp”: Pháp ấy chính là nói tất cả kinh điển thuộc Tam tạng Mười hai bộ. Tam tạng chính là Kinh tạng, Luận tạng và Luật tạng. Kinh là tất cả kinh điển do Phật nói, Luận là tất cả luận học, Luật là những giới luật được giảng. Lại có mười hai bộ, mười hai bộ ấy được diễn bằng bài kệ tụng như sau:

Trường hàng, trùng tụng tinh thụ ký

Cô khởi, vô vấn nhi tự thuyết

Nhân duyên, thí dụ cập bổn sự

Bổn sinh, phương quảng, vị tằng hữu.

Luận nghị cộng thành mười hai bộ.

 

  1. Trường Hàng: là những kinh văn từng hàng từng hàng từ trên xuống dưới.
  2. Trùng tụng: Kệ tụng nay đang giảng chính là trùng tụng. Đó là kệ tụng nói lại văn trường hàng ở trước.
  3. Thụ ký: Thụ ký cũng là một bộ. Là Phật thụ ký thời gian thành Phật, cũng như danh hiệu riêng biệt cho một vị Bồ-tát, A-la-hán nào đó.
  4. Cô khởi: Cô khởi chính là cô khởi tụng. Phần kệ tụng này không có liên quan gì đến phần kinh văn phía trước và sau nó mà bất ngờ xuất hiện vài câu kệ tụng một cách đơn lẻ. Như bài kệ trong Kinh Kim Cương:

 

Tất cả pháp hữu vi

 Như mộng, ảo, bọt, bóng

 Như sương sớm, điện chớp

Nên quán chiếu như vậy.

Đây gọi là tụng cô khởi.

  1. Vô vấn nhi tự thuyết: Vô vấn chính là không có người hỏi mà Phật tự nói. Giống như Kinh Di-đà chính là kinh vô vấn nhi tự thuyết.
  2. Nhân duyên: là nói đến nhân duyên thấy Phật nghe pháp hoặc Phật thuyết pháp giáo hóa.
  3. Thí dụ: Vì sợ chúng sinh không hiểu rõ, nên Phật đưa ra một ví dụ khiến cho họ được rõ. Như phẩm “Thí dụ” trong kinh Pháp Hoa cũng là một bộ.
  4. Bản sự: là những câu chuyện quá khứ về cuộc đời của Phật, Bồ-tát, A-la-hán.
  5. Bản sinh: là những câu chuyện về cuộc đời của Phật, Bồ-tát trong hiện đời.
  6. Phương quảng: là giảng về bộ Phương quảng. Đức Phật tuyên nói giáo nghĩa sâu rộng như bộ “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”.
  7. Vị tằng hữu: là kinh văn ghi lại việc Phật hiện vô số thần lực bất khả tư nghì.
  8. Luận nghị: Kinh văn ghi lại các cuộc luận nghị vấn đáp.

Mười hai bộ kinh này lại phân thành Đại thừa, Tiểu thừa, Duyên giác thừa, Thanh văn thừa, Bồ-tát thừa, Phật thừa với vô số sự sai khác. Nếu quý vị không rõ thì sẽ không biết mình đang tu theo thừa nào, hạnh môn nào là tốt. Phật pháp giống như biển cả, nếu quý vị có thể phân biệt được thật tướng của các pháp ấy thì có thể nương vào pháp tu hành.

“Có thể sâu vào biển trí huệ”: Quý vị có thể phân biệt các pháp thì có thể đi sâu vào các pháp, đi sâu vào các pháp thì sẽ đạt được trí tuệ vô lượng vô biên như biển lớn.

Khắp tu thanh tịnh các công hạnh

Chí nguyện cả thảy đều viên mãn

Gần gũi cúng dường chư Như Lai

Tu hành ức kiếp không mỏi mệt.

 

Phổ năng thanh tịnh chư hạnh hải

Viên mãn nhất thiết chư nguyện hải

Thân cận cúng dường chư Phật Hải

Tu hành vô quyện kinh kiếp hải

 

“Khắp tu thanh tịnh các công hạnh”: Hết thảy các hạnh để tu hành nhiều như biển lớn, khi chúng ta tu đạo cần phải thuần không được tạp, chuyên nhất tu hành một pháp môn thanh tịnh, không thể ở trong pháp thanh tịnh lại tồn tại chút pháp nhiễm ô. Đây gọi là tất cả các hạnh đều thanh tịnh.

“Chí nguyện cả thảy đều viên mãn”: Tu hành cần phải phát nguyện, phát nguyện rồi cần phải thực hành, thực hành một cách trọn vẹn mới gọi là viên mãn. Tất cả những nguyện tôi phát ra thì tôi phải thực hành trọn vẹn. Tu mười nguyện lớn của Bồ tát Phổ Hiền thì cũng phải giống như Ngài thực hành trọn vẹn tất cả các nguyện nhiều như biển lớn.

“Gần gũi cúng dường chư Như Lai”: Tất cả chư Phật trong mười phương cũng nhiều vô lượng vô biên như biển lớn, tôi đều đi đến gần gũi cúng dường.

“Tu hành ức kiếp không mỏi mệt”: Tôi tu hành như thế trải qua vô lượng vô lượng kiếp nhiều như biển lớn mà cũng không mệt mỏi, buông lung, quyết tâm tu hành tinh tấn như thế.

 

Tất cả Như Lai trong ba đời

Những hạnh nguyện Bồ-đề tối thắng

Tôi đều cúng dường tu tập đủ

Hành hạnh Phổ Hiền ngộ Bồ Ðề.

 

Tam thế nhất thiết chư Như Lai

Tối thắng Bồ-đề chư hạnh nguyện

Ngã giai cúng dưỡng viên mãn tu

Dĩ Phổ Hiền hạnh ngộ Bồ-đề

 

“Tất cả Như Lai trong ba đời”: Tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. Những hạnh nguyện Bồ-đề tối thắng”: Luôn tu hành giác đạo và tất cả hạnh nguyện tối thắng tối diệu. “Tôi đều cúng dường tu tập đủ”: Đồng thời, tôi cũng phải thực hành hạnh cúng dường cho viên mãn giống như chư Phật không khác. “Hành hạnh Phổ Hiền ngộ Bồ-đề”: tu tập mười nguyện lớn của Bồ tát Phổ Hiền để giác ngộ đạo Bồ-đề giải thoát.

 

K2. Quy Kết Hai Thánh (gồm hai phần)

L1. Hết thảy đều giống Đức Phổ Hiền

L2. Ngang bằng với hai thánh

 

L1.  HẾT THẢY ĐỀU GIỐNG ĐỨC PHỔ HIỀN

Trưởng tử của tất cả Như Lai

Hiệu Ngài gọi là Phổ Hiền Tôn

Tôi nay hồi hướng các căn lành

Nguyện chư hạnh trí như Ngài vậy.

 

Nhất thiết Như Lai hữu trường tử

Bỉ danh hiệu viết Phổ Hiền tôn

Ngã kim hồi hưởng chư thiện căn

Nguyện chư trí hạnh tất đồng bỉ

 

“Trưởng tử của tất cả Như Lai”: Tất cả chư Phật đều có một người con lớn, người con lớn ấy là ai? “Hiệu Ngài gọi là Phổ Hiền Tôn”: tên của vị ấy gọi là Bồ-tát Phổ Hiền. “Tôi nay hồi hướng các căn lành”: Nay tôi đem hết thảy căn lành tu hành có được hồi hướng về mười đại nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền.  “Nguyện chư hạnh trí như Ngài vậy”: nguyện trí tuệ và hạnh nguyện tu tập của tôi được giống như Bồ-tát Phổ Hiền.

 

Nguyện thân, khẩu, ý hằng thanh tịnh

Công hạnh, cõi nước cùng sạch trong

Trí huệ như thế gọi Phổ Hiền

Nguyện tôi cũng đồng như Ngài vậy.

 

Nguyện thân khẩu ý hằng thanh tịnh

Chư hạnh sát độ diệc phúc nhiên

Như thị trí tuệ hiệu Phổ Hiền

Nguyện ngã dữ bỉ giai đồng đẳng

 

“Nguyện thân, khẩu, ý hằng thanh tịnh”: tôi phát nguyện phải làm cho ba nghiệp thân, miệng, ý thường thanh tịnh. Thân không tạo các nghiệp ác sát sinh, trộm cắp, dâm dục; miệng không tạo ác nghiệp nói lời thêu dệt, nói dối, nói lời ác, nói lời đâm thọc; ý không tạo nghiệp ác tham, sân, si. “Công hạnh, cõi nước cùng sạch trong”: Nguyện những hạnh nguyện tu hành của tôi và hết thảy quốc độ đều được thanh tịnh. “Trí huệ như thế gọi Phổ Hiền”: Tôi phát nguyện học theo Bồ-tát Phổ Hiền, tu mười hạnh nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền, thành tựu trí tuệ lớn và diệu dụng thần thông bất khả tư nghì giống như Bồ-tát Phổ Hiền. Nguyện tôi cũng đồng như Ngài vậy: tôi mong muốn tất cả những gì tôi có được đều giống như Bồ-tát Phổ Hiền.

 

L2. NGANG BẰNG VỚI HAI THÁNH

 

Vì khắp thanh tịnh hạnh Phổ Hiền

Văn Thù Sư Lợi các nguyện lớn

Trọn sự nghiệp kia không thừa sót

Tận kiếp vị lai hằng không mỏi.

 

Ngã vị biến tịnh Phổ Hiền hạnh

Văn Thù Sư Lợi chư đại nguyện

Mãn bỉ sự nghiệp tận vô dư

Vị lai tế kiếp hằng vô quyện

 

“Vì khắp thanh tịnh hạnh Phổ Hiền”: Tôi vì hạnh nguyện muốn thanh tịnh, viên mãn cùng khắp nên tu hạnh Phổ Hiền. “Văn Thù Sư Lợi các nguyện lớn”: Không chỉ thanh tịnh hết thảy hạnh nguyện Phổ Hiền mà còn muốn viên mãn hết thảy đại nguyện của Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi. Văn-thù-sư-lợi nghĩa là Diệu Đức, còn gọi là Diệu Cát Tường. “Trọn sự nghiệp kia không thừa sót”: Tôi phải tu hành viên mãn hạnh nguyện, thành tựu sự nghiệp công đức giống như Bồ-tát Phổ Hiền và Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi đã tu, tôi phải giống như các Ngài. “Tận kiếp vị lai hằng không mỏi”: Tôi tu hành như thế mãi đến vô tận kiếp vị lai cũng  không mỏi mệt, giải đãi.

 

Tôi tu vô lượng các công hạnh

Công đức đạt được cũng không lường

An trụ trong vô lượng công hạnh

Liễu đạt tất cả sức thần thông.

 

Ngã sở tu hành vô hữu lượng

Hoạch đắc vô lượng chư công đức

An trụ vô lượng chư hạnh trung

Liễu đạt nhất thiết thần thông lực

 

“Tôi tu vô lượng các công hạnh”: Những công hạnh tôi tu tập vô lượng vô biên. “Công đức đạt được cũng không lường”: Cho nên công đức đạt được cũng vô lượng vô biên. “An trụ trong vô lượng công hạnh”: Tôi an trú không thoái thất trong vô lượng công hạnh và thường xuyên tu tập chúng.“Liễu đạt tất cả sức thần thông”: Thông đạt tường tận tất cả các năng lực thần thông.

 

Sức trí mạnh mẽ của Văn Thù

Tuệ hạnh Phổ Hiền cũng dường ấy

Tôi nay hồi hướng các căn lành

Thường theo các Ngài chuyên tu học.

 

Văn Thù Sư Lợi dũng mãnh trí

Phổ Hiền tuệ hạnh diệc phúc nhiên

Ngã kim hồi hướng chư thiện căn

Tùy bỉ nhất thiết thường tu học

 

“Sức trí mạnh mẽ của Văn Thù”: Trí tuệ của Bồ-tát Văn-thù Sư lợi rất lớn, tư cách thành thục nhất trong các vị Bồ-tát. Trong quá khứ Ngài từng làm thầy của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đời này đức Thích-ca thành Phật, Ngài lại đến giúp đức Phật Thích-ca Mâu-ni hoằng dương Phật pháp, do đó nên biết trí tuệ của Bồ tát rất dũng mãnh; trí tuệ dũng mãnh chính là trí tuệ lớn. Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi trụ ở Ngũ Đài sơn, Trung Hoa. Ngũ Đài sơn có năm đài, đài trung, đài đông, đài tây, đài nam, đài bắc, vì thế gọi là Ngũ Đài. Nơi đây rất lạnh, ngay cả mùa hạ trên núi cũng có tuyết. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã kiến lập một đạo tràng ở núi Ngũ Đài này.

Tuệ hạnh Phổ Hiền cũng dường ấy”: Trí tuệ và công hạnh của Bồ-tát Phổ Hiền cũng vô cùng dũng mãnh. “Tôi nay hồi hướng các căn lành”: căn lành có được do tu tập mười hạnh nguyện lớn, tôi đều hồi hướng. Hồi hướng làm gì? “Thường theo các Ngài chuyên tu học”: Hồi hướng để mong được luôn theo Bồ-tát Văn thù-sư-lợi và Bồ-tát Phổ Hiền tu tập hết thảy Phật pháp.

 

H3. TỔNG KẾT HỒI HƯỚNG

 

Chư Phật ba đời đều khen ngợi

Các đại nguyện tối thắng như thế

Tôi nay hồi hướng các căn lành

Nguyện được thắng hạnh của Phổ Hiền.

 

Tam thế chư Phật sở xưng tán

Như thị tối thắng chư đại nguyện

Ngã kim hồi hướng chư thiện căn

Vị đắc Phổ Hiền thù thắng hạnh

 

“Chư Phật ba đời luôn khen ngợi”: chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai đều xưng tán Bồ-tát Phổ Hiền và Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. “Những đại nguyện tối thắng như thế”: Mười đại nguyện thù thắng nhất đã nói ở trước. “Tôi nay hồi hướng các căn lành”: Hết thảy căn lành có được, con nay đều xin hồi hướng. “Nguyện được thắng hạnh của Phổ Hiền”: Chính là để thành tựu hạnh môn thù thắng mười đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền.

 

G2. NGUYỆN SINH TỊNH ĐỘ

 

Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung

Trừ hết tất cả các chướng ngại

Tận mặt thấy Phật A Di Ðà

Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc.

 

Nguyện ngã lâm dục mệnh chung thời

Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại

Diện kiến bỉ Phật A Di Đà

Tức đắc vãng sinh An Lạc sát

 

“Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung”: Nguyện sau này khi tôi sắp mạng chung, “Trừ hết tất cả các chướng ngại”: Trừ sạch tất cả báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng. Không có báo chướng thì không thọ quả khổ, không có nghiệp chướng thì không thọ nghiệp báo đời sau, không có phiền não chướng thì thì sẽ đoạn trừ hết vô minh. “Tận mặt thấy Phật A Di Ðà”: Tự mình đi đến diện kiến đức Phật A-di-đà ở cõi Tây phương cực lạc. A-di-đà Phật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vô Lượng Thọ, còn gọi là Vô Lượng Quang. Vì thọ mạng của Ngài vô lượng nên gọi là Vô Lượng Thọ; hào quang của Ngài cũng vô lượng nên gọi là Vô Lượng Quang. Ngài là giáo chủ cõi Cực Lạc ở phương Tây lại có duyên với chúng sinh ở cõi Ta bà và tất cả chúng sinh ở các nước trong mười phương nơi thế giới này, thế giới khác, cõi nước này, cõi nước khác và vô lượng cõi nước của chư Phật. Do lúc ở nhân địa tu hành Ngài đã phát nguyện rằng:

Lúc tôi thành Phật, quốc độ của tôi sẽ là cõi Cực Lạc. Sự an vui ở trong thế giới của tôi không có bất kỳ thế giới nào ở trong mười phương có thể sánh bằng. Tất cả chúng sinh khắp mười phương đều ưa thích sinh về cõi nước này, chỉ cần trì danh hiệu của tôi, tôi sẽ tiếp dẫn họ thành Phật. Nếu như họ không thành Phật thì tôi nguyện không thành Chính Giác.

Phật A-di-đà đã phát bốn mươi tám nguyện để độ chúng sinh. Nếu chúng sinh trong mười phương xưng niệm danh hiệu “Nam-mô A-di-đà Phật” thì đều được sinh về thế giới Cực Lạc. Nguyện sau cùng trong mười nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền cũng là hồi hướng về thế giới Cực Lạc, phát nguyện sinh về thế giới Cực Lạc. Trong Mật Tông, Phật A-di-đà thuộc Liên hoa bộ ở phương Tây, Đông phương thế giới là A-súc bệ Phật, A-súc-bệ Phật là Kim cang bộ. Kim cang bộ chuyên tu Kim cang bất động pháp, pháp Kim cang chủ yếu là pháp hàng phục và pháp câu triệu. Vì sao quý vị có thể triệu được con quỷ kia về? Bởi vì có lực sĩ kim cương ở nơi ấy, giống như cảnh sát phát lệnh triệu tập, không đi cũng không được, đó gọi là pháp câu triệu. Kim cương lực sĩ hiện ra tướng mạo kim cương, yêu ma quỷ quái đều khiếp sợ, đó gọi là pháp hàng phục.

Pháp tu của Phật A-di-đà là nhiếp thọ pháp. Nhiếp thọ chính là dùng sức mạnh từ bi để tiếp dẫn chúng sinh đến được chỗ của Ngài. Hàng phục nghĩa là sau khi quý vị được hàng phục thì sau này quý vị không được làm việc phi pháp, không thể không giữ quy củ, nhưng quý vị muốn đến nơi nào đều có thể đi được. Pháp nhiếp thọ của Phật A-di-đà là Ngài phát nguyện tiếp dẫn quý vị đến nước của Ngài, cùng Ngài tu hành. Vì thế A-di-đà Phật và A-súc-bệ Phật một vị dùng từ bi để giáo hóa chúng sinh, một vị dùng oai đức để giáo hóa chúng sinh; một bên là nhiếp thọ, một bên là chiết phục. Hai vị Phật ấy đều ở tại Ta bà giáo hóa chúng sinh và chúng sinh đều rất có duyên với hai Ngài.

“Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc”: quý vị thường xưng niệm “Nam-mô A-di-đà Phật” thì nguyện lực của Phật A Di Đà sẽ tiếp dẫn quý vị đến cõi Cực Lạc và ngay tức khắc quý vị được vãng sinh về cõi nước an lạc.

 

Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi

Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này

Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu

Lợi lạc khắp cả cõi chúng sanh.

 

Ngã ký vãng sinh bỉ quốc dĩ

Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện

Nhất thiết viên mãn tận vô dư

Lợi lạc nhất thiết chúng sinh giới

 

“Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi”: Người tu mười nguyện lớn Phổ Hiền này nói: Tôi đã vãng sinh trong nước Cực Lạc kia rồi, thì “Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này”: ngay lập tức thành tựu mười nguyện lớn mà tôi đã tu hành. “Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu”: Những nguyện mà tôi phát, những hạnh mà tôi tu, tất cả đều viên mãn, không có một chút thiếu sót. Lợi lạc khắp cả cõi chúng sanh”: Công phu tu hành của tôi viên mãn, tất cả diệu dụng thần thông đều được đầy đủ, tôi cũng đến mười phương thế giới để làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh, tôi luôn muốn độ tất cả chúng sanh đều thành Phật. Bởi tôi được an lạc cho nên tôi cũng muốn làm cho tất cả chúng sinh đều được an lạc.

 

Hội chúng Di Ðà đều thanh tịnh

Tôi từ hoa sen nở sinh ra

Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang

Thọ ký cho tôi đạo Bồ Ðề.

 

Bỉ Phật chúng hội hàm thanh tịnh

Ngã thời ư thắng liên hoa sanh

Thân đổ Như Lai vô lượng quang

Hiện tiền thụ ngã Bồ-đề ký

 

“Chúng hội Di Ðà đều thanh tịnh”: Các chúng Bồ-tát trong Liên trì hải hội ở thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà đều thanh tịnh. “Tôi từ hoa sen nở sinh ra”: Lúc ấy, tôi cũng ở trong hoa sen thù thắng vi diệu mà sinh ra, hoa nở liền thấy Phật. “Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang”: Tôi được diện kiến đức Phật Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ của thế giới cực lạc. “Thọ ký cho tôi đạo Bồ Ðề”: Đức Phật A-di-đà liền thụ ký cho tôi đạo quả Bồ-đề với một danh hiệu riêng, và nói đến thời gian nào đó tôi sẽ thành Phật.

 

Được Phật Di Đà thọ ký rồi

Tôi hóa vô số vạn ức thân

Trí lực rộng lớn khắp mười phương

Lợi lạc khắp cùng chúng sanh giới.

 

Mông bỉ Như Lai thụ ký dĩ

Hóa thân vô số bách câu chi

Trí lực quảng đại biến thập phương

Phổ lợi nhất thiết chúng sinh giới

 

“Được Phật Di Đà thọ ký rồi”: Sau khi được đức Di-đà Như Lai thụ ký rồi, “Tôi hóa vô số vạn ức thân”: Tôi lại biến ra trăm nghìn muôn ức hóa thân.“Trí lực rộng lớn khắp mười phương”: Trí tuệ của tôi lúc này cũng giống như Phật, khắp đầy mọi nơi trong mười phương, “Lợi lạc khắp cùng chúng sanh giới”: Trí tuệ rộng lớn của tôi dùng để làm gì? Chính là để độ khắp tất cả chúng sinh, khiến  cho tất cả chúng sinh đều thành Phật đạo.

 

E2.TỔNG KẾT BẰNG BÀI TỤNG VỀ SỰ VÔ TẬN

 

Nhẫn đến hư không thế giới tận

Chúng sanh tập nghiệp, phiền não tận

Như thế tất cả không cùng tận

Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận

 

Nãi chí hư không thế giới tận 

Chúng sinh cập nghiệp phiền não tận

Như thị nhất thiết vô tận thời 

Ngã nguyện cứu cánh hằng vô tận

 

“Nhẫn đến hư không thế giới tận”: Xưa nay, thế giới hư không chẳng bao giờ diệt mất, thế giới, nghiệp và phiền não của chúng sinh cũng không bao giờ hết. Nhưng giả như những cái ấy có ngày cùng tận thì nguyện lực của tôi cũng không cùng tận.

Tuy thế giới này của chúng ta có thành, trụ, hoại, không, nhưng “không” cũng không có cùng tận, “hoại” cũng không có cùng tận. Sanh, trụ, dị, diệt chỉ là những pháp hoán đổi cho nhau mà thôi. Con người chúng ta sau khi sanh ra hai mươi năm gọi là sinh, hai mươi năm nữa gọi là  trụ, nghĩa là dừng lại ở chỗ này. Hai mươi năm tiếp theo là dị, dị chính là biến đổi, một sự biến đổi lớn trong từng giây, từng phút. Sau hai mươi năm biến đổi là diệt, diệt không phải chỉ trong một ngày mà cũng trải qua hai mươi năm. Cho nên sinh, trụ, di, diệt cũng chính là thành, trụ, hoại, không, tổng cộng lại là tám mươi năm. Thế giới một lần tăng, một lần giảm gọi là một kiếp. Giảm là tuổi thọ của con người từ tám vạn bốn nghìn tuổi giảm dần xuống, cứ một trăm năm giảm mất một tuổi, thân cao giảm đi một tấc, giảm đến lúc đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời, lúc ấy tuổi thọ con người bình quân là một trăm tuổi. Hiện tại tuổi thọ con người bình quân còn khoảng bảy mươi tuổi. Sở dĩ nói bình quân bảy mươi tuổi là vì có người sống thọ hơn một chút, nhưng cũng có người ít hơn một chút. Lại tiếp tục giảm, giảm đến khi tuổi thọ con người còn ba mươi tuổi. Lúc ấy, bệnh ôn dịch bắt đầu lưu hành, bệnh ôn dịch này không có thuốc để trị, người nếu mắc phải bệnh thì chỉ có chết. Số người chết lên đến tám mươi phần trăm, chỉ còn sót lại một số người sống trên núi hay ở thôn làng. Những người này sống ở nơi cách xa mọi người nên bệnh truyền nhiễm không truyền đến được nên họ vẫn còn sống. Đến khi tuổi thọ con người giảm còn hai mươi lăm hoặc hai mươi sáu tuổi lại có hỏa tai hoành hành. Lúc ấy, trên không trung lại xuất hiện một lượt bảy mặt trời, đó đều do nghiệp lực của chúng sinh chiêu cảm. Hiện giờ chẳng phải người ta nói muốn chinh phục vũ trụ đó sao? Chinh phục vũ trụ cũng chính là xâm lược, mình chẳng chịu ở yên nơi thế giới của mình, vô duyên vô cớ muốn đến xâm chiếm thế giới của người khác, đó là một dạng xâm lược. Chiếm qua chiếm lại, tương lai mặt trăng sẽ ít đi, mặt trời sẽ nhiều lên, không trung sẽ xuất hiện bảy mặt trời. Lúc ấy cả thế giới đều biến thành núi lửa, biển, sông, ao hồ đều bị sức nóng làm cho khô cạn, thế giới này đều bị thiêu hoại, sức lửa thiêu đốt lên đến cõi trời Sơ thiền.

Những thứ trên thế gian bị thiêu hủy không còn nữa, giờ có trở lại. Hỏa tai đã thiêu cạn hết nước, chẳng phải là không còn nước sao? Ở hư không xuất hiện một dạng khí mang hơi nước, luồng khí nước ấy rất lớn, sau này nó sẽ chuyển thành nước ở thế giới. Đợi đến lúc tuổi thọ con người chỉ còn hơn hai mươi tuổi, lại có một trận thủy tai, nước dâng cao đến cõi trời nhị thiền, dìm chết cả chư thiên ở cõi này. Lúc ấy, con người ở nhân gian còn lại rất ít. Sau trận thủy tai ấy, đợi đến lúc tuổi thọ con người còn mười lăm tuổi, lại có một trận tai họa khác ập đến. Đó là tai gì? Chính là phong tai. Phong tai này rất ác liệt, sức gió ảnh hưởng đến cõi trời Tam thiền. Vì thế nên nói:

 

Lục dục thiên đủ năm tướng suy

Tam thiền thiên còn chịu phong tai

Dù người tu đến Phi phi tưởng

Không bằng vãng sinh cảnh Tây phương

Lục dục chư thiên cụ ngũ suy,

Tam thiên thiên thượng hữu phong tai;

Nhậm quân tu đáo Phi phi tưởng,

Bất như tây phương quy khứ lai.

 

Sáu tầng trời cõi dục chính là Tứ vương thiên, Đao-lợi thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa Lạc thiên và Tha Hóa Tự Tại thiên. Chư thiên ở sáu tầng trời cõi dục khi sắp mạng chung có năm tướng suy hiện ra. Khi năm tướng suy ấy vừa hiện thì vị trời ấy sẽ chết. Năm tướng suy ấy là gì?

  1. Hoa quan ủy tạ: Mũ mà chư thiên đội trên đầu gọi là hoa quan, do một loài hoa trong thiên nhiên sinh ra. Đến lúc năm tướng suy của vị ấy hiện ra thì hoa trên mũ của vị ấy đều bị khô héo.
  2. Y trước trần ai: y phục của chư thiên vô cùng nhẹ, không có bụi bặm. Khi vị ấy có năm tướng suy hiện ra thì y phục liền sinh dơ bẩn.
  3. Lưỡng dịch hãn xuất: Chư thiên không bao giờ đổ mồ hôi, dù cho trời có nóng thế nào cũng vậy, nhưng khi năm tướng suy hiện ra thì hai nách vị ấy liền xuất mồ hôi.
  4. Thể phóng xú vị: Trên thân chư thiên luôn có mùi hương, trong Phật giáo, người có tu hành trên thân cũng có mùi hương, nhưng cư sĩ Duy-ma-cật thường chê những người tu hành mà trên thân tỏa ra mùi hương, nói: “Ông không nên để mùi hương trên thân phát ra như thế, ông tỏa mùi hương, chúng sinh ngửi thấy sẽ sinh tâm đắm trước, tham chấp vào mùi hương của ông, vì thế không nên tỏa ra mùi hương”. Thân của các vị chư thiên đều có mùi hương, đến khi năm tướng suy hiện, mùi hương liền mất đi và thay vào đó là bốc ra mùi hôi.
  5. Bất lạc bản tòa: chư thiên đều có tướng thiền định, không như chúng ta tâm ý nhảy nhót giống vượn, trọn ngày không chạy chỗ này thì chạy chỗ kia, không làm chút này cũng làm chút khác. Chư thiên thường ngồi thiền, rất ít nói,  không giống như chúng ta, nói suốt ngày cũng không hết. Nhưng đến khi năm tướng suy hiện thì họ không thể ngồi yên, tòa ngồi của họ nếu không lung lay như thế này thì cũng rung động như thế kia nên không bao giờ ngồi yên. Ngồi không yên chính là mê, vừa mê thì liền đọa lạc, nghĩa là chết.

Cõi trời đều có năm tướng suy hiện, nếu quý vị có sinh lên cõi trời Tam thiền thì khi phong tai đến cũng sẽ bị thổi bay và dù cho quý vị tu được sinh lên cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ thì cũng không bằng sinh về cõi Cực Lạc, sau đó trở lại thế giới này để giáo hóa chúng sinh, như vậy sẽ bảo đảm hơn.

Trận phong tai ấy qua đi, số người còn sống sót trên thế gian rất ít, nhưng vào lúc ấy dân số con người phát triển rất nhanh. Đến lúc thọ mạng con người còn mười tuổi, lại có một trận ôn dịch, loại ôn dịch này cũng rất ác liệt, số người còn sống sót lại không được bao nhiêu. Sau đó tuổi thọ con người lại tăng lên, cũng là một trăm năm, thân cao tăng một tấc, thọ mạng tăng thêm một tuổi, tăng đến tám vạn bốn nghìn tuổi. Một lần tăng một lần giảm như thế gọi là một tiểu kiếp.

Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp, bốn trung kiếp là một đại kiếp. Sau khi thế giới hoại diệt thì sẽ hình thành trở lại. Thời gian hình thành phải mất bao lâu? Thời gian hình thành là hai mươi tiểu kiếp, cũng chính là một trung kiếp. Thời gian hình thành hai mươi tiểu kiếp, trụ hai mươi tiểu kiếp, hoại hai mươi tiểu kiếp và không cũng hai mươi tiểu kiếp. Sau gian đoạn “không” lại hình thành, thành rồi trụ, trụ rồi hoại, hoại rồi lại không. Thế giới cứ như thế tiếp diễn, không có lúc cùng tận, cũng giống như con người sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh.

“Chúng sanh tập nghiệp, phiền não tận”: chúng sinh không có cùng tận, nghiệp lực, phiền não của chúng sinh cũng không cùng tận, nhưng giả như tất cả có cùng tận, song nguyện lực của tôi sẽ không cùng tận.

“Như thế tất cả không cùng tận”: Nhưng tất cả đều không có lúc cùng tận “Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận”: Cho nên nguyện lực của tôi cũng không cùng tận.

 

D2. Bài Tụng Hiển Bày Đức Thù Thắng Của Kinh

gồm hai phần:

E1. Bài tụng so sánh sự lợi ích khi nghe kinh

E2. Bài tụng nêu chung sự lợi ích của các hạnh

 

E1. BÀI TỤNG SO SÁNH LỢI ÍCH KHI NGHE KINH

 

Cõi nước vô biên khắp mười phương

Trang nghiêm các báu cúng dường Phật

An lạc tối thắng thí trời người

Trải kiếp vi trần luôn cúng thí.

 

Thập phương sở hữu vô biên sát

Trang nghiêm chúng bảo cúng Như Lai

Tối thắng an lạc thí thiên nhân

Kinh nhất thiết sát vi trần kiếp

 

“Cõi nước vô biên khắp mười phương”: Giả sử có một người ở nơi vô biên các cõi nước chư Phật trong mười phương thế giới. “Trang nghiêm các báu cúng dường Phật”: Dùng tất cả các báu trong mười phương thế giới để trang nghiêm cúng dường hết thảy Như Lai. “An lạc tối thắng thí trời người”: Dùng diệu lạc thù thắng bậc nhất để bố thí cho chư thiên ở trên trời và loài người ở thế gian. “Trải kiếp vi trần luôn cúng thí”: Trải qua số kiếp nhiều như số vi trần cõi nước trong mười phương tôi đều thực hành cúng dường như thế.

 

Nếu có người nơi nguyện vương này

Một phen nghe rồi sanh tín kính

Mong cầu khát ngưỡng quả Bồ Ðề

Công đức đạt được nhiều hơn thế

 

Nhược nhân ư thử thắng nguyện vương

Nhất kinh ư nhĩ năng sanh tín

Cầu thắng Bồ-đề tâm khát ngưỡng

Hoạch thắng công đức quá vu bỉ

 

“Nếu có người nơi nguyện vương này”: Giả sử lại có người nghe được diệu hạnh thù thắng của mười nguyện lớn Bồ-tát Phổ Hiền. “Một phen nghe rồi sanh tín kính”: Khi mười đại nguyện vương này vừa thoáng qua lỗ tai, người ấy có thể sinh tín tâm. “Mong cầu khát ngưỡng quả Bồ Ðề”: Thành tâm cầu được quả Bồ-đề thù thắng vi diệu giống như khát muốn lập tức được uống nước ngay. “công đức đạt được nhiều hơn thế”: Công đức nhất tâm cầu Bồ-đề của người này lớn hơn công đức của người dùng hằng hà sa số châu báu trang nghiêm cùng sự an lạc thù thắng cúng dường hết thảy Như Lai.

 

E2. Kệ Tụng Nêu Chung Lợi Ích Của Các Hạnh (gồm hai phần)

F1. Kệ tụng nêu năm quả (gồm 5 phần)

                G1. Kệ tụng về tăng thượng quả

G2. Kệ tụng về đẳng lưu quả

G3. Kệ tụng về ly hệ quả

G4. Kệ tụng về dị thục quả

G5. Kệ tụng về sĩ dụng quả

F2. Kệ Tụng Nói Về Quả Cứu Cánh

 

G1. KỆ TỤNG VỀ TĂNG THƯỢNG QUẢ

Thường luôn xa rời ác tri thức

Hằng lìa tất cả các đường dữ

Chóng gặp đức Phật Vô Lượng Quang

Ðầy đủ nguyện Phổ Hiền tối thắng.

 

Tức thường viễn ly ác tri thức

Vĩnh ly nhất thiết chư ác đạo

Tốc kiến Như Lai vô lượng quang

Cụ thử Phổ Hiền tối thắng nguyện

 

“Thường luôn xa rời ác tri thức”: Con người chúng ta là hạng “gần son thì đỏ, gần mực thì đen, nhuộm xanh thì ra xanh, nhuộm vàng thì ra vàng.” Quý vị theo ai thì sẽ bắt chước người ấy, vì thế mẹ của Mạnh Tử phải ba lần dời nhà cũng chính là ý này.

Thuở nhỏ, nhà Mạnh Tử ở gần nghĩa địa, Mạnh Tử thường thấy mọi người chôn quan tài xuống đất, sau đó dùng heo, dê để cúng tế người chết. Thế là hằng ngày Mạnh Tử cũng bắt chước chơi trò chơi như thế, dùng đất bùn nặn thành người giả, đặt người giả trong quan tài bằng đất rồi đem chôn, lại nặn bùn thành hình dáng con heo, con dê đặt lên trên mộ cúng tế, lễ lạy. Mẹ của Mạnh Tử thấy thế, liền nghĩ: “Con mình học những việc này thì có gì hay?” Thế rồi bà quyết định dời nhà. Nhà mới dời đến gần một lò mổ, Mạnh Tử lại học những người đồ tể chơi trò giết heo, giết dê. Mẹ Mạnh Tử lại nhìn thấy và cho rằng ở đây cũng không được, thế rồi bà lại dời nhà. Lần này dời đến ở bên cạnh một ngôi trường, bấy giờ Tử Tư đang dạy ở đây, dạy học sinh học. Học sinh mỗi khi vào lớp, trước tiên phải hướng về thánh vị của Khổng Tử hành lễ, lúc ra về cũng hành lễ như thế, đi về đều rất lễ phép. Mạnh Tử cũng bắt chước những học sinh ấy đọc sách, hành lễ. Mẹ Mạnh Tử nhìn thấy, nói: “Ồ, lần này có thể ở lại tại đây rồi”. Sau đó bà đã cho Mạnh Tử vào trường để học.

Một hôm, Mạnh Tử về thưa với mẹ là ông không muốn học. Lúc ấy mẹ của Mạnh Tử đang quay khung cửi dệt vải, nghe thế bà cũng chẳng nói năng gì, lặng lẽ cầm kéo cắt đứt hết những sợi vải trên khung cửi. Mạnh Tử thấy thế vội quỳ xuống trước mặt mẹ hỏi: “Mẹ sao lại giận dữ như thế? Phải chẳng con đã làm sai điều gì?”. Mẹ Mạnh Tử bảo: “Nay con không chịu học hành thì chẳng khác gì những sợi vải bị cắt đứt. Con biết vì sao không? Con không học hành thì sau này sẽ không thành tựu”. Mạnh Tử chợt hiểu, bèn thưa: “Thế thì con lại tiếp tục học tập”. Về sau, Mạnh Tử đã trở thành một bậc Thánh lớn của Nho gia, xưng là á thánh, chỉ đứng sau đức Khổng Tử.

Vì sao Mạnh Tử có thể thành một bậc thánh? Bởi mẹ của Mạnh Tử khéo dạy con, vì dạy con, bà đã ba lần dời nhà, lần sau cùng dời đến bên cạnh trường học, tạo cho Mạnh Tử có cơ hội học tập, như thế Mạnh Tử mới có thể thành tựu được học nghiệp. Nếu ban đầu mẹ của Mạnh Tử không dời nhà mà ở gần nghĩa địa thì Mạnh Tử bất quá cũng chỉ là một người thạo việc chôn cất mà thôi. Nếu như ở gần lò sát sinh thì Mạnh Tử chẳng qua cũng chỉ là một người chuyên giết heo, giết dê. Cuối cùng bà đã dời nhà đến cạnh trường học mới khiến cho Mạnh Tử trở thành một học giả rất nổi tiếng. Đó cũng gọi là xa lìa ác tri thức, gần gũi thiện tri thức vậy.

Vì thế, quý vị ở gần màu hồng thì sẽ biến thành sắc hồng, nếu gần màu đen thì sẽ biến thành sắc đen. Nếu quý vị nhuộm màu cà phê thì sẽ có màu cà phê, quý vị nhuộm màu vàng thì thành màu vàng. Cho nên con người chúng ta cần phải gần gũi những bậc thiện tri thức cũng chính là đạo lý ấy. Nếu quý vị gặp “ác tri thức” thì họ toàn dạy quý vị những việc ác, đến đâu cũng phá hoại người, đố kỵ người, làm chướng ngại cho người. Đó chính là ác tri thức. Ác tri thức dạy những pháp ác cho quý vị như thế, quý vị không nên gần gũi mà phải tránh xa họ một chút. Nếu quý vị không xa lìa ác tri thức thì sẽ bị đọa vào ba đường ác.

“Chóng gặp đức Phật Vô Lượng Quang”: Quý vị xa rời các đường ác thì sẽ bước lên đường lành, con người ở trong thế gian nếu không ác thì là thiện, nếu quý vị không làm việc ác thì là việc thiện. Quý vị làm việc thiện sẽ tạo thành nghiệp lành, gieo nghiệp thiện thì sẽ gặt được quả báo tốt. Quả báo tốt đó là gì? Đó là quý vị có thể tự mình nhanh chóng qua thế giới Cực Lạc diện kiến A-di-đà Như Lai, vị Phật Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ.

Đầy đủ nguyện Phổ Hiền tối thắng”: Đã đến được thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà thì quý vị đều có thể viên mãn mười đại nguyện thù thắng của Bồ-tát Phổ Hiền.

 

G2. KỆ TỤNG VỀ QUẢ ĐẲNG LƯU

 

Người này khéo được mạng thù thắng

Người này khéo sanh vào cõi người

Người này không lâu sẽ thành tựu

Công hạnh như Bồ-tát Phổ Hiền.

 

Thử nhân thiện đắc thắng thọ mệnh

Thử nhân thiện lai nhân trung sanh

Thử nhân bất cửu đương thành tựu

Như bỉ Phổ Hiền Bồ-tát hạnh

 

“Người này khéo được mạng thù thắng”: Hạng người như thế nhanh chóng đạt được thọ mạng thù thắng dài lâu. Trong Phật giáo nói “vô thọ giả tướng” nay vì sao lại nói thọ mạng thù thắng, như thế chẳng phải là đã có tướng thọ giả rồi sao? Thọ mạng thù thắng ở đây hoàn toàn chẳng phải do người ấy mong đạt được tướng thọ giả ấy, mà do người ấy xa rời ác tri thức, xa rời các áo đạo, được diện kiến Phật A-di-đà, cho nên dù người ấy không muốn trường thọ cũng được trường thọ. Thế giới Cực Lạc không giống như thế giới của chúng ta, muốn sống lâu cũng không được sống lâu, muốn  an vui cũng không được an vui chân thật. Quý vị có thể sinh về thế giới Cực Lạc, đức Phật A-di-đà thọ mạng vô lượng thì quý vị cũng thọ mạng vô lượng. Đức Phật A-di-đà có ánh sáng vô lượng thì quý vị cũng có ánh sáng vô lượng. Vì thế, thọ mạng thù thắng này là do thiện nghiệp chiêu cảm chứ hoàn toàn chẳng phải do chấp trước mà có.

“Người này khéo sanh vào cõi người”: Người ấy nếu còn muốn trở lại giáo hóa chúng sinh thì họ sẽ tái sinh ở nhân gian. Tuy sinh vào nhân gian nhưng nhất nhất luôn được viên mãn, đây gọi là “thừa nguyện tái lai”. Nếu họ không muốn đến thì không cần đến, nếu muốn đến thì tự nhiên đến. Đây là một dạng tự do chân thật, tùy thuộc vào ý muốn của chính bản thân quý vị. “Người này không lâu sẽ thành tựu”: Người này không lâu sẽ thành tựu công đức của mười đại nguyện Phổ Hiền. “Công hạnh như Bồ-tát Phổ Hiền”: Sự thành tựu của người ấy chẳng khác gì công hạnh của Bồ-tát Phổ Hiền.

 

G3. KỆ TỤNG VỀ QUẢ LY HỆ

 

Ngày trước do vì không trí huệ

Tạo ra năm nghiệp vô gián ác

Chuyên tụng Phổ Hiền nguyện vương này

Chỉ trong một niệm tội tiêu sạch.

 

Vãng tích do vô trí tuệ lực

Sở tạo cực ác ngũ vô gián

Tụng thử Phổ Hiền đại nguyện vương

Nhất niệm tốc tật giai tiêu diệt

 

“Ngày trước do vì không trí tuệ”: Nguyên nhân là do quá khứ xa xưa thiếu trí tuệ. Ở trước chẳng phải đã nói:

“Con xưa vốn tạo bao ác nghiệp,

Đều do vô thỉ tham sân si,

Từ thân, miệng, ý mà sinh ra,

Hết thảy con nay đều sám hối”.

Tất cả nghiệp ác đã tạo xưa kia đều xuất phát từ tham, sân, si. Vì sao có tham, sân, si? Vì không có trí tuệ, vì không có năng lực bát-nhã. Con người vì sao tạo ra nghiệp ác? Vì không có trí tuệ, cho nên tạo ra vô số nghiệp ác, người có trí tuệ chân chính thì sẽ không tạo nghiệp ác.

“Tạo ra năm nghiệp vô gián ác”: Chúng ta là năng tạo, nghiệp là sở tạo. Ai là năng tạo? Người nào không tu thiện pháp lại hành ác pháp, người đó chính là người năng tạo. Đã có người năng tạo thì sẽ có nghiệp sở tạo, cho nên mới có năng và sở. Nghiệp đã hình thành rồi thì người năng tạo ấy phải chịu quả báo. Cực ác chính là nghiệp ác tột cùng, người thế gian xưa nay không thể giết cha, nhưng có một hạng người làm được việc này, hạng người đó chính là hạng phạm thập ác ngũ nghịch. Ngũ nghịch chính là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Trên thế giới người giết cha, người giết mẹ thì ít hơn, tuy là ít nhưng thỉnh thoảng cũng có. Giết A-la-hán tức là giết người đã chứng quả A-la-hán, tội này cũng nằm trong ngũ nghịch. Phá hòa hợp Tăng, Tăng nghĩa là chúng hòa hợp, một người không được gọi là Tăng, hai người cũng thế mà phải ba người trở lên mới được tính là Tăng. Chư Tăng luôn tuân giữ sáu phép hòa hợp:

  1. Thân hòa đồng trụ: thân phải hòa hợp nhau mới có thể cùng ở chung một chỗ, không được đấu tranh, ẩu đả nhau.
  2. Khẩu hòa vô tránh: chư Tăng cùng ở chung một chỗ, không được nói chuyện thị phi của người khác, cũng không được nói chuyện thi phi của mình. Lời nói phải hòa hợp, lời nói hòa hợp chính là không tranh cãi. Trong kinh Kim Cương nói: “Vô tránh tam-muội”. Người xuất gia ở cùng với nhau phải nên không tranh cãi, phải đạt cho được Vô tránh tam-muội này. Quý vị vừa khởi tranh cãi thì đã có tướng nhân ngã, có tướng nhân ngã tức có thị phi, có thị phi thì có thắng thua, có thắng thua thì có tướng chúng sinh, đã có chúng sinh tướng thì có tướng thọ giả. Quý vị có bốn tướng này thì không thể đạt được định lực chân chính, cho nên phải khẩu hòa vô tránh.
  3. Ý hòa đồng duyệt: Tâm ý cũng phải hòa hợp, được như thế mọi người mới vui vẻ, phấn khởi; không thể quý vị có ý của quý vị, tôi có ý của tôi, tôi và quý vị bất hòa, quý vị và tôi cũng chẳng hợp.
  4. Lợi hòa đồng quân: Có những lợi ích, lợi dưỡng thì mọi người đều thọ hưởng bình đẳng, quý vị được lợi dưỡng, tôi cũng được lợi dưỡng, không phải chỉ riêng một người thụ hưởng.
  5. Kiến hòa đồng giải: Ý kiến mọi người cũng nên hòa hợp, như học Phật pháp, mọi người đều có cùng sự hiểu biết, nên sẽ không dẫn đến ý kiến bất hòa.
  6. Giới hòa đồng tu: Mọi người cùng đến tu hành, cùng giữ một giới luật, có được lục hòa như thế mới gọi là “hòa hợp tăng”. Nếu quý vị ở trong chúng tăng mà đâm thọc ly gián, đặt điều thị phi khiến cho tăng chúng sinh ra bất hòa, anh không vừa ý tôi, tôi không vừa ý anh, anh có sự đố kỵ đối với tôi, tôi có sự chướng ngại đối với anh. Đó gọi là phá hòa hợp tăng.

Làm thân Phật chảy máu: Có người hiện tại chúng ta sinh ra sau Phật thì không thể nào làm thân Phật chảy máu được? Nếu quý vị làm tổn hại Phật giáo, phá hoại Tam Bảo, đó đều gọi là làm thân Phật chảy máu. Giống như tượng Phật này, quý vị đập vỡ vụn ra, tuy đây chỉ là tượng Phật nhưng hành động đó cũng giống như làm cho thân Phật chảy máu. Hay quý vị đốt tấm hình Phật đi, đó cũng gọi là làm thân Phật chảy máu.

Tất cả kinh điển đều là pháp thân tuệ mạng của Phật, kinh điển có mặt ở đâu tức có Phật ở đó, nếu quý vị đốt hoặc hủy hoại những kinh điển đó cũng gọi là làm thân Phật chảy máu. Chư tăng là người tu hành theo giáo pháp của Phật, tương lai sẽ thành Phật, nếu quý vị làm cho chư tăng chẳng hòa hợp, đó cũng gọi là làm thân Phật chảy máu. Quý vị không cung kính Tam Bảo, phá hoại Tam Bảo, đó đều gọi là làm thân Phật chảy máu. Cho nên không nhất định là lúc Phật còn tại thế mới có thể làm cho thân Phật chảy máu, mà lúc Phật nhập Niết-bàn rồi, nếu quý vị không ủng hộ Phật giáo, phá hoại Phật giáo, thậm chí phá hoại một người xuất gia nào đó đều bị gọi là làm thân Phật chảy máu, đều thuộc  năm tội ngũ nghịch, đều có thể nói là cực ác, không có việc ác nào lớn hơn. Quả báo mà người tạo tội cực ác phải lãnh chịu là địa ngục A-tỳ. A-tỳ là tiếng Phạn (Avichi), dịch là Vô Gián. Vô Gián có năm loại:

  1. Thời gian không gián đoạn: còn gọi là kiếp vô gián. Tiếng Phạn gọi là kiếp-ba (kalpa), Trung Hoa dich là thời phần, nghĩa là thời gian. Chúng sinh bị đọa vào địa ngục Vô Gián thì từ ngày bắt đầu cho đến ngày cuối cùng, không có thời khắc nào ngừng dứt sự thống khổ, thời gian thụ khổ liên tiếp không gián đoạn, cho nên gọi là thời vô gián.
  2. Hình Vô gián: Khi bị đọa vào địa ngục Vô gián, quý vị tự thấy thân mình đầy chật cả địa ngục, nếu là nhiều người thì mỗi người cũng tự thấy thân mình đầy chật cả địa ngục mà vẫn không làm chướng ngại nhau. Anh có địa ngục của anh, tôi có địa ngục của tôi, mỗi người đều tự thấy thân hình của mình đầy chật cả địa ngục. Đó gọi là hình vô gián.
  3. Khổ vô gián: Trong địa ngục ấy có vô số hình phạt: có núi đao, có chảo dầu, lại có vô lượng khí cụ hành hình như chĩa sắt, gậy sắt, rìu sắt, lưới sắc, lừa sắt, dây sắt, ngựa sắt, khiến cho tội nhân phải chịu vô vàn khổ. Những sự khổ đó nối tiếp không ngừng dứt, nên gọi là khổ vô gián.
  4. Quả báo vô gián: Không kể quý vị là người Trung Hoa, người Tây phương.., người nam hay người nữ, đã vào trong địa ngục này đều phải chịu quả báo thống khổ giống nhau. Đó gọi là quả báo vô gián.
  5. Mạng vô gián: Mạng chính là sinh mạng. Người đọa vào địa ngục này, một ngày một đêm chết đi sống lại mấy vạn lần. Ở trong địa ngục này khi thọ hình đến chỗ cùng cực thì liền chết, sau khi chết có một ngọn gió thổi đến liền sống lại, sau khi sống lại phải chịu hình phạt tiếp, và rồi lại chết, cứ thế trong một ngày một đêm có muôn lần chết, muôn lần sống, nên gọi là mệnh vô gián.

“Chuyên tụng Phổ Hiền nguyện vương này, Chỉ trong một niệm tội tiêu sạch”: Nếu quý vị có thể tụng đọc mười đại nguyện này của Bồ-tát Phổ Hiền thì ngay trong một niệm tội nghiệp ngũ vô gián nhất loạt liền tiêu sạch.

 

G4. KỆ TỤNG VỀ QUẢ DỊ THỤC

 

Chủng tộc dòng họ và dung sắc

Tướng tốt, trí huệ đều đầy đủ

 

Tộc tính chủng loại cập dung sắc

Tướng hảo trí tuệ hàm viên mãn

 

“Chủng tộc dòng họ và dung sắc”: Chủng tộc dòng họ của quý vị, hoặc bất luận quý vị là người da trắng, da vàng, da đen hay da đỏ. “Tướng tốt, trí tuệ đều đầy đủ”: tướng mạo của quý vị tròn đầy, trí tuệ của quý vị viên mãn; trí tuệ lớn, tướng mạo trang nghiêm, tất cả đều trọn vẹn.

 

G5. KỆ TỤNG VỀ QUẢ SĨ DỤNG

Các ma, ngoại đạo không phá được

Xứng nhận của Tam giới cúng dường.

 

Chư ma ngoại đạo bất năng tồi

Kham vi tam giới sở ứng cúng

 

“Các ma, ngoại đạo không phá được”: Tất cả thiên ma ngoại đạo đều không có cách nào quấy nhiễu, phá hoại quý vị được. Bởi có sức hộ trì bất khả tư nghì từ mười nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền. “Xứng nhận của Tam giới cúng dường”: Quý vị có thể thọ nhận sự cúng dường của trời người ở Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, đạt được quả vị Ứng Cúng, tức là chứng quả A-la-hán.

 

 

F2. KỆ TỤNG VỀ QUẢ CỨU CÁNH

 

Mau đến cội cây chúa Bồ Ðề

Ngồi an hàng phục các chúng ma

Thành đạo Chánh Giác chuyển pháp mầu

Khắp lợi tất cả chúng hàm linh

 

Tốc nghệ Bồ-đề đại thụ vương

Tọa dĩ giáng phục chư ma chúng

Thành Đẳng Chánh Giác chuyển pháp luân

Phổ lợi nhất thiết chư hàm thức

 

“Mau đến cội cây chúa Bồ-đề”: Quý vị có thể nhanh chóng đến ngồi nơi đại đạo tràng dưới cội cây Bồ đề. “Ngồi an hàng phục các chúng ma”: Dưới cội cây Bồ-đề hàng phục tất cả quân ma. “Thành đạo chánh giác chuyển pháp mầu”: thành tựu quả vị Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, chuyển vận bánh xe pháp lớn. “Khắp lợi tất cả chúng hàm linh”: làm lợi ích khắp tất cả chúng sinh.

 

D3. KỆ TỤNG VỀ TỔNG KẾT KHUYÊN THỤ TRÌ

 

Người nếu ở nơi nguyện Phổ Hiền

Ðọc tụng, thọ trì và diễn nói

Quả báo chỉ Phật mới biết được

Nhất định sẽ được đạo Bồ Ðề.

 

Nhược nhân ư thử Phổ Hiền nguyện

Độc tụng thụ trì cập diễn thuyết

Quả báo duy Phật năng chứng tri

Quyết định hoạch thắng Bồ-đề đạo

 

“Người nếu ở nơi nguyện Phổ Hiền”: giả như có người đối với mười đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. “Đọc tụng, thụ trì và diễn nói”: có thể đọc tụng, thụ trì, lại có thể diễn thuyết, giảng giải cho người khác nghe. “Quả báo chỉ Phật mới biết được”: quả báo mà người đó đạt được chỉ Phật mới có thể biết. “Nhất định sẽ đạt đạo Bồ-đề”: người ấy nhất định sẽ đạt được đạo lớn Bồ-đề.

 

Nếu người tụng  trì nguyện Phổ Hiền

Tôi nói chút ít phần căn lành:

Trong một niệm thảy đều viên mãn

Thành tựu chúng sanh nguyện thanh tịnh.

 

Nhược nhân tụng trì Phổ Hiền nguyện

Ngã thuyết thiểu phân chi thiện căn

Nhất niệm nhất thiết tất giai viên

Thành tựu chúng sinh thanh tịnh nguyện

 

“Nếu người tụng trì nguyện Phổ Hiền”: giả như có người có thể thể đọc tụng mười đại nguyện Phổ Hiền này. “Tôi nói chút ít phần căn lành”: thiện căn mà người ấy được, dù tôi chỉ nói có một phần nhỏ. “Trong một niệm thảy đều viên mãn”: trong một niệm tất cả những điều mong muốn đều được trọn vẹn. “Thành tựu chúng sinh nguyện thanh tịnh”: Có năng lực thành tựu tất cả những nguyện mà chúng sanh đã phát.

 

Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi

Phước lớn vô biên đều hồi hướng

Khắp nguyện chúng sanh đang chìm đắm

Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang.

 

Ngã thử Phổ Hiền thù thắng hạnh

Vô biên thắng phúc giai hồi hướng

Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sinh

Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát

 

“Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi”: Tôi tu hạnh Phổ Hiền này là một hạnh môn thù thắng vi diệu. “Phúc lớn vô biên đều hồi hướng”: tất cả những phước báo vi diệu vô lượng vô biên, tôi đều hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sinh. “Khắp nguyện chúng đang chìm đắm”: phát nguyện rộng khắp độ thoát tất cả chúng sinh đang chìm đắm trong biển khổ. “Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang”: làm cho họ mau chóng đều được sinh về cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà Vô Lượng Quang.

 

A3. QUY KẾT (gồm hai phần)

B1. Tóm Tắt  Xưng Tán

B2. Đại Chúng Thụ Trì

 

B1. TÓM TẮT XƯNG TÁN

 

Lúc ấy, đại Bồ-tát Phổ Hiền ở trước đức Như Lai nói bài kệ hạnh nguyện Phổ Hiền thanh tịnh rộng lớn rồi, Thiện Tài Đồng Tử vui mừng vô hạn, tất cả Bồ-tát thảy đều hoan hỷ. Đức Như Lai khen rằng: “Lành thay! Lành thay!”.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-tát Ma-ha-tát ư Như Lai tiền, thuyết thử Phổ Hiền quảng đại nguyện vương thanh tịnh kệ dĩ, Thiện Tài Đồng Tử dũng dược vô lượng, nhất thiết Bồ-tát, giai đại hoan hỷ. Như Lai tán ngôn: “Thiện tai! Thiện tai!”

 

Lúc ấy, đại Bồ tát Phổ Hiền ở trước đức Như Lai nói bài kệ hạnh nguyện Phổ Hiền thanh tịnh rộng lớn rồi: “Nhĩ thời” chính là ngay đương lúc ấy. Vị Đại Bồ-tát Phổ Hiền này ở trước đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói xong mười hạnh rộng lớn của mình đã phát. Đó là: Một là lễ kính chư Phật; hai là ca ngợi Như Lai; ba là rộng tu cúng dường; bốn là sám hối nghiệp chướng; năm là tùy hỷ công đức; sáu là thỉnh chuyển bánh xe pháp; bảy là thỉnh Phật trụ lâu ở đời; tám là thường học theo Phật; chín là thường tùy thuận chúng sinh; mười là hồi hướng khắp cả.

Sau khi nói xong kệ tụng, Thiện Tài Đồng Tử vui mừng vô hạn”: Thiện Tài đồng tử nghe xong mười nguyện rộng lớn lộ vẻ vui mừng tột độ “tất cả Bồ-tát thảy đều hoan hỷ”: Không chỉ Thiện Tài đồng tử vui mừng tột độ mà tất cả các Bồ-tát cũng đều hoan hỷ. “Đức Như Lai khen rằng: “Lành thay, lành thay!”. Đức Phật Thích-ca- Mâu-ni khen ngợi Bồ-tát Phổ Hiền rằng: Ông nói pháp này thật là rất tốt, thật là rất tốt!

 

B2. ĐẠI CHÚNG THỤ TRÌ

Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng các bậc thánh giả đại Bồ-tát do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dẫn đầu diễn nói pháp môn cảnh giới giải thoát thù thắng bất khả tư nghì như thế; Bồ-tát Di-lặc dẫn đầu các đại Bồ-tát và sáu nghìn Tỳ-kheo đã thành thục; Bồ-tát Vô Cấu Phổ Hiền dẫn đầu hết thảy các đại Bồ-tát trong Hiền kiếp; các đại Bồ-tát nhất sinh bổ xứ trụ vị quán đỉnh, các Bồ-tát lớn trong vô lượng thế giới khắp mười phương cùng số đại Bồ-tát nhiều như số cực vi trần trong tất cả các cõi nước do Đại trí Xá-lợi-phất và Ma-ha Mục-kiền-liên dẫn đầu đều đến tập hợp. Các đại Thanh văn cùng trời người, tất cả các vua trong đời, Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, Nhơn, Phi nhơn, v.v… tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy thảy đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Nhĩ thời Thế Tôn dữ chư Thánh giả Bồ-tát Ma-ha-tát, diễn thuyết như thị bất khả tư nghị giải thoát cảnh giới thắng pháp môn thời, Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát nhi vi thượng thủ; chư đại Bồ-tát cập sở thành thục lục thiên Tỳ-kheo, Di Lặc Bồ-tát nhi vi thượng thủ; Hiền kiếp nhất thiết chư đại Bồ-tát, Vô Cấu Phổ Hiền Bồ-tát nhi vi thượng thủ; nhất sinh bổ xứ trụ quán đỉnh vị chư đại Bồ-tát, cập dư thập phương chủng chủng thế giới, phổ lai tập hội nhất thiết sát hải cực vi trần số Bồ-tát ma-ha-tát chúng, đại trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên đẳng nhi vi thượng thủ. Chư đại Thanh văn, tịnh chư nhân thiên nhất thiết thế chủ, Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhân, Phi nhân đẳng, nhất thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thụ phụng hành.

 

“Bấy giờ”: Vào lúc ấy, “Đức Thế Tôn cùng các bậc thánh giả đại Bồ-tát”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng với tất cả những bậc thánh Đại Bồ-tát. “do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dẫn đầu diễn nói pháp môn cảnh giới giải thoát thù thắng bất khả tư nghì như thế” Trước lúc giảng nói pháp môn cảnh giới giải thoát thù thắng bất khả tư nghì thì Bồ-tát Diệu Cát Tường (Bồ tát Văn Thù Sư Lợi) là vị thủ lãnh của các Bồ-tát này.

“Bồ-tát Di-lặc dẫn đầu các đại Bồ-tát và sáu nghìn Tỳ-kheo đã thành thục”: Trong pháp hội lại có tất cả các đại Bồ-tát và sáu nghìn Tỳ-kheo thiện căn thành thục, trong chúng Bồ-tát và Tỳ-kheo này có Bồ-tát Di-lặc làm thượng thủ. Di-lặc là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Từ Thị, còn gọi là A-dật-đa, nghĩa là không ai có thể vượt qua.

“Hết thảy các đại Bồ-tát trong kiếp Hiền do Bồ-tát Vô Cấu Phổ Hiền dẫn đầu”: Chúng ta gọi kiếp hiện tại này là Hiền kiếp, bởi có rất nhiều bậc thánh hiền xuất hiện ở đời. Trong số tất cả các Bồ-tát ở Hiền kiếp có Bồ-tát Vô Cấu Phổ Hiền là bậc thượng thủ trong đại chúng.

“Các đại Bồ-tát nhất sinh bổ xứ trụ vị quán đỉnh”: Nhất sinh bổ xứ là giai vị Bồ-tát cao nhất, còn gọi là vị Đẳng giác, trải qua một đời thì có thể “bổ xứ làm Phật” cho nên gọi là Nhất sinh bổ xứ. Hiện tại thế giới Ta-bà này của chúng ta do đức Phật Thích-ca Mâu-ni làm pháp vương. Đợi đến khi Phật Thích-ca Mâu-ni diệt độ, vị Phật kế tiếp được bổ túc vào vị trí của Phật Thích-ca Mâu-ni chính là Bồ-tát Di-lặc. Bồ-tát Di lặc hiện nay là vị Nhất sinh bổ xứ, Ngài đang ở trong nội viện tại cung trời Đâu-suất.

Mỗi vị Bồ-tát đều sẽ có lúc bổ xứ làm Phật và đều ở tại nội viện cung trời Đâu-suất. Phật Thích-ca Mâu-ni khi chưa thành Phật cũng ở tại đây, sau đó từ Đâu-suất đi xuống, vào thai, sinh ra, xuất gia, thành đạo, chuyển bánh xe pháp, hóa độ chúng sinh. Lúc Phật Thích-ca Mâu ni còn ở trong bụng mẹ đã thuyết pháp cho tất cả chúng quỷ thần, chỉ là người bình thường không thể thấy được cảnh giới này, bèn cho rằng Phật Thích-ca Mâu-ni chỉ đơn thuần là ở trong bào thai. Di-lặc Bồ-tát là vị Phật bổ xứ của Phật Thích-ca Mâu-ni, tương lai sẽ nối tiếp Phật vị của đức Thích-ca Mâu-ni. Phật A-di-đà là giáo chủ thế giới Cực Lạc, đợi khi Ngài không làm nữa, Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ nối tiếp; sau Quán Thế Âm Bồ tát sẽ là Bồ tát Đại Thế Chí. Đó đều gọi là Nhất sinh bổ xứ.

Quán đảnh: Khi một vị Phật thành Phật phải thọ quán đảnh, như xưa kia lúc vua hoặc hoàng đế lên ngôi đều phải nhận lễ quán đảnh, sau đó mới trở thành thiên tử. Bồ-tát còn một đời sẽ thành Phật gọi là Nhất sinh bổ xứ, cũng gọi là trụ quán đảnh vị, nghĩa là ở thế giới này đợi để làm Phật, thế giới này là nơi để Phật bổ xứ ở. Lúc thành Phật, chư Phật trong mười phương đều dùng nước pháp cam lồ quán đảnh cho vị Phật ấy. Khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni xuất thế, có chín con rồng đến quán đảnh cho Ngài, đó cũng là nhận lễ quán đảnh, trụ quán đảnh vị. Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ và đợi nhận lễ quán đảnh chẳng phải là một người, hai người mà là rất nhiều, bởi vì các Bồ-tát phải đến mười phương thế giới để thành Phật, cho nên những Bồ-tát như thế là rất nhiều.

“Và các Bồ-tát trong vô lượng thế giới khắp mười phương, số đại Bồ-tát nhiều như số cực vi trần trong tất cả các cõi nước đồng đến vân tập”: Còn có các vô số các đại Bồ-tát nhiều như số cực vi trần của hết thảy cõi nước chư Phật từ vô lượng thế giới khác khắp mười phương đến tập họp ở thế giới Ta-bà để nghe đức Phật Thích-ca Mâu-ni tuyên nói kinh Hoa Nghiêm và Bồ-tát Phổ Hiền nói phẩm Hạnh Nguyện Phổ Hiền. Do Đại trí Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên dẫn đầu”: Tôn giả Xá-lợi-phất là bậc trí tuệ đệ nhất trong hàng đệ tử Phật. Lúc Tôn giả còn ở trong thai mẹ đã khiến cho mẫu thân biện luận thắng cậu của Ngài là tôn giả Câu-hy-la. Trước khi mẫu thân mang thai Ngài, mỗi lần cùng cậu biện luận,  mẹ đều nói không lại cậu, nhưng sau khi mang thai Ngài thì mẹ đều thắng cậu trong mỗi lần biện luận. Cậu Ngài nói: “Đứa bé trong bụng chị nhất định sẽ là một bậc đại trí tuệ, nó đã giúp chị biện luận nên chị mới có thể thắng em”. Cậu của Ngài lại nghĩ: “Sau này đứa bé sinh ra, ta phận là cậu nếu biện luận không lại cháu thì thật là nghịch lý”. Thế là người cậu lên đường cầu học, ông đã đọc rất nhiều sách vở ngoại đạo, cậu Ngài học rất chuyên tâm, bất cứ lúc nào cũng đọc sách. Chuyên tâm học đến độ nào? Đến độ không cắt tóc, cũng không cạo râu, không chỉ vậy mà ngay cả móng tay cũng không có thời gian cắt, cho nên móng tay của ông rất dài, dài đến độ có thể cuộn lại đến mấy vòng, do đó người ta thường gọi ông là phạm chí trường trảo. Nghĩa là người tu hành thanh tịnh (Bà-la-môn) có móng tay dài. Siêng học đến độ ngay cả thời gian cắt móng tay cũng không có. Tinh thần học tập như vậy có phải là rất lớn không? Vì sao ông phải dụng công như thế? Bởi vì ông muốn thắng người cháu của mình.

Học tập như thế cả mười mấy năm, sau khi trở về ông muốn tìm đứa cháu để biện luận. Ai cũng biết người con của chị ông không có ở đây. Ông bèn hỏi:

– Con chị đâu rồi?

Em gái ông nói:

– Anh nói Xá-lợi-phất ư? Nó đã xuất gia theo Phật rồi.

Ông vừa nghe liền vô cùng tức giận nói:

– Vì sao cháu ta lại có thể xuất gia theo ông Cù-đàm ấy? Ông ấy có đạo đức gì, đi theo ông ta đâu bằng theo ta học đạo, hiện tại học vấn và đạo đức của ta đều rất cao, tại sao em lại cho nó xuất gia theo Phật Thích-ca Mâu-ni?

Thế rồi, ông liền đi tìm Phật Thích-ca Mâu-ni để đòi cháu mình, nhưng vô duyên vô cớ không có lý do gì để đòi cháu mình lại thì chí ít đến đó cũng phải đưa ra một quan điểm cùng biện luận với Phật Thích-ca Mâu-ni. Sở học của ông chính là biện luận, gọi là luận sư. Ông đến nơi Phật, bèn hỏi Phật Thích-ca Mâu-ni:

– Ông dựa vào cái gì mà thâu nhận cháu tôi làm đệ tử? Ông có bản lãnh gì?

– Như Lai không có bản lãnh gì cả, cháu ông tự  nguyện muốn xuất gia với Như Lai. Như Lai có pháp gì đâu! Phật Thích-ca Mâu-ni đáp.

– Thế thì nay tôi cùng ông biện luận, chúng ta cùng đưa ra một vấn đề để luận bàn.

– Luận cái gì? Ông muốn luận như thế nào?

– Tôi lấy không tiếp nhận làm tông, bất luận ông nói cái gì, tôi cũng không tiếp nhận.

– Ồ! Ông lấy không tiếp nhận làm tông, thế thì cái quan điểm lấy không tiếp nhận làm tông ấy ông có tiếp nhận nó hay không?

Câu-hy-la bèn nghĩ: “Nếu mình nói chấp nhận quan điểm này thì tông mình lập sẽ bị phá, vì mình đã nói cái gì cũng không tiếp nhận mà! Nếu nói không chấp nhận thì chính tông mình lập cũng không có. Cho nên nói tiếp nhận cũng bị người phá, mà nói không tiếp nhận cũng bị người phá”.

Trước khi biện luận, ông đã đánh cược với đức Phật Thích-ca Mâu-ni: “Nếu tôi thua thì tôi trao đầu của tôi cho ông, còn nếu ông thua thì ông trả cháu lại cho tôi”.

Lúc này ông biết mình đã thua, nên đã bỏ chạy, chạy được một hai tiếng đồng hồ ông lại nghĩ: “Ta là nam tử chẳng phải nữ nhân, vì sao nói không giữ lời? Ta đã nói nạp đầu cho người thì nạp đầu cho người mới phải, nếu nuốt lời như vầy thì còn ra thể thống gì nữa? Phải trở lại thôi! Ta là người nam, quyết chẳng làm như người nữ. Lời mình đã nói ra thì nhất định mình phải thừa nhận”. Thế rồi ông quay trở lại gặp đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đức Phật thấy ông, liền hỏi:

– Ông trở lại làm gì?

– Ngài cho tôi mượn một con dao.

– Cho ông mượn dao làm gì?

– Tôi muốn chặt đầu tôi đưa cho ông!

– Ông chặt đầu mình đưa Như Lai để làm gì?

– Tôi đã thua Ngài, thua thì phải nạp đầu.

Ông thật thà thừa nhận mình thua.

Đức Phật nói:

– Dù ông có nạp đầu cho Như Lai, thì Như Lai cũng chẳng dùng được, thế Như Lai lấy đầu ông để làm gì? Nếu ông không cắt nó xuống, mà để nó nguyên trên thân ông thì còn có thể dùng được chút đỉnh. Ông có thể xem như mình đã chết, ở đây xuất gia làm tăng chẳng tốt hơn sao? Ông đâu cần phải chặt đầu mình làm gì? Đầu của ông đã là của Như Lai, nay Như Lai không muốn đầu ông rơi xuống mà chỉ muốn nó nằm trên cổ ông, ông chỉ cần cạo đầu làm tăng là được! Cạo tóc trên đầu thì cũng như là cắt đầu rồi.

Câu-hy-la nói:

– Ồ, thế thì được.

Thế rồi ông cũng xuất gia theo Đức Phật làm tu sĩ.

Xá-lợi-phất còn gọi là Xá-lợi tử, vì Ngài lấy tên mẹ làm tên mình. Xá-lợi là tên một loài chim ở Ấn Độ, Trung Hoa gọi là chim Thu Lộ. Cặp mắt của chim rất đẹp, vừa đẹp lại vừa có thần. Mắt của mẹ tôn giả to và đẹp giống như mắt của chim Thu Lộ, vì thế mọi người gọi bà là Xá-lợi, bà sinh con thì gọi con bà là Xá-lợi tử (tức con của bà Xá-lợi). Ngài cũng được gọi là Xá-lợi-phất, bởi chữ “phất” cũng có nghĩa là tử (con).

Tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên. Ma-ha nghĩa là lớn. Mục-kiền-liên là tiếng Phạn, dịch là “La-bặt tử”, lại dịch là “Thái thục thị”. La-bặt (củ cải) và thái thục (mộ loại đậu) đều là loại thực vật có thể ăn. Khi tổ tiên của Ngài tu đạo đã ăn những thứ này, vì để kỷ niệm tổ tiên nên tôn giả được đặt tên như thế. Mục-kiền-liên là vị đệ tử thần thông đệ nhất trong chúng đệ tử của Phật. Tôn giả và Xá-lợi-phất là hai bậc thượng thủ trong hàng chúng Thanh văn này.

“Các đại Thanh văn”: Thanh văn nghĩa là nghe âm thanh Phật thuyết pháp mà ngộ đạo, cũng chính là nghe bốn đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo mà được khai ngộ. Ngộ được sự quấy phá của khách trần phiền não, khi đã khai ngộ được gọi là Thanh văn. “Cùng trời người, tất cả các vua trong đời”. Không chỉ Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác mà còn có người, lại có cả tất cả chư thiên, thiên thần trên trời và vua ở nhân gian.

“Trời, rồng”: rồng có rất nhiều loại, có rồng trên trời, rồng trong biển, rồng giữ kho báu, rồng làm mây làm mưa… Rồng từ đâu có? Nhân vì không chịu trì giới cho nên đọa làm rồng. Cũng trì chú, tụng kinh, cũng biết ngồi thiền, pháp môn gì cũng học rất nhanh nhưng chỉ có điều không trì giới luật. Không trì giới luật nào? Không trì giới sát sinh, trộm cắp, tà-dâm, vọng ngữ, uống rượu. Tuy có tu hành, nhưng vì không giữ năm giới, lại còn tâm sân rất nặng, vì thế đọa làm thân rồng. Thông thường ở các ngôi chùa vào khoảng bốn giờ khuya là đánh bảng. Để đánh bảng có một câu dùi gỗ, khi đánh vào tấm bảng sẽ phát ra âm thanh “cốc, cốc” để báo cho mọi người biết đã đến giờ phải dậy. Sau đó mới đánh chuông, tiếng chuông kêu “boong, boong”, nếu lúc đó quý vị còn nằm dài trên giường thì đời sau sẽ làm rồng, bởi vì quý vị không tuân thủ quy củ của chùa. Khi chết nếu tốt thì biến thành rồng, không tốt thì biến thành rắn, vì thế quý vị chẳng nên cho rằng lười biếng một chút cũng không sao. Sáng sớm nghe tiếng chuông mà không dậy thì sẽ biến thành rắn. Chiều tối nghe tiếng chuông trống mà cũng không dừng nghỉ cũng sẽ bị đọa lạc. Rồng là do không giữ quy củ nên đọa làm rồng. Quý vị xem thân rồng uốn khúc, khi bò cũng uốn qua uốn lại, đó là dạng lười biếng không giữ quy củ.

“Dạ-xoa”: Dạ-xoa cũng có rất nhiều loại, có dạ-xoa bay trên không, dạ-xoa đi trên mặt đất, dạ-xoa ở trên trời, dạ-xoa ở dưới nước. Những loại dạ-xoa ấy và rồng đều thuộc tám bộ quỷ thần. Rồng thường ăn cái gì? Rồng là một con rắn lớn, cái gì nó cũng ăn, nhưng cũng có loài ăn lại nó, loài nào ăn nó? Sau này sẽ nói đến loài ăn nó. Dạ-xoa cũng là tiếng Phạn, phiên âm là “Tốc tật quỷ”. Nó đi rất nhanh, hình dạng vô cùng đáng sợ. Dạ-xoa có con mười đầu, lại có mười con mà chỉ có một đầu, lại có một con có mười bắp chân, lại có mười con chỉ một bắp chân, hoặc là có ba bắp chân, năm bắp chân không nhất định. Hoặc là chỉ có đầu, hoặc là chỉ có hai bắp chân, có các hình dạng rất kỳ quái như thế. Nếu quý vị không biết thì vừa nhìn thấy nó đã sợ đến chết khiếp.

“Càn-thát-bà”: là thần đánh nhạc ở chỗ Ngọc Đế, còn gọi là Khứu Hương Thần. Khi Ngọc Đế vừa đốt trầm thủy hương, họ ngửi được mùi hương liền chạy đến, vui mừng tấu nhạc. Họ chuyên môn tấu nhạc bởi tấu nhạc là bản lãnh của họ.

“A-tu-la”: A-tu-la cũng là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “vô đoan chính”, còn gọi “vô tửu”. Vô đoan chính ý nói là loại này sinh ra vô cùng thô xấu. Vô tửu chính là không có rượu uống. Do loài này có phước của trời nhưng không có đức của trời, không có đức hạnh và phước báo của chư thiên, A-tu-la cũng có rất nhiều loại. Có loài ở trên trời, có loài ở cõi người, có loài ở cảnh ngạ quỷ, có loài ở cõi súc sinh. Tóm lại, ở trong đường nào cũng có loài a-tu-la.

Sao gọi là a-tu-la? A-tu-la chuyên đấu tranh với mọi người, đấu tranh trong lời nói, trong hành động, trong tâm ý; ba nghiệp thân, khẩu, ý đều thích đấu tranh. Thế nhưng A-tu-la nữ thì vô cùng xinh đẹp, đẹp đến nỗi không những con người nhìn thấy sinh tâm ái dục mà ngay cả Ngọc Đế cõi trời nhìn thấy cũng sinh lòng ham muốn. Ngọc Hoàng Đại Đế vốn có định lực nhưng khi nhìn thấy A-tu-la-nữ thì định lực tiêu tán mà phát sinh dục niệm. Thế rồi, cầu hôn với A-tu-la vương, vua A-tu-la cũng ưng thuận cho con gái mình lấy Ngọc Hoàng Đại Đế. Tu-la-nữ ấy tên là Xả Trực, Ngọc Hoàng Đại Đế được tiên nữ xinh đẹp vô cùng thích thú. Thế rồi, Ngọc Đế mời vua A-tu-la đến ăn cơm. Khi vua A-tu-la đến, Ngọc hoàng mang thiên binh thiên tướng ra nghinh đón vô cùng cung kính, lúc vua A-tu-la ra về, Ngọc đế lại dẫn thiên binh thiên tướng theo đưa tiễn. Song, vua A-tu-la không chỉ thích đấu tranh mà còn rất đa nghi, thấy vậy liền sinh nghi nghĩ rằng: “Tên Ngọc Hoàng Đại đế này muốn thị uy với ta ư, nên đem thiên binh thiên tướng đến dọa ta, há có lý này sao!” Thế rồi, trong lòng rất khó chịu nhưng cũng không có lý do gì để thể hiện, nên tạm thời nhẫn nại.

Ngọc Hoàng đại đế lại thích đến nhân gian để nghe một vị tiên nhân giảng kinh, vị tiên nhân ấy là một người đã đắc đạo, đang giảng “Ngọc Hoàng Tâm Ấn Diệu Kinh”, giảng đến chỗ: “Thượng dược tam phẩm, thần dữ khí tinh, hoảng hoảng hốt hốt, yểu yểu minh minh, tồn vô thủ hữu, khoảnh khắc nhi thành, hồi phong hỗn hợp, bách nhật công linh”.

Nghĩa là:

Thuốc quý ba phần

Thần cùng tinh khí

Mờ mờ mịt mịt

Mông mông lung lung

Chấp không chấp có

Khoảnh khắc mà thành

Gió lốc hỗn hợp

Trăm ngày linh nghiệm.

 

Ngọc Hoàng Đại Đế ngày ngày xuống nghe kinh, Tu-la-nữ bèn sinh tâm ghen, hỏi Ngọc Hoàng rằng:

– Ngọc đế ngày nào cũng đến đó làm gì mà không chịu ở nhà?

Ngọc Hoàng nói:

– Ta xuống nhân gian nghe kinh, có vị tiên nhân đang giảng “Tâm Ấn Diệu Kinh”, ta đến để nghe kinh này.

Tu-la-nữ đòi:

– Vậy thiếp cũng muốn đi nghe kinh cùng Ngọc đế.

Ngọc Hoàng trả lời:

– Nàng là thân gái, không thể đi nghe kinh, vị tiên nhân này không thích người nữ đến chỗ ông.

Tu-la nữ bèn sinh tâm nghi ngờ, nghĩ: “Ngọc đế không cho mình đi, nhất định là đến đó làm chuyện mờ ám với cô gái nào rồi”. Tu-la nữ cũng có thần thông, khi Ngọc Hoàng thượng đế ngồi lên xe đi nghe kinh, cô ta bèn dùng thuật tàng hình cùng ngồi trên xe của Ngọc Hoàng đi nghe kinh.

Ngọc Hoàng Đại Đế xuống xe, Tu-la nữ cũng xuống xe và hiện lại nguyên hình. Ngọc Hoàng vừa thấy cô, liền hỏi:

– Nàng xuống đây làm gì?

Tu la nữ trả lời:

– Thiếp đi nghe kinh!

Ngọc Đế bèn dùng phất trần phất nhẹ cô một cái, cô liền khóc ré lên, âm thanh đó liền bị vị tiên nhân nghe thấy. Tiên nhân xưa nay chưa từng nghe tiếng người nữ ré bao giờ nên mở to mắt nhìn, vừa nhìn thấy một người nữ tuyệt đẹp như thế khiến tâm dục của ông liền máy động. Tiên nhân vừa khởi dục tâm nên đạo nghiệp liền theo đó tiêu mất, ngay cả kinh cũng không thể giảng, điều đó làm Ngọc Đế càng thêm buồn bực.

Sau khi trở về, Tu-la nữ bèn chạy đến vua A-tu-la mách:

– Ngọc Hoàng Đại Đế khinh khi con, ông ta đi ra ngoài làm chuyện bất minh với nhiều cô gái khác, lại còn nói dối con là đi nghe kinh. Con đi theo, ông cho con không đúng, lại còn đánh con.

Cha cô vừa nghe liền nổi giận:

– Lần này ta không đánh nó không được.

Thế rồi, liền triệu tập binh tướng A-tu-la lại cùng đi đánh Ngọc đế. A-tu-la vương một chân đạp xuống đáy biển, một tay đẩy sập cung trời. Ngọc Đế không đủ thần thông đối phó với A-tu-la, nên ông tìm đến Phật Thích-ca Mâu-ni cầu cứu. Phật dạy: “Đừng sợ, ông hãy trở về bảo thiên binh thiên tướng niệm ‘Ma-ha Bát-nhã, Ba-la-mật-đa’ thì ổn thôi.” Khi thiên binh thiên tướng niệm “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa” thì A-tu-la đại bại bỏ chạy. Vì sao như thế? Bởi vì khi thiên binh thiên tướng niệm ‘Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa’ thì tất cả đều có trí tuệ. A-tu-la đều là những chủng tử ngu si, một khi ánh sáng trí tuệ của thiên binh thiên tướng phát chiếu thì quân A-tu-la bị đánh bại. Đây là một ý nghĩa khái quát về A-tu-la.

“Ca-lầu-la”: chính là đại bàng kim sí điểu, là loài chuyên ăn thịt rồng. Thân hình của đại bàng rất lớn, cánh của nó một khi duỗi ra rộng đến ba trăm sáu mươi do tuần, nó dùng đôi cánh quạt một cái thì nước trong biển không còn một giọt, rồng ở trong biển lộ ra và thế là nó bắt ăn. Mỏ của nó mỗi khi há ra thì ít nhất cũng lớn phải một trăm do tuần, nó ăn rồng giống như chúng ta ăn mì sợi vậy, mười mấy hai mươi con rồng đều có thể nuốt một lần, mấy nghìn con rồng cũng dễ dàng bị nó ăn hết.

Long vương vừa nhìn thấy nó thì nó đã nuốt sạch đàn con cháu của ông ta rồi. Long vương bèn tìm đến cầu cứu Phật:

– Rồng con, rồng cháu của con đều bị Kim Sí điểu ăn sạch, chúng con hiện nay có nguy cơ tuyệt chủng, trước tình hình này chúng con phải làm thế nào?

Đức Phật dạy:

–         Đừng lo, Như Lai sẽ cho ông chiếc ca-sa của Như Lai, hãy đem về phân phát cho rồng con rồng cháu của ông, mỗi con một sợi vải, bảo chúng buộc sợi vải lên sừng, làm thế Đại bàng kim sí điểu sẽ không tìm được các ông.

Long vương trở về xé ca-sa của Phật ra chia cho mỗi rồng một sợi vải buộc lên sừng. Từ đó Kim Sí điều chẳng còn cách nào tìm ra rồng để ăn.

Đại Bàng Kim sí điều nghe những người xung quanh cho hay là Phật Thích-ca Mâu-ni đã cứu những con rồng đó. Thế là nó tìm đến đức Phật than:

– Ngài đã cứu loài rồng, nay chúng con chẳng có gì ăn đều sắp chết đói. Loài Kim Sí điểu chúng con cũng sắp tuyệt chủng. Phật là bậc từ bi bình đẳng, Ngài cứu loài rồng, nhưng cũng phải cứu chúng con với!

Đức Phật bảo:

– Được! Các ngươi nếu quy y Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng, thụ trì năm giới thì Như Lai sẽ bảo chúng đệ tử mỗi khi dùng cơm đều mang bảy hạt gạo thí cho các ngươi ăn. Các ngươi từ nay về sau không được sát sinh nữa.

Đại bàng kim sí điều bèn quy y Tam Bảo, về sau cũng ăn chay, không còn ăn rồng nữa. Tuy chúng không còn ăn rồng nhưng loài rồng đã từng bị loài này ăn gần tuyệt chủng, vì thế ngày nay chúng ta không còn trông thấy loài rồng nữa.

“Khẩn-na-la”: còn gọi là Nghi thần, cũng là thần tấu nhạc ở chỗ Ngọc đế. “Ma-hầu-la-già”: chính là loài trăn. “Nhân và phi nhân, tất cả đại chúng”: còn có loài người và loài phi nhân, hết thảy đại chúng trong pháp hội này “nghe lời Phật dạy, thảy đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành”: tất cả nghe Phật nói xong đều vô cùng vui mừng, tin sâu vào pháp môn bất khả tư nghì này, đều nguyện vâng giữ thực hành pháp môn này.

Lớp hạ năm nay chúng ta đã dùng sáu tuần để giảng hoàn thành một phẩm này (Phẩm Hạnh Nguyện Bồ-tát Phổ Hiền). Do có sự hạn chế về thời gian nên không thể giảng một cách tường tận rõ ràng, chỉ có thể giảng ý nghĩa một cách khái quát. Nếu muốn hiểu ý nghĩa phẩm kinh này một cách rõ ràng chân xác, cần phải có công phu chân thật mới được. Phật pháp là pháp bất khả tư nghì, cho nên gọi là diệu pháp. Một phẩm này cũng là pháp môn bất khả tư nghì, nếu như giảng kỹ toàn bộ nghĩa lý trong phẩm này thì mất rất nhiều thời gian. Nay chỉ giảng một cách đơn giảng về nghĩa lý đại cương, người nào muốn hiểu sâu hơn thì tự mình phải dụng công và nghiên cứu. Đến cả việc tôi giảng có tốt hay không tôi cũng không biết, và tôi cũng không hy vọng là tốt hay không tốt. Nay tôi giảng cũng là không giảng; quý vị nghe cũng như chưa nghe. Không nghe, không giảng, đó mới là diệu pháp chân thực. Diệu pháp không cần giảng cũng không cần nghe này, nếu quý vị rõ được thì thời gian sáu tuần lễ không trôi qua vô ích. Không trôi qua vô ích là sao? Ăn cơm hãy là ăn cơm, mặc áo hãy là mặc áo, nằm ngủ hãy là nằm ngủ, chính là nghĩa như thế.

 

(End)