Chinese | English | Vietnamese
Mười Đại Hạnh Nguyện Của Bồ Tát Phổ Hiền
Trích ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH LƯỢC GIẢNG
http://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem_PhamPhoHienHanhNguyenLG_1.htm
Hòa Thượng Tuyên Hóa lược giảng
Nếu muốn thành tựu môn công đức này, phải tu mười hạnh nguyện rộng lớn.
Nhược dục thành tựu thử công đức môn, ưng tu thập chủng quảng đại hạnh nguyện.
Nếu muốn thành tựu môn công đức này: Nếu có chúng sinh muốn thành tựu được những công đức này của Phật. Phải chăng chỉ riêng Phật mới có được vô lượng vô biên công đức như thế, còn hết thảy chúng sinh không có phần? Chẳng phải như thế. Phật giáo rất bình đẳng, tuyệt đối không có tư tưởng độc tài, chuyên chế ở trong đó. Giáo lý của Phật dạy mọi người đều có thể thành Phật và không chỉ con người mới có thể thành Phật mà tất cả các loài động vật bay trên không, lội dưới nước…, các loài thực vật cũng đều có thể thành Phật. Loài bay trên không, lội dưới nước… đều gọi chung là động vật; thực vật là những loài như cây cối, hoa cỏ; loài sinh bằng bào thai, loài sinh ra từ trứng, loài sinh nơi ẩm thấp, loài hóa sinh, mười hai loại chúng sinh này đều có thể thành Phật. Không phải nói chỉ riêng tôi mới có thể thành Phật, còn quý vị thì không thể, không hề có điều này! Cũng không giống những tôn giáo khác nói: “Chỉ có vị Thánh Thần của tôn giáo tôi mới là thật, ngoài ra đều là giả”. Nói đến thành Phật, chỉ sợ quý vị không thành, quý vị đã thành rồi thì đều là chân Phật, không có ai là Phật giả. Tất cả Phật đều là Phật thật, tất cả chúng sinh đều có thể thành chân Phật. Không thể nói chỉ cho phép riêng tôi thành Phật còn quý vị không được phép thành Phật, loại giáo lý như vậy quá nhỏ hẹp. Nếu chỉ riêng một vị Thánh Thần của quý vị là chân thật thì có ý nghĩa gì? Như thế sẽ trở thành một vị thần cô độc. Tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật, cho nên có rất nhiều, rất nhiều Phật. Vả lại “Phật Phật đạo đồng”, cho nên tất cả Phật đều giống nhau, không có sai biệt.
Chúng ta cũng như hết thảy chúng sinh muốn thành tựu công đức của Phật thì “phải tu mười hạnh nguyện rộng lớn”. Nên tu hành mười hạnh nguyện rộng lớn; tu tập thành công mười hạnh nguyện rộng lớn ấy thì mới có thể thành tựu được công đức của chư Phật.
Những gì là mười? Một là kính lễ chư Phật; hai là xưng tán Như Lai; ba là quảng tu cúng dường; bốn là sám hối nghiệp chướng; năm là tùy hỷ công đức, sáu là thỉnh chuyển Pháp luân; bảy là thỉnh Phật trụ thế; tám là thường học theo Phật, chín là hằng thuận chúng sinh; mười là hồi hướng khắp cả.
Hà đẳng vi thập? Nhất giả lễ kính chư Phật; nhị giả xưng tán Như Lai; tam giả quảng tu cúng dường; tứ giả sám hối nghiệp chướng; ngũ giả tùy hỷ công đức; lục giả thỉnh chuyển Pháp luân; thất giả thỉnh Phật trụ thế; bát giả thường tùy Phật học; cửu giả hằng thuận chúng sinh; thập giả phổ giai hồi hướng.
Những gì là mười: Mười hạnh môn rộng lớn này là gì? Đây chính là hỏi về danh mục của mười hạnh nguyện rộng lớn này.
Một là kính lễ chư Phật: Hạnh nguyện thứ nhất là kính lễ chư Phật. Lễ chính là có lễ phép, có lễ độ. Lễ là một hình thức biểu hiện sự cung kính của người này đối với người kia. Quý vị đối với người có lễ phép, người khác đối lại quý vị cũng sẽ có lễ phép. Lễ là một trong Ngũ Thường[[1]]: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Con người sở dĩ khác với loài cầm thú là vì có lễ. Nếu con người mà không có lễ thì cũng chẳng khác gì loài cầm thú. Vì sao phải lễ phép? Vì chúng ta có tâm cung kính đối với những người chung quanh, nên mới hành lễ. Chúng ta cung kính một người hẳn phải được biểu hiện thành lễ. Đối với Chư Phật, chúng ta càng phải thể hiện sự lễ phép cung kính.
Trước đây, người Trung Hoa cũng không muốn khấu đầu trước Phật và người Mỹ bây giờ cũng thế. Lúc tôi vừa đến Hoa Kỳ, có rất nhiều người bảo tôi rằng: “Người Mỹ ghét nhất là việc cúi đầu lễ bái Phật”; tôi bảo: “Thế thì rất tốt! Họ không muốn cúi đầu, tôi nhất định khiến họ phải cúi đầu, nếu họ không cúi đầu thì tôi sẽ không dạy Phật pháp cho họ, không cần phải khách sáo!”. Quý vị cúi đầu lễ Phật, tôi sẽ dạy Phật pháp cho quý vị; không khấu đầu thì dù quý vị có muốn học Phật pháp với tôi, tôi cũng không dạy. Vì sao? Vì quý vị không có lễ phép đối với Phật thì tôi việc gì phải dạy Phật pháp cho quý vị chứ! Trước đây người Trung Hoa cũng thế, tin Phật thì tin nhưng lại không muốn cúi đầu lễ Phật. Giống như con vượn không biết lễ Phật, quý vị dạy nó, nó cũng chẳng muốn. Lại còn trâu, ngựa cũng chẳng biết lễ Phật, tuy trong lòng cung kính Phật nhưng chúng cũng không lễ Phật. Tín đồ Phật giáo Trung Hoa trước kia cũng vậy, tuy kính nhưng không lễ, tuy tin nhưng không bái.
Thời Bắc Ngụy (386-535), Tôn giả Lặc-na-ma-đề (Ratnamati) người Tây Vực thấy tình trạng này của người Trung Hoa, tin Phật mà không chịu lễ bái, như thế chẳng có tác dụng gì. Thế thì, Ngài đến Trung Hoa lập ra bảy pháp lễ bái để dạy người Trung Hoa lễ Phật. Trên đà Phật giáo truyền bá đến khắp các nước, đến đâu cũng gặp trường hợp tương tự. Ban đầu Phật giáo truyền đến Trung Hoa, người Trung Hoa không muốn lễ Phật; hiện tại truyền đến nước Mỹ, người Mỹ cũng không muốn lễ Phật. Vì sao không muốn lễ Phật? Là vì xưa nay chưa từng lễ bái, nhân đó tồn tại tướng ngã, ngã mạn cho rằng cái ta này còn to hơn cả núi Tu-di, như thế thì làm sao có thể lễ Phật được? Có người thấy người khác lễ Phật, liền đến gần đứng như một khúc gỗ; có người đến ngay chỗ người ta lễ Phật ngồi im như một tảng đá…, có rất nhiều kiểu khác nhau.
Chúng ta tin Phật thì phải nên lễ Phật, đến Phật còn không lễ bái thì nói gì đến chuyện tin? Cho nên chúng ta nhất định phải lễ bái tượng Phật. Có người nói: “Tượng Phật chẳng qua là một khúc gỗ tạc, chúng ta bái tượng gỗ ấy có lợi ích gì?” Tượng Phật gỗ đích thực không phải là Phật, quý vị không nên nhận lầm. Phật có mặt ở khắp mọi nơi, không có nơi nào mà Pháp thân của Ngài không hiện hữu. Tượng gỗ chẳng qua chỉ là một biểu tượng tượng trưng cho Phật mà thôi. Giống như mỗi nước đều có quốc kỳ, và mọi người đều hướng về quốc kỳ hành lễ rất kính cẩn. Quốc kỳ chỉ là một tấm vải hay da làm thành, thế quý vị hướng về nó kính lễ có tác dụng gì? Quốc kỳ là đại diện cho sinh mệnh của quốc gia, vì thế người dân hướng về quốc kỳ kính lễ chính là bày tỏ lòng cung kính đối với đất nước của mình. Tượng Phật cũng vậy, chẳng qua là tượng trưng cho Phật mà thôi, chứ không hề nói tượng Phật ấy chính là Phật. Thế thì tại sao chúng ta phải đối trước tượng Phật lễ bái? Phật hiện hữu khắp nơi, thế chúng ta có cần phải xoay bốn phương tám hướng để lễ chăng? Đó cũng không đúng. Lễ kính phải có chỗ hướng về nương tựa, phải có chỗ hướng về nương tựa thì phải có một mục tiêu để đại biểu. Giống như một nước có rất nhiều tỉnh, nếu quí vị phải hướng đến quốc kỳ ở mỗi tỉnh, mỗi huyện để kính lễ thì làm sao đến kịp? Vì thế chỉ hướng lên một lá quốc kỳ để kính lễ cũng đã đủ. Chúng ta hướng về Phật để kính lễ, ý nghĩa cũng giống như thế.
Có bảy cách kính lễ Phật:
- Ngã mạn lễ: Sao gọi là ngã mạn lễ? Chính là thấy người khác lễ bái, mình cũng lễ, nhưng tướng ngã hoàn toàn chưa bỏ, lạy Phật mà chẳng chút tự nhiên, và luôn tự hỏi: Tôi lạy Phật để làm gì? Tôi đâu cần phải lạy ông ta? Do vậy nên lạy một cách không hoan hỷ, rất miễn cưỡng. Hoặc có người thấy người khác lễ Phật, ai cũng lạy mà mình không lạy thì mình nổi bật quá, cảm thấy ngượng nên lạy theo. Tuy lễ Phật nhưng tướng ngã không mất, ngã mạn vẫn còn. Thấy người khác lạy nên họ cũng lạy, nhưng trong lòng lại nghĩ: “Mình thật là mê tín, lễ Phật có tác dụng gì chứ? Thật quá mê tín!”.
- Cầu danh lễ: Sao gọi là cầu danh lễ? Nghe nhiều người khen ngợi rằng: “Người kia lạy Phật rất nhiều, vừa lạy Phật, vừa lạy kinh, vừa sám hối, thật là dụng công tu hành!”. Nghe mọi người khen ngợi người kia như thế, người này cũng muốn được được tiếng tu hành, nên bắt chước bái Phật và tùy hỷ sám hối. Người này tuy cũng tùy hỷ nhưng chẳng phải lễ Phật một cách chân thật, đó là vì muốn được tiếng tu hành mà lễ nên gọi là cầu danh lễ. Người này không phải tin, mà cũng chẳng phải không tin mà lễ, chẳng qua là thấy người lễ Phật được mọi người cúng dường, cung kính, khen ngợi là người tu đạo chân chính nên cũng muốn được như vậy mà lễ Phật.
- Thân tâm xướng hòa lễ: Sao gọi là thân tâm hòa xướng lễ? Chính là khi thấy người khác lễ, mình cũng lễ; mọi người lạy, mình cũng lạy, thân và tâm vọng hướng theo người—người khác như thế nào thì mình cũng như thế ấy, bất luận là lễ Phật có lợi ích hay không, cũng chẳng cần biết lễ Phật là chính tín hay mê tín, cũng chẳng có tâm cầu danh, chỉ là làm theo người khác mà thôi. Cách lễ bái này chẳng có công đức gì, cũng chẳng có lỗi gì, song là một việc bình thường.
- Trí tịnh lễ: Sao gọi là trí tịnh lễ? Trí là trí tuệ, tịnh là thanh tịnh; dùng trí tuệ chân chính, thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình để lễ Phật. Đó là cách lễ Phật của người có trí tuệ. Quý vị lễ Phật như thế thì sẽ không phạm sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Đó là thân nghiệp thanh tịnh. Lúc quý vị lễ Phật không có tâm tham, tâm si, tâm sân mà chỉ có tâm cung kính để lễ Phật, nên ý nghiệp cũng được thanh tịnh. Khi quý vị lễ Phật, miệng niệm Phật hoặc trì tụng kinh chú, như thế khẩu nghiệp cũng chẳng phạm vào ỷ ngữ, vọng ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt. Đó là khẩu nghiệp thanh tịnh. Ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, tức là dùng trí tuệ chân chính để lễ Phật, nên gọi là trí tịnh lễ.
- Biến nhập pháp giới lễ: Sao gọi là biến nhập pháp giới lễ? Lúc lễ Phật quán tưởng: Thân ta tuy chưa thành Phật, nhưng tâm tính của ta thì có mặt khắp cả pháp giới. Nay ta đối trước một vị Phật lễ Phật, song đồng thời cũng kính lễ Chư Phật khắp pháp giới; chẳng phải chỉ lễ riêng một vị Phật mà đối trước mỗi vị Phật đều có hóa thân của ta đang cung kính hướng về đảnh lễ và cúng dường Chư Phật Bồ-tát. Nên có câu rằng: “nhất thiết duy tâm tạo”. Tâm của quý vị biến khắp pháp giới, nên thân cũng đầy khắp pháp giới. Quý vị lễ Phật với tâm niệm như thế thì mỗi lạy của quý vị cũng cùng khắp pháp giới. “Thế nào là pháp giới? Con đã nghe Kinh mấy ngày mà chẳng biết pháp giới là gì?”. Tất cả tam thiên đại thiên thế giới đều bao hàm trong pháp giới, ở bên trong pháp giới, không có gì bên ngoài pháp giới. Tâm của quý vị là tận cùng hư không, trùm khắp pháp giới, nên sự kính lễ của quý vị cũng tận cùng hư không, trùm khắp pháp giới và công đức mà quý vị đạt được cũng như thế. Đó gọi là biến nhập pháp giới lễ.
- Chính quán tu hành chí thành lễ: Chính quán là chuyên tâm quán tưởng lễ Phật. Quán tưởng: Chúng ta lễ bái một vị Phật cũng chính là lễ bái cả pháp giới Chư Phật; lễ bái cả pháp giới Chư Phật cũng chính là lễ bái một vị Phật. Bởi vì Chư Phật trong mười phương ba đời đồng một Pháp thân, nên có câu rằng: “Phật Phật đạo đồng”. Chúng ta phải vận tâm chuyên nhất quán tưởng lễ Phật, không để vọng tưởng xen vào, không nên thân thì đang bái Phật mà tâm lại chạy đến rạp chiếu phim, hoặc chạy đến trường đua ngựa, vũ trường, quán rượu hay quán cơm. Tóm lại, như người lữ hành đến khắp các nơi mà không cần mua vé, thoắt lên trên trời, thoắt xuống dưới đất, lúc thì chạy qua New York, lúc thì chạy về San Francisco, song cũng chẳng biết vì sao, lại còn cho rằng mình có thần thông, kỳ thật ngay đến quỷ thông cũng chẳng có. Không nên nói là thần thông mà đó chính là vọng tưởng, còn gọi là tà quán, không có chính quán.
Tu hành chính quán là không khởi vọng tưởng, bái Phật thì phải nhất tâm lễ bái, tâm không thể làm hai việc cùng một lúc, không thể đang bái Phật ở đây mà tâm vọng hướng về nơi khác. Lễ Phật có sự chính quán như thế thì quý vị lễ một vị Phật còn hơn lễ trăm, nghìn, vạn vị Phật; một lạy vượt xa hơn cả người lễ cả trăm, nghìn, vạn lạy mà bị vọng tưởng xen vào. Vì thế tu hành cần phải từ nơi cửa nhất tâm mà vào. Quý vị cần phải biết pháp môn, nếu quý vị không biết pháp môn thì tuy là cũng lễ Phật như những người khác, nhưng người ta lễ Phật chỉ thuần lễ Phật còn quý vị lễ Phật mà tâm khởi lên vọng tưởng: “Đợi lễ Phật xong mình sẽ đi uống một ly cà phê, hay là uống một ít rượu”. Quý vị vọng tưởng như thế thì chẳng phải chính quán tu hành chí thành lễ, đó là tà quán. Lúc lễ Phật chẳng chịu nhất tâm, lại toàn khởi vọng tưởng, lễ bái như thế chẳng có công đức gì cả.
- Thật tướng bình đẳng lễ: Thật tướng lễ là lễ mà chẳng lễ, chẳng lễ mà lễ. Có người nói: “Ồ, lễ mà chẳng lễ, chẳng lễ mà lễ, thế thì tôi không lễ Phật chính là lễ Phật rồi!” Chẳng phải lý giải như thế. Nghĩa là tuy quý vị lễ Phật mà chẳng chấp vào tướng lễ Phật chứ chẳng phải quý vị không lễ Phật rồi cho là mình đã lễ Phật, nói thế chính là cuồng điên. Giống như có người đến đây nói với tôi là ông đã từng đi vào trong hư không. Nói như thế thật là ngu si quá đỗi! Loại người như thế quả không có thuốc chữa, không có cách nào cứu được. Vì sao như vậy? Vì tính chấp trước của họ quá nặng nề khiến họ trở thành ngu si quá đỗi.
Thật tướng bình đẳng lễ chính là bình đẳng lễ bái Tam Bảo, không chấp trước vào tướng, cung kính Phật, cung kính Pháp, cung kính Tăng, không có phân biệt đối tượng lễ bái, một niệm cũng chẳng sinh, một niệm cũng chẳng diệt. Đây chính là pháp thật tướng bình đẳng bất sinh bất diệt. Nên nói: “Một niệm không sinh toàn thể hiện”. Quý vị thật có thể lễ Phật đạt đến một niệm không sinh thì lúc ấy mười phương thế giới liền hiện toàn thân. Thân này của quý vị tuy ở đây, nhưng lại lớn đồng pháp giới, đó chính là thật tướng, thật tướng vô tướng (thật tướng thì vô tướng, song không có chỗ nào mà không có mặt của thật tướng [thật tướng vô tướng, vô sở hữu tướng]). Quý vị lễ bái mà không có tướng nhân, ngã, chúng sinh và thọ giả, cùng với pháp giới hợp thành một thể thì khi ấy thân của quý vị cũng chính là pháp giới, pháp giới cũng chính là thân này của quý vị. Quý vị xem, như thế có vi diệu không chứ! Trước đây thân của quý vị chỉ là một điểm nhỏ của núi Tu-di, núi Tu-di ở trong pháp giới giống như một hạt vi trần mà thôi. Quý vị không nên cho rằng núi Tu-di là to lớn. Hiện tại, núi Tu-di ở trong Pháp thân của quý vị, Pháp thân của quý vị bao trọn lấy núi Tu-di, quý vị xem như thế có vi diệu không! Hết thảy vạn vật ở trong vũ trụ, không có vật nào mà chẳng được bao trùm bởi Pháp tính của quý vị, cho nên chẳng có gì mà quý vị không thấu biết. Thật tướng bình đẳng lễ là một cảnh giới bất khả tư nghì, nếu quý vị có thể lễ Phật đạt đến cảnh giới ấy, quý vị nói xem, sự vi diệu ấy có thể nói hết đặng chăng? Nói không hết được.
Ở trên nói sơ lược có bảy cách lễ bái Tam Bảo. Nếu nói rộng ra thì lễ nghi có ba trăm, oai nghi có tới ba nghìn, cho nên phép lễ có rất nhiều. Ở Trung Hoa có một bộ kinh lễ gọi là “Lễ Ký” (một trong “Tứ Thư” của Nho giáo), chuyên viết về các cách lễ nghi. Trong “Lễ Ký” nói mỗi người ngồi ở chỗ nào đều có quy định, người lớn có chỗ ngồi của người lớn, trẻ em có chỗ ngồi của trẻ em, người nam có chỗ ngồi của người nam, người nữ có chỗ ngồi của người nữ, người già có chỗ ngồi của người già, không thể ngồi lộn xộn. Tôi xin đơn cử, như: Trẻ em phải ngồi chỗ nào? “Lễ Ký” nói: “Em bé ngồi ở góc” (Đồng tử ngung tọa). Trẻ em phải ngồi ở bên góc, không được ngồi chính diện.
Giảng đến “lễ”, nhớ khi nhỏ lúc 12 tuổi tôi rất chú trọng lễ phép. Chú trọng lễ phép như thế nào? Tôi rất thích người khác cung kính mình. Cung kính như thế nào? Khi nhỏ tôi thích làm hoàng đế, thông thường những đứa bé trong thôn, khi thì năm mươi, lúc thì một trăm đứa, tất cả đều nghe theo sự chỉ huy của tôi. Tôi bảo chúng đấp lên một ụ đất khá lớn, rồi tôi ngồi chễm chệ trên đống đất đó và bảo chúng lạy tôi. Thật lạ, những đứa trẻ ấy không hề phản đối, hướng về phía tôi mà lạy, đều nghe theo lệnh của tôi.
Đến năm mười hai tuổi, tôi thấy một đứa bé chết, lúc ấy tôi mới biết là con người rồi sẽ chết, thế là từ đó về sau tôi cải đổi thói quen xấu ấy, không bắt các đứa bé lạy tôi nữa, trái lại tôi hướng đến người khác để lạy. Trước tiên bắt đầu từ ai? Bắt đầu từ cha mẹ tôi. Sáng sớm đến lạy cha mẹ, chiều tối cũng lạy cha mẹ. Lạy cha ba lạy, lạy mẹ ba lạy, như thế sáng lạy sáu lạy, tối lạy sáu lạy. Về sau tôi nghĩ trên thế giới này không chỉ riêng có cha mẹ của mình mà còn có trời, có đất, có vua và cả thầy nữa. Thế rồi tôi lại lạy trời, lạy đất, lạy vua, và lạy thầy. Bấy giờ tôi còn chưa biết thầy của mình là ai, do vì chưa gặp được thầy nhưng trong lòng tôi đã nghĩ thế này: “Tương lai mình nhất định sẽ có một vị thầy, tuy hiện tại mình chưa gặp được thầy song cần phải lạy thầy trước”. Vì thế mà tôi mới lạy trời, lạy đất, lạy vua, lạy cha mẹ và lạy thầy như thế. Nếu y theo cách nhìn của của nhiều người thì điều tôi làm là hết sức mê tín. Về sau tôi lại nghĩ thế gian này còn có thánh nhân, cho nên tôi lại lạy thánh nhân; nghĩ rằng có hiền nhân nên tôi lạy hiền nhân. Sau nữa tôi còn biết trên thế gian này có Phật cho nên hướng lạy Phật; lạy Bồ-tát, lạy Thanh văn, Duyên giác. Tiếp đến tôi lại nghĩ thế gian này còn có những người thật tốt, tôi lại lạy người tốt; thế gian này có người thiện, tôi lại lạy người thiện. Tôi lại nghĩ những vị ấy thường làm việc thiện giúp đỡ người khốn cùng, vì thế tôi thay mặt người khốn cùng lạy tạ những vị ấy. Tôi lại nghĩ những người ác cũng thật đáng thương, tôi lại đại diện cho những người ác này khấu đầu lạy Phật, xin Phật tha thứ xá miễn những lỗi lầm cho họ, giúp họ cải ác làm lành. Tôi lại thay mặt tất cả những người có tội trên thế gian này khấu đầu lạy Phật, hướng về Phật sám hối; thay mặt những người không hiếu thảo với cha mẹ trên đời sám hối với Phật. Tôi lại cho rằng mình là kẻ xấu nhất trong những người xấu, tôi nên lạy Phật thay cho tất cả bọn họ.
Cứ như thế sau này mỗi lần lễ lạy, tôi đều lạy đúng tám trăm ba mươi lạy. Tôi lễ lạy vào thời gian nào? mách nhỏ với quý vị: sự tu hành của tôi rất kỳ quái! Sáng sớm khi mọi người còn chưa tỉnh giấc, tôi đã dậy mặc áo sạch, rửa mặt, ra bên ngoài thắp một cây hương và bắt đầu lạy. Bất kể là gió bão, mưa đổ, tuyết rơi, tôi cũng phải lạy, thậm chí tuyết rơi tôi cũng không để ý là lạnh đóng băng hay lạnh mát, tôi úp tay trên tuyết để lạy. Lạy tám trăm ba mươi lạy cứ quỳ xuống, đứng lên; đứng lên,quỳ xuống, thời gian ước tính khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Buổi tối đợi sau khi mọi người đều đi ngủ, tôi lại ra ngoài để lạy. Cứ như thế, tôi đã lạy trong nhiều năm cho đến sau khi tôi ở nơi mộ mẹ thủ hiếu mới giảm bớt số lần lạy, mỗi ngày chỉ lạy chín lạy. Không lạy nhiều như trước nữa, như vậy sẽ đỡ mất thời gian rất nhiều. Tôi nghĩ mọi người đều muốn biết quá khứ tôi đã lễ Phật như thế nào, nên mới nói sơ qua như thế.
Kính lễ Chư Phật: chữ “kính” chính là vâng giữ quy củ, căn cứ vào quy củ mà làm. Những việc quý vị làm đều hợp với lễ, đó chính là kính. Nếu quý vị không giữ lễ, đó là bất kính. Thí như quý vị cung kính một người thì sẽ giữ khuôn phép trước mặt người đó, còn như không cung kính người đó thì quý vị sẽ cẩu thả, tùy tiện làm theo ý thích của mình.
Nay chúng ta nên lễ kính Chư Phật, chính là kính lễ hết thảy Chư Phật trong mười phương ba đời. Phật là một bậc đại giác, là một người đạt được sự giác ngộ lớn. Phàm phu chúng ta sống say chết mộng, chẳng biết ba cõi này là khổ, cũng chẳng muốn ra khỏi ba cõi, đó gọi là bất giác. Nhị thừa ở trong phàm phu là người đã giác ngộ, Nhị thừa giác ngộ cái gì? Giác ngộ sinh tử vô thường, vô cùng nguy hiểm, vì thế họ tu hành đạt được lý thiên không[[2]], đạt ngộ pháp Tứ đế, pháp Mười hai nhân duyên, đó gọi là La-hán cũng gọi là Duyên Giác. Trung thừa còn gọi là Duyên Giác. Những vị này ở trong phàm phu có thể xem là một người giác ngộ, nhưng chưa thể đem sự giác ngộ của mình để giác ngộ cho người, họ chỉ biết tự lợi mà không biết lợi tha, vì thể họ chỉ có thể tự mình giác ngộ.
Bồ-tát và La-hán không giống nhau, Bồ-tát đã có thể tự giác lại còn có thể giác tha, đã có thể tự lợi lại còn lợi tha. Phật và Bồ-tát cũng khác. Bồ-tát tuy có thể tự giác, giác tha nhưng chưa được viên mãn. Phật thì giác hạnh viên mãn, nghĩa là giác cũng viên mãn, hạnh tu cũng tròn đầy; tự giác đã viên mãn mà giác tha cũng trọn vẹn. Sở dĩ Phật thành một bậc đại giác ngộ là vì cả ba loại giác ngộ của Ngài đều viên mãn, vô số công đức đều đầy đủ, nên gọi là Phật.
Giáo lý Tiểu thừa cho rằng chỉ có một Đức Phật là Phật Thích-ca-mâu-ni, không chấp nhận có những vị Phật khác. Pháp Tiểu thừa chính là pháp mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết cho năm vị Tỳ-kheo nghe lần đầu tiên tại Lộc Giả Uyển, cho nên những người tu theo Tiểu thừa chỉ biết có mỗi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, không biết ở thế giới khác có vô lượng Chư Phật. Do vì chẳng biết nên họ nói không có Phật trong mười phương, chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế mười phương Phật phải chăng không có? Không phải như thế! Dù họ có thừa nhận có mười phương Phật thì cũng đã có mười phương Phật, nếu họ không thừa nhận thì vẫn có mười phương Phật. Phật trong mười phương và Phật Thích-ca-mâu-ni là một, nên nói: “Mười phương ba đời Phật, đồng cùng một Pháp thân” (Thập phương tam thế Phật đồng cộng nhất Pháp thân ).
Nay Bồ-tát Phổ Hiền phát hạnh nguyện rộng lớn, những hạnh nguyện tu hành ấy lớn đến đâu? Đó là những nguyện có cảnh giới bất khả tư nghì, nên không cách nào có thể biết được nguyện của Ngài lớn bao nhiêu, do đó gọi Bồ-tát Phổ Hiền là “Nguyện Vương”, Ngài là vua trong các nguyện.
Nguyện thứ nhất “lễ kính Chư Phật”, chẳng phải chỉ là đảnh lễ Đức Phật Thích Ca hay Phật A-di-đà mà một lễ là tất cả lễ; một Phật là hết thảy Phật. Đảnh lễ một vị Phật chính là đảnh lễ tất cả các đức Phật, đảnh lễ tất cả các đức Phật chính là đảnh lễ một vị Phật. Đảnh lễ tất cả Phật mà không chấp tất cả Phật, đảnh lễ một Phật cũng không chấp vào một Phật, đó là thực hành “thật tướng bình đẳng lễ”. Dù là lễ hết thảy Chư Phật hay một vị Phật nhưng cũng không chấp vào tướng ấy. Không nên nói: “Lần này công đức của mình thật lớn, mình đã lễ nhiều Phật như thế, người khác tu không thể bì kịp mình”. Lễ Phật không nên chấp vào tướng, đó gọi là “kính lễ Chư Phật”.
Kính lễ Chư Phật, Chư Phật có cần chúng ta kính lễ không? Chúng ta lễ Phật thì Phật cũng là Phật, chúng ta không lễ Phật thì Phật vẫn là Phật. Hoàn toàn không phải vì chúng ta lễ Phật mà Phật mới có thêm lợi ích, Phật mới vĩ đại hơn; còn chúng ta không lễ Phật thì Phật chịu thiệt thòi, Phật bị lu mờ hơn. Chúng ta lễ Phật là thể hiện tâm cung kính của ta đối với Phật, còn Phật thì chẳng tăng cũng chẳng giảm, vì thế lễ Phật chúng ta không nên có tâm chấp trước.
Hai là xưng tán Như Lai: Vì sao phải xưng tán Như Lai? Như Lai không cần ta xưng tán, Ngài chẳng giống như chúng ta đâu. Quý vị xưng tán Ngài, Ngài sẽ vui mừng, mũi nở ra, mắt sáng lên chăng? Còn không xưng tán Ngài, hừm! Mũi của Ngài nóng lên, mắt của Ngài sa sầm? Nếu thế thì Phật chẳng khác gì con người, chúng ta không cần lễ bái Ngài, cũng không cần xưng tán Ngài làm gì. Vì sao vậy? Vì Ngài cũng giống như phàm phu, chúng ta cần gì phải lễ bái Ngài, xưng tán Ngài? Phật đã không cần chúng ta xưng tán, thế tại sao chúng ta vẫn cứ xưng tán Ngài? Đó chẳng phải là mâu thuẫn lắm sao? Không có gì là mâu thuẫn cả. Chúng ta tán thán Phật thì tự tính của chúng ta sẽ sinh công đức. Sinh công đức gì? Tự tính của mỗi người chúng ta đều có linh quang, quý vị tán thán Phật thì linh quang của tự tính sẽ xuất hiện chiếu phá si ám của tự thân. Nhờ công đức tán thán Phật, vô hình trung quý vị sẽ không tạo tội nghiệp, không khởi vọng tưởng. Vọng tưởng của quý vị giảm đi một phần thì ánh sáng trí tuệ đã hiển lộ nhiều thêm một phần. Vì sao người tu đạo sợ khởi vọng tưởng? Chính là vì điểm này. Quý vị vừa khởi vọng tưởng thì tự tính của quý vị giống như bị quét lên một lớp đen; nếu không khởi vọng tưởng thì ánh sáng tự tính của quý vị sẽ được hiển bày càng lúc càng sáng. Lúc tán thán Phật là trong lòng quý vị hoan hỷ với Phật, vui mừng với Phật là hòa hợp vào ánh sáng trí tuệ của Phật nên ánh sáng tự tính của quý vị cũng sẽ được hiển lộ.
Thế nào gọi là xưng tán Như Lai? Thí như nói:
Phật, khắp đất trời chẳng ai bằng
Mười phương thế giới cũng như thế
Tất cả thế gian con đều thấy
Hết thảy không ai bằng được Phật.
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thấp phương thế giới diệc vô tỷ,
Thế gian sở hữu ngã tận kiến
Nhất thiết vô hữu như Phật giả.
Đó là xưng tán Như Lai; Trên trời, dưới trời và ngay cả trên mặt đất không có vị thần, Bồ-tát, La-hán, Bích-chi Phật nào có thể sánh được với Phật, không ai có thể sánh bằng; không chỉ trên trời, dưới đất không ai có thể bì kịp Phật mà mười phương thế giới cũng không ai có thể sánh bằng. Quý vị xem, thế giới này của chúng ta tuy có năm châu lớn như: Mỹ châu, Úc châu, Á châu, Âu châu, Phi Châu, nhưng năm châu lớn này chỉ là một thế giới, còn có thế giới ở trong mười phương. Thế giới trong mười phương có nhiều vô lượng vô biên thế giới. Hiện nay có nước dự định dùng hỏa tiển để đưa con người lên mặt trăng, mặt trăng cũng có thể nói là một trong những thế giới, chẳng qua là một tiểu thế giới mà không phải là một đại thế giới. Người và vật trong mười phương thế giới tuy rất nhiều nhưng cũng không ai, không gì có thể bì được với Phật. Tất cả những gì hiện hữu trên thế giới này con đều thấy khắp cả, nhưng tất cả đều không thể so sánh với Phật.
Hoặc là xưng tán.
Phật A-di-đà thân sắc vàng
Tướng tốt sáng ngời chẳng gì bằng
Năm Tu-di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ-tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
A-Di-Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,
Bạch hào uyển-chuyển ngũ Tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Thân của Phật A-di-đà, giáo chủ thế giới Tây phương Cực Lạc màu hoàng kim. Ngài có ba mươi hai tướng tốt[3], tám mươi vẻ đẹp[4], hào quang chiếu khắp, không ai có thể sánh bằng. Hào quang tướng lông trắng uyển chuyển giữa hai chặng mày của Phật A-di-đà lớn đến đâu? Lớn như năm ngọn núi Tu-di. Mắt Ngài màu xanh biếc và trong ngần giống lớn như bốn biển lớn. Mắt Phật lớn như bốn biển lớn, quý vị xem như thế thì thân của Phật phải lớn đến nhường nào! Trong hào quang của Phật A-di-đà lại hóa ra vô lượng vô biên Đức Phật. Ngài không chỉ hóa ra Chư Phật mà còn hóa ra vô số Bồ-tát, Ngài không chỉ hóa ra các Bồ-tát mà còn hóa ra Thanh Văn, Duyên Giác, và Ngài cũng hóa ra vô lượng vô biên chúng sinh trong sáu đường. Phật A-di-đà có phát bốn mươi tám nguyện lớn, mỗi một nguyện đều nhằm độ thoát tất cả chúng sinh. Hoa sen trên thế giới Tây Phương Cực Lạc phân thành chín phẩm, trong mỗi phẩm lại phân thành chín phẩm, cho nên chín lần chín là tám mươi mốt phẩm liên hoa, dùng tiếp dẫn chúng sinh đến bờ Niết-bàn giải thoát, vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Để được vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, một phần là nhờ xưng tán Như Lai, muốn có được công đức này là phải tu hạnh xưng tán Như Lai như thế.
“Như Lai”: Kinh Kim Cương nói: “Như Lai là không từ đâu đến và cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai” (Như Lai giả, vô tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai). “Như” là vắng lặng; “lai” chính là động. Như Lai có thể nói là giống như đến nhưng bản thể của Ngài lại chẳng động, đến chẳng từ đâu đến, đi cũng chẳng đi về đâu. “Như” chính là lý, “Lai” chính là sự. Đó cũng chính là cảnh giới “lý sự vô ngại” của Kinh này. Bản Kinh này có: lý pháp giới, sự pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới và sự sự vô ngại pháp giới. Như Lai là pháp giới sự lý vô ngại và cũng là một trong mười danh hiệu của Phật.
Ba là rộng tu cúng dường: “Rộng” là rộng lớn, “tu” thì phải thực hành, thực hành cúng dường một cách rộng lớn. Cúng dường có rất nhiều loại như: Đem thân cúng dường, đem tâm cúng dường, đem thân tâm để cúng dường. Thế nào là đem thân cúng dường? Giống như hai chúng đệ tử xuất gia của Phật là những người đem thân cúng dường Chư Phật, đem thân làm Phật sự, đem thân tu hành Phật pháp. Những vị này không chỉ đem thân cúng dường mà có thể nói là còn đem tâm cúng dường, dụng tâm chân thật tu hành Phật pháp, ngày ngày lạy Phật, tụng kinh, bái sám, niệm niệm chẳng quên, luôn hoan hỷ tu hành Phật pháp, đem hết thân tâm cúng dường Chư Phật. Lại như đa phần những cư sĩ tại gia tranh thủ lúc rảnh đến chùa dâng hương lễ Phật, đó cũng gọi là đem thân tâm cúng dường. Hoặc có người bận suốt, không có thời gian đến chùa, mỗi ngày ở nhà dụng tâm thành kính dâng hương lễ Phật, thực hành phép quán tưởng lễ Phật, đó cũng gọi là đem thân tâm cúng dường. Hoặc là có người do nhiều hoàn cảnh khác nhau như đường sá xa xôi thì cũng có thể dùng cách đem thân và tâm cúng dường như thế. Hoặc có người cúng dường hương hoa; hoặc có người thắp sáng đèn, nến cúng dường Phật; hoặc có người cúng dường trái cây, y phục mới… có vô số cách cúng dường như thế.
Cúng dường vốn có mười loại, từ mười loại cúng dường biến thành một trăm loại, một trăm loại biến thành một nghìn loại, một vạn loại cúng dường, đó gọi là rộng tu cúng dường. Chúng ta đối trước một vị Phật cúng dường, nên quán tưởng sự cúng dường biến khắp pháp giới vô lượng vô biên Chư Phật. Trước mỗi một vị Phật đều có thân ta ở đó tác pháp cúng dường. Quý vị quán tưởng như thế gọi là cúng dường khắp cả pháp giới. Cúng dường pháp giới thì thành tựu công đức như pháp giới, thành tựu công đức pháp giới thì đạt được trí tuệ như pháp giới, đạt được trí tuệ pháp giới thì viên thành quả vị như pháp giới. Do đây, rộng tu cúng dường chính là cúng dường bằng tất cả khả năng của mình. Quý vị có bao nhiêu năng lực đều tận dụng hết để cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Bồ-tát Phổ Hiền đã tu tập hạnh môn như thế, Ngài tu hạnh cúng dường Tam Bảo một cách rộng lớn.
Bốn là sám hối nghiệp chướng: “Sám” là ăn năn lỗi trước, cải đổi những lỗi lầm trước đây; “hối” là chừa bỏ lỗi sau, từ nay về sau không tái phạm những lỗi lầm ấy nữa. Cho nên sám hối có thể nói là những lỗi đã sinh làm cho nó đoạn diệt, những việc ác chưa sinh không cho nó sinh khởi và cũng có thể nói là những việc thiện đã sinh làm cho nó tăng trưởng, những việc thiện chưa sinh khiến nó phát sinh. Những việc thiện đã sinh khiến cho nó tăng trưởng mãi không dứt, những việc thiện chưa sinh khiến cho nó sinh mãi không ngừng. “Nghiệp” có rất nhiều loại, nghiệp chướng là một trong tam chướng. Tam chướng là nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng. Nay nói sám hối nghiệp chướng cũng chính là sám hối báo chướng, sám hối phiền não chướng.
Nghiệp chướng quy kết lại có ba loại là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Nghiệp do thân tạo là nghiệp giết hại, nghiệp trộm cắp và nghiệp dâm dục. Sát sanh, nói một cách cụ thể là giết hại những loài vật lớn; nói sâu một tí là giết hại những loài vật nhỏ nhít như con kiến, con muỗi, con ruồi…, đó cũng gọi là giết. Ngoài việc giết hại những loài lớn, bé ra còn có giết bằng ý niệm. Sao gọi là giết bằng ý niệm? Tuy quý vị không có giết thật sự nhưng trong tâm của quý vị đã khởi ý niệm giết, nếu y cứ vào tánh giới thì đã phạm giới sát rồi. Tự tính vốn không giết hại, nhưng trong tâm quý vị đã khởi niệm giết thì đối với giới Bồ-tát xem như đã phạm giới. Quý vị khởi lên một niệm giết, nhân giết, duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết, đó đều gọi là phạm giới.
Trộm cắp cũng như thế. Trộm lớn là xâm chiếm đất nước của người khác, trộm nhỏ là lấy tài sản nhà người và trộm nhỏ hơn nữa là lấy một cây kim, một sợi chỉ, một ngọn cỏ, một cái cây của người. Nói chung, những gì người ta không cho mà mình tự lấy đều gọi là trộm.
Nghiệp dâm dục cũng có lớn có nhỏ, có thô có tế, cho đến trong tâm khởi một niệm dâm dục thì ở nơi tự tính đã không thanh tịnh rồi.
Ý có ba điều ác là tham, sân, si; có nghiệp do tâm tham tạo nên, có nghiệp do tâm sân tạo nên, nghiệp do tâm si tạo nên. Miệng có bốn điều ác là nói lời thêu dệt, nói lời dối gian, nói lời hung ác, nói lời đâm thọc. Vô số hành vi đều là nơi tạo ra nghiệp tội. Nay chúng ta đều phải phát tâm sám hối, nguyện những tội lỗi đã tạo từ nay về sau không dám làm nữa, đoạn dứt hẳn; những điều ác chưa làm thì không để cho nó phát sinh. Đó gọi là sám hối nghiệp chướng. Cách thức sám hối như thế nào? Đối trước Phật thành khẩn tha thiết, thống thiết rơi lệ, bi ai cầu xin sám hối. Quý vị thật tâm sám hối thì nghiệp chướng tự sẽ tiêu trừ.
Năm là tùy hỷ công đức: “Tùy” nghĩa là thuận theo hay theo cùng, “hỷ” là hoan hỷ, “công” là công đã lập được, “đức” là đức hạnh đã làm. Tùy hỷ cũng có thể gọi là người khác vui theo những công đức mình đã làm, cũng có thể nói là mình vui theo những công đức mà người khác đã làm. Quý vị muốn sám hối nghiệp chướng nhất định phải tùy hỷ công đức, muốn vun trồng vô vàn công đức thì phải sám hối nghiệp chướng của mình. Nếu nhất thời nghiệp chướng chưa thể tiêu trừ thì nên tạo thêm công đức, cho nên nói tùy hỷ công đức cũng chính là sám hối nghiệp chướng, sám hối nghiệp chướng cũng chính là tùy hỷ công đức. Đã như thế sao lại còn phân nguyện thứ năm là tùy hỷ công đức? Vì nguyện thứ tư là chuyên về sám hối nghiệp chướng, quý vị muốn sám hối nghiệp chướng nên đồng thời thực hiện tùy hỷ công đức ở nguyện thứ năm. Tùy hỷ công đức đã bao hàm cả việc làm hết thảy điều thiện. Tất cả những công đức lành, quý vị nên tùy hỷ; tất cả những việc tội nghiệt lỗi lầm, quý vị không nên làm.
Thế nào là tùy hỷ công đức lành? Như có người đề nghị làm một việc có lợi ích cho mọi người, làm việc tốt gọi là thiện. Thế nào là lập công? Công nghĩa là cộng vậy, tức những việc công cộng; việc chung của mọi người, những việc như thế quý vị nên làm nhiều một chút. Quý vị xem chữ công (功) là chữ công (工) của công việc, lại thêm vào bên cạnh một chữ lực (力), ý nói quý vị phải ra sức, đặc biệt khi làm những việc chung, quý vị nên làm hết sức mình. Hiện nay những việc chung đa phần đều do chính phủ làm. Thí như sửa cầu, bồi lộ… đều là những chỗ để lập công. Những việc quý vị làm đem đến lợi ích cho mọi người đều gọi là công. Công là những việc làm còn được lưu lại và thường mọi người có thể nhìn thấy được. Khi làm một việc chung thường có lưu lại một biểu tượng khiến mọi người nhìn vào đều biết việc đó là do ai làm, giống như quý vị xây dựng một số phòng học cho một ngôi trường nào đó thì tên của quý vị sẽ được khắc lên cổng trường, đó gọi là lập công.
Đức: Hạnh có được ở nơi tâm gọi là đức. Những việc quý vị làm khiến trong lòng quý vị sinh hoan hỷ, đó chính là đức. Thường quý vị lập công, mọi người đều sẽ biết, nhưng với đức hạnh thì mọi người không hẳn biết được. Đức có phân hiển đức và mật đức. Hiển đức là công việc quý vị làm khiến cho mọi người đều rất vui mừng và đều biết đến một cách rõ ràng. Mật đức là việc quý vị làm đem đến lợi ích cho mọi người, nhưng thường mọi người không hề biết. Như người có thần thông âm thầm theo giúp đỡ tất cả chúng sinh, nhưng mọi người đều không hề biết, đó chính là mật đức.
Tùy hỷ công đức là tự mình làm việc tốt nên khiến cho người khác cũng phát tâm làm theo, đó gọi là người khác tùy hỷ công đức của mình; người khác làm việc tốt, quý vị biết được nên cũng đem sức của mình trợ giúp họ, đó gọi là mình tùy hỷ công đức của người khác. Tùy hỷ công đức không chỉ tùy hỷ chính mình mà còn tùy hỷ người khác, cho đến tùy hỷ theo tất cả các công đức lành mà chúng sanh trong pháp giới đã làm với tâm hoan hỷ, hễ là việc lành quý vị đều nên giúp làm.
Tùy hỷ công đức còn có tùy hỷ công đức của Phật, công đức của Bồ-tát, công đức của Thanh Văn, Duyên Giác, tùy hỷ hết thảy công đức của chúng sinh. Thế nào gọi là tùy hỷ công đức của Phật? Thí như quý vị giảng kinh, thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh, đó là tùy hỷ công đức của Phật. Quý vị đề xướng dạy người thực hành sáu độ, muôn hạnh, thực hành Bồ-tát đạo, đó là tùy hỷ công đức của Bồ-tát. Quý vị đề xướng dạy người tu Mười hai nhân duyên, đó là tùy hỷ công đức của Duyên Giác. Quý vị dạy cho mọi người đều biết tu pháp Tứ đế, đó là tùy hỷ công đức của Thanh Văn. Quý vị tùy hỷ trời, người tu ngũ giới, thập thiện, đó gọi là tùy hỷ công đức của trời và người. Giảng về tùy hỷ công đức thì vô cùng vô tận, nay tôi chỉ lược giảng đại ý như thế.
Sáu là thỉnh chuyển pháp luân: Pháp luân là gì? “Luân” nghĩa là chiết phục. Bánh xe pháp này có thể nhiếp phục thiên ma ngoại đạo, làm cho chính pháp tồn tại lâu dài. Sau khi Phật thành đạo, ba lần chuyển bánh xe pháp Tứ đế độ năm vị Tỳ-kheo, đó gọi là chuyển pháp luân. Thỉnh Phật, Bồ-tát, Thanh Văn, Duyên Giác, La-hán thuyết pháp, thỉnh pháp sư thuyết pháp đều gọi là thỉnh chuyển pháp luân. Giống như chúng ta mỗi ngày giảng kinh, có hai vị cư sĩ hay pháp sư ra trước thỉnh pháp, đó là hạnh nguyện thỉnh chuyển pháp luân thứ sáu của Bồ-tát Phổ Hiền. Thỉnh chuyển pháp luân có lợi ích gì? Trên thế giới này nếu có người chuyển pháp luân thì ma vương không dám xuất hiện, nếu không có người chuyển pháp luân thì ma vương sẽ xuất hiện trên thế gian. Đó là một điểm, lại còn nếu hiện tại quý vị thỉnh pháp thì công đức của việc chuyển pháp luân này đều nhờ sự thỉnh pháp của quý vị mà được thành tựu, quý vị có được công đức chuyển pháp luân rồi thì trí tuệ sẽ khai mở. Lại nữa, thỉnh chuyển pháp luân cũng chính là tùy hỷ công đức. Vì quý vị thỉnh pháp sư giảng pháp cho mọi người nghe, đem đến lợi ích cho mọi người thì trong việc làm đó đã có sự tùy hỷ công đức. Thế nên mười hạnh nguyện lớn này luôn có sự liên kết với nhau, như quý vị muốn sám hối thì phải tùy hỷ công đức, muốn tùy hỷ công đức thì phải thỉnh chuyển pháp luân. Thỉnh chuyển pháp luân là một cách tùy hỷ công đức lớn nhất.
Không chỉ giảng kinh thuyết pháp mới gọi là chuyển pháp luân mà hễ làm bất kỳ việc có liên quan đến Phật giáo cũng đều gọi là chuyển pháp luân. Giống như in ấn bản kinh này cho mọi người xem cũng gọi là chuyển pháp luân. Quả Tiền đề nghị cho ghi lại bài giảng cũng là chuyển pháp luân; nay máy ghi âm đang ghi lại pháp âm cũng gọi là chuyển pháp luân; quý vị phiên dịch kinh điển cũng gọi là chuyển pháp luân. Những người đang ghi chép ở đây, ghi chép rõ ràng sau này sẽ giảng lại cho mọi người nghe, đó là đang chuẩn bị chuyển pháp luân. Chúng ta tụng kinh, lạy kinh cũng là chuyển pháp luân. Hễ quý vị ở trong Phật giáo, làm những việc lợi ích cho Phật giáo đều gọi là chuyển pháp luân. Quý vị xem mấy chữ Hoa trước mặt chúng ta cũng là đang chuyển đại pháp luân. Mỗi tối chúng ta giảng kinh cũng là chuyển pháp luân; ban ngày ngồi thiền cũng là chuyển pháp luân. Tất cả các cách trên đều là một dạng của chuyển pháp luân. Hiện nay chúng ta ở đây nghe pháp cũng là đang chuyển pháp luân, chỉ cần quý vị hiểu rõ, đó chính là thỉnh chuyển pháp luân. Nếu quý vị không hiểu rõ, cảm thấy công việc này quá vất vả, quá cực khổ thì đó là sợ chuyển pháp luân.
Bảy là thỉnh Phật trụ thế: Phật ra đời, trụ ở đời, sau cùng nhập Niết-bàn. Lúc Phật ở đời, thế gian giống như có ánh mặt trời, khắp nơi đều sáng rỡ; Phật nhập Niết-bàn, thế giới trở nên tăm tối. Vì thế Bồ-tát Phổ Hiền mới phát đại nguyện thỉnh Phật thường trụ ở đời, đừng vào Niết-bàn. Phật luôn toại nguyện cho chúng sinh, nếu tất cả chúng sinh đều thỉnh Phật ở đời thì ngài sẽ không nhập Niết-bàn. Nếu không có chúng sinh nào thỉnh Phật ở đời thì sau khi hoàn thành việc giáo hóa những chúng sinh đáng được giáo hóa, Ngài sẽ vào Niết-bàn, nên nguyện thứ bảy của Bồ-tát Phổ Hiền là thỉnh Phật ở đời.
Tám là thường học theo Phật: Bồ-tát Phổ Hiền lại phát nguyện luôn theo bên Phật học Phật pháp. Phật pháp mênh mông, nhưng chúng ta học Phật pháp đừng nên sợ nhiều. Chúng ta học Phật pháp càng nhiều thì trí tuệ càng lớn. Như Tôn giả A-nan, vì sao sức ghi nhớ của ngài tốt như vậy? Nên nói: “Phật pháp như biển lớn, chảy vào tâm A-nan” (Phật pháp như đại hải, lưu nhập A-nan tâm). Vì sao Phật pháp lại giống như nước ở trong biển lớn, tất cả đều chảy vào tâm Tôn giả A-nan? Vì Tôn giả A-nan đời đời kiếp kiếp đều chú trọng đa văn nên sức ghi nhớ của Ngài mới được tốt như thế. Trong ý nghĩa “thường học theo Phật” còn bao hàm ý nghĩa không nên giải đãi, lười biếng, hôn trầm; phải chuyên cần tu giới, tuệ, định, dứt hẳn tâm tham, tâm sân, tâm si. Nếu quý vị có thể chuyên cần tu tập giới, định, tuệ, dứt hẳn tham, sân, si, đó chính là thường học theo Phật.
Chín là hằng thuận chúng sinh: Chữ “hằng” này ý nghĩa tương đương với chữ “thường”, chính là thường hằng không thay đổi. “Thuận” là thuận nương, nương vào cảnh giới chúng sinh. Chúng sinh đều điên đảo, thế có phải quý vị sẽ thuận theo sự điên đảo của chúng sinh? Chúng sinh căn bản không có tri thức, nếu quý vị thuận theo những chúng sinh không có tri thức ấy, chẳng phải cũng cùng đi trên con đường ngu si sao? Hằng thuận chúng sinh là thuận theo tập quán của chúng sinh để cứu họ ra khỏi dòng chảy ngược, đó gọi là hằng thuận. Vì sao nói cứu chúng sinh ra khỏi dòng chảy ngược? Vì chúng sinh đều là điên đảo, điên đảo chính là chảy ngược dòng. Giống như nước chảy xuôi về Đông, quý vị bơi thuyền đi ngược lại từ Đông lên Tây, đó gọi là ngược dòng. Nếu quý vị thuận theo chúng sinh thì không thể thành Phật, quý vị nếu muốn thành Phật thì không thể thuận theo chúng sinh. Thế Bồ-tát Phổ Hiền sao lại thuận theo chúng sinh? Đó là Ngài muốn từ trong dòng ngược đưa chúng sinh xuôi về dòng thuận, cứu họ ra khỏi dòng ngược. Nên nói: “ngược dòng chảy lục trần của phàm phu vào dòng Pháp tính của Thánh nhân” (Nghịch phàm phu lục trần lưu, nhập Thánh nhân Pháp tính lưu), đó gọi là hằng thuận chúng sinh. Nếu không như thế, quý vị thuận theo chúng sinh, họ vui thích tạo nghiệp, lẽ nào Bồ-tát như quý vị lại tạo tội theo họ? Chúng sinh còn mê hoặc, do mê hoặc nên tạo nghiệp, tạo nghiệp thì phải chịu quả báo (khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo). Thế quý vị cũng khởi mê hoặc theo chúng sanh, tạo nghiệp và chịu quả báo? Đó chẳng phải là đã biến thành chúng sinh rồi ư?
Hằng thuận chúng sinh là thường giáo hóa chúng sinh không hề nhàm chán, làm cho chúng sinh bỏ mê về giác, xa lìa đường mê đạt đến giác ngộ, thế nên hằng thuận chúng sinh cũng chính là tinh tấn ba-la-mật, tinh tấn ba-la-mật là không không hề phiền chán chúng sinh tạo tội. Chúng sinh tạo ra rất nhiều tội nghiệp, Phật cũng không ghét bỏ họ, sẽ không thốt lên: “Ô! ông là chúng sinh tạo nhiều tội nghiệp như thế, ta sẽ không độ ông, để ông đọa địa ngục!”. Phật không có tâm như thế. Dù chúng sinh có tạo tội nghiệp, Phật cũng chỉ dùng một tâm từ bi, hỷ xả để cứu độ họ. Đó là chân chính tinh tấn ba-la-mật.
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn đang hành đạo Bồ-tát, có một kiếp Ngài ở trên núi tu hạnh bố thí tinh tấn ba-la-mật. Có một lần, trời đổ tuyết lớn trong nhiều ngày, tất cả cảnh vật trên núi đều chìm trong biển tuyết. Có một con hổ mẹ dẫn theo một chú hổ con đi tìm mồi nhưng chẳng có. Mắt nhìn chú hổ con đói sắp chết, hổ mẹ cũng đói đi không nổi. Đức Phật Thích-ca-mâu-ni nhìn thấy, bèn nghĩ: “Ta nguyện đem thân mình bố thí cho hổ ăn, nguyện chúng sau khi ăn thịt ta xong phát tâm Bồ-đề, thành đạo vô thượng”. Phát nguyện rồi, Ngài liền cởi bỏ y phục, nhảy xuống bên cạnh con hổ làm mồi cho chúng ăn. Đó là bố thí ba-la-mật, cũng là tinh tấn ba-la-mật, vốn là một phần của hằng thuận chúng sinh. Phật hằng thuận chúng sinh là như thế, còn chúng ta hằng thuận chúng sinh thì phải giáo hóa họ, không thể nói: “Bồ-tát Phổ Hiền nói phải hằng thuận chúng sinh nên có chúng sinh hút chích, tôi cũng hút chích theo họ; có chúng sinh nhậu nhẹt, tôi cũng nhậu nhẹt theo; có chúng sinh làm việc mê lầm, tôi cũng làm chút việc mê lầm như họ”, đó không phải là hằng thuận chúng sinh. Hằng thuận chúng sinh là đưa chúng sinh ra khỏi đường mê, cảm hóa chúng sinh đến với chúng ta, cùng chúng ta tu đạo, đó mới là hằng thuận chúng sinh. Quý vị không nên hiểu lầm “hằng thuận chúng sinh” là cùng chạy đua với chúng sinh, chạy mãi đến nỗi quên mất nhà mình, chẳng biết đâu là quê hương của mình.
Mười là hồi hướng khắp cả: “Phổ” là cùng khắp, “giai” là hoàn toàn. “Phổ giai hồi hướng” là tất cả những việc làm được đều xin hồi hướng. Hồi hướng đến ai? Hồi hướng đến Chư Phật. Những công đức làm được mỗi ngày đều hồi hướng về Chư Phật. Vì thế nên nói:
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm cõi nước Phật
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát tâm bồ-đề
Hết một báo thân này
Đồng sinh nước Cực Lạc.
Đó chính là hồi hướng. Hồi là quay lại, là xoay vào bên trong; hướng là hướng ra bên ngoài. Trước phải quay lại, sau đó mới có thể hướng ra bên ngoài. Hồi hướng về đâu? Mỗi mỗi chúng ta đều từ phàm phu hướng đến thánh nhân, tức là từ chúng sinh hướng đến Chư Phật. Hồi phàm hướng thánh, đó là hồi hướng; hồi chúng sinh hướng Phật; hồi sự hướng lý; hồi tiểu hướng đại; hồi tự hướng tha, đó đều là hồi hướng.
Thế nào gọi là hồi tự hướng tha? Thí như chúng ta làm những việc tốt, rồi đem công đức của những việc làm ấy hồi hướng cho bạn bè của mình, khiến họ phát tâm Bồ-đề, thành vô thượng đạo, đó gọi là hồi tự hướng tha. Hồi sự hướng lý là ta làm công việc ấy tuy có hình tướng, nhưng ta phải hướng đến lý của nó, lý vốn vô hình, đem công đức hữu hình hồi hướng khắp pháp giới vô cùng tận. Hồi tiểu hướng đại là trước đây mình tu học pháp Tiểu thừa, nay không tu pháp Tiểu thừa nữa mà đổi lại tu theo pháp Đại thừa, đó gọi là hồi tiểu hướng đại.
Lại ví như chúng ta ngày ngày giảng kinh là bố thí pháp, đó là sự bố thí thù thắng hơn tất cả các sự bố thí khác, có thể nói là công đức còn lớn hơn đem bảy báu bố thí cùng khắp tam thiên đại thiên thế giới. Công đức ấy tuy lớn như thế nhưng bản thân tôi không cầu, mà nguyện đem công đức giảng kinh, thuyết pháp, chuyển đại pháp luân để trang nghiêm tịnh độ của chư Phật trong mười phương. Trên báo đáp công ơn của trời đất, quốc vương, cha mẹ, thầy tổ; dưới cứu tế sự khổ não trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu như có ai có duyên gặp được pháp hội giảng kinh này, nghe được pháp này nên mau chóng phát tâm Bồ-đề, đợi sau khi báo thân trong hiện tại này hết, chúng ta sẽ cùng vãng sinh về cõi nước Cực Lạc. Đây chính là hồi hướng. Nguyện thứ mười của Bồ-tát Phổ Hiền là hồi hướng khắp cả, tất cả những công đức có được Ngài đều hồi hướng đến chư Phật.
Ghi chú của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Vạn Phật Thánh Thánh:
[1] Ngũ Thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_giáo)
[2] Thiên không 偏空: ngộ, biết một cách thiên lệch hay chưa cứu cánh về “Không”. Theo Tam Luận Huyền Nghĩa, thì “Không” được chia làm Đãn không và Bất đãn không. Đãn không là chỉ chấp không, chớ không biết đến Chân không và Diệu hữu. Bất đãn không nghĩa là biết rõ Chân không và thừa nhận Diệu hữu, tức là Trung đạo không. (theo Phật Quang Đại Từ Điển)
[3] Ba mươi hai tướng tốt: (Tam thập nhị tướng 三十二相: S: dvātriṃśan mahā-puruṣa-lakṣaṇāni): những tướng thù thắng vi diệu của Chuyển luân thánh vương, ứng thân và hóa thân của Phật. Ba mươi hai tướng tốt gồm có:
- Túc hạ an bình lập tướng 足下安平立相 (S: su-pratiṣṭhita-pāda): tướng lòng bàn chân bằng phẳng mềm mại, tiếp xúc vừa khít mặt đất.
- Thủ túc luân tướng 手足輪相 ( S: cakrāṅkita-hasta-pāda-tala): Tướng bánh xe báu nghìn căm xe được tạo bằng những vân thịt hiện dưới lòng bàn chân.
- Tiêm trường chỉ tướng 纖長指相 (S: dīrghāṅguli): tướng ngón tay, ngón chân đều thon dài, ngay thẳng.
- Túc căn quảng bình tướng足跟廣平相 (S: āyata-pāda-pārṣṇi): gót chân tròn đầy, rộng bằng.
- Thủ túc chỉ man võng tướng 手足指縵網相 (S: jālāvanaddha-hasta-pāda): giữa các ngón tay và các ngón chân đều có màng nối liền nhau, giống như nhạn chúa hễ xòe các ngón chân thì hiện.
- Thủ túc nhu nhuyến tướng 手足柔軟相 (S: mṛdu-taruṇa-hasta-pāda-tala): tướng tay chân rất mềm mại.
- Túc phu cao mãn tướng 足趺高滿相 (S: ucchaṅkha-pāda): tướng mu bàn chân cao, tròn đầy.
- Lộc vương thuyên tướng 鹿王腨相 (S: aiṇeya-jaṅgha): xương đùi tròn nhỏ như nai chúa
- Bình trụ thủ quá tất tướng 平住手過膝相 (S: sthitānavanata-pralamba-bāhutā): khi đứng thẳng, hai tay duỗi xuống dài quá gối.
- Âm mã tàng tướng 陰馬藏相 (S: kośopagata-vasti-guhya): tướng nam căn ẩn kín trong bụng, không lộ ra ngoài, giống như dương căn của ngựa, voi.
- Thân quảng trường đẳng tướng身廣長等相 (S: nyagrodha-parimaṇḍala): chỉ cho thân Phật cao rộng cân đối, thể hình đẹp một cách hoàn hảo, giống như cây Ni-câu-luật.
- Mao thượng hướng tướng 毛上向相 (S: ūrdhvaṃ-ga-roma): tất cả lông tóc của Phật từ đầu đến chân đều xoay về bên hữu và có màu xanh, mềm mại, bóng mướt.
- Nhất nhất mao tướng 一一毛相 (S: ekaika-roma-pradakṣiṇāvarta): mỗi lỗ chân lông có một cọng lông màu lưu ly xanh, mỗi lỗ chân lông đều tỏa ra mùi thơm vi diệu.
- Kim sắc tướng 金色相 (S: suvarṇa-varṇa): thân và tay chân Phật đều màu vàng ròng, như đài vàng vi diệu được trang nghiêm bằng các thứ báu.
- Thân quang diện các nhất trượng tướng 身光面各一丈相: ánh sáng xung quanh thân Phật nhậm vận chiếu khắp ba nghìn thế giới, bốn phía mỗi phía đều chiếu xa một trượng.
- Tế bạc bì tướng 細薄皮相 (S: sūkṣma-suvarṇa-cchavi): da dẻ mịn màng, trơn láng, tất cả bụi bặm không dính.
- Thất xứ long mãn tướng 七處隆滿相 (S: saptotsada): thịt ở bảy chỗ (lòng hai bàn tay, hai bàn chân, hai vai và cổ) của Phật đều đầy đặn, mềm mại.
- Lưỡng dịch hạ long mãn tướng 兩腋下隆滿相 (S: citāntarāṃsa): nghĩa là xương, thịt ở hai nách của Phật tròn đầy không bị khuyết lõm.
- Thượng thân như sư tử tướng 上身如獅子相 (S: siṃha-pūrvārdha kāya): nửa thân trên của Phật rộng lớn, oai nghi đi đứng nằm ngồi trang nghiêm giống như sư tử chúa.
- Đại trực thân tướng 大直身相 (S: ṛjugātratā): trong tất cả mọi người, thân Phật cao lớn, ngay thẳng nhất.
- Kiên viên hảo tướng 肩圓好相 (S: su-saṃvṛta-skandha): nghĩa là tướng thù thắng vi diệu hai vai tròn đầy.
- Khẩu tứ thập xỉ tướng 口四十齒相 (S: catvāriṃśad-danta): Phật có bốn mươi cái răng, mỗi mỗi đều bằng nhau, đầy đặn và trắng như tuyết.
- Xỉ mật tề bình tướng 齒密齊平相 (S: sama-danta): các răng của Phật đều đặn không lớn không nhỏ, khít nhau không hở một mảy may.
- Nha bạch tướng 牙白相 (S: suśukla-danta): Ngoài bốn mươi cái răng, hàm trên và dưới mỗi hàm đều có hai cái răng nanh màu sắc trắng trong, sáng sạch, bén nhọn như gươm, cứng chắc như kim cương.
- Giáp xa như sư tử tướng 頰車如獅子相 (S: siṃha-hanu): hai má của Phật đầy đặn như má sư tử.
- Tri vị vị tướng 知味味相 (S: rasa-rasāgratā): trong miệng Phật thường có mùi vị tối thượng trong các mùi vị.
- Đại thiệt tướng 大舌相 (S: prabhūta-tanu-jihva): đầu lưỡi lớn rộng, mềm mỏng, le ra thì phủ đến mí tóc.
- Phạm thanh tướng 梵聲相 (S: brahma-svara): phạm âm thanh tịnh của Phật có hồng thanh viên mãn như tiếng trống trời và như tiếng chim ca-lăng-tần-già.
- Mục cám thanh sắc tướng 目紺青色相 (S: abhinīla-netra): mắt Phật xanh biếc như hoa sen xanh.
- Ngưu nhãn tiệp tướng牛眼睫相 (S: go-pakṣmā): tướng lông mi thẳng bằng không rối loạn.
- Đảnh thượng nhục kế tướng 頂上肉髻相 (S: uṣṇīṣa-śiraskatā): tướng trên đảnh đầu Phật có bướu thịt nổi lên như hình búi tóc.
- Mi gian hào tướng 眉間毫相 (S: ūrṇā-keśa): giữa hai đầu chân mày của Phật có sợi lông trắng, mềm mại như đâu-la-miên, dài một trượng năm thước, cuộn tròn lại theo chiều bên hữu.
[4] Tám mươi vẻ đẹp (bát thập chủng hảo 八十種好; S: aśīty-anuvyañjanāni): hình tướng dung mạo của Phật có tám mươi thứ vi tế ẩn kín khó thấy. Tám mươi vẻ đẹp có nhiều thuyết mô tả khác nhau. Theo kinh Đại Bát-Nhã thì tám mươi vẻ đẹp là: 1. Móng tay thon dài, mỏng bóng; 2. Ngón tay, chân tròn thon dài; 3. Chân tay cân xứng giữa các ngón khi khép lại thì đầy kín; 4. Tay chân sáng bóng, tươi dài; 5. Gân cốt ẩn không hiện; 6. Hai mắt cá ở chân đều ẩn; 7. Bước đi thẳng tới trước oai nghi, khoan thai như voi, rồng chúa; 8. Bước đi oai nghi tề chỉnh như sư tử chúa; 9. Bước đi vững vàng như trâu chúa; 10. Cách tiến, dừng uyển chuyển thanh nhã như ngỗng chúa; 11. Quay nhìn đều quay bên phải như voi chúa nhấc mình di chuyển; 12. Các khớp tay và chân đều đặn tròn đầy; 13. Đốt xương liền lạc như rồng cuộn; 14. Đầu gối tròn đầy; 15. Chỗ kín có vân xinh đẹp, thanh lịch; 16. Tay chân trơn mềm sạch sẽ; 17. Dung mạo đôn hậu nghiêm túc và hiện tướng vô úy; 18. Tay chân tráng kiện; 19. Thân thể an khang viên mãn; 20. Thân tướng giống như vua tiên, toàn thân đoan nghiêm sáng sạch; 21. Có hào quang tròn bao quanh thân, thường tự chiếu sáng; 22. Bụng vuông vắn, trang nghiêm; 23. Rốn sâu xoay bên phải; 24. Cuốn rốn đầy, không lõm, không lồi; 25. Da dẻ không ghẻ lác; 26. Bàn tay mềm mại, dưới bàn chân bằng phẳng; 27. Chỉ tay sâu, dài, rõ ràng; 28. Môi đỏ thắm, bóng mềm; 29. Mặt không dài, không ngắn, không lớn, không nhỏ, đoan nghiêm vừa vặn; 30. Tướng lưỡi mỏng mềm, rộng dài; 31. Âm thanh oai hùng, xa vang trong suốt; 32. Âm vận hay đẹp như tiếng vang từ hang sâu; 33. Sống mũi cao và thẳng, lỗ mũi kín; 34. Răng đều đặn trắng bóng; 35. Răng tròn, trắng, bóng, bén; 36. Mắt tròng đen, trắng phân minh; 37. Tướng mắt dài rộng; 38. Lông mi đều đặn dày dài; 39. Đôi mày dài nhuyễn mịn; 40. Hai mi xanh biếc như màu lưu li; 41. Lông mày cách xa mắt và cong như trăng lưỡi liềm; 42. Vành tai rộng lớn, trái tai đầy thòng xuống; 43. Hai vành tai bằng nhau không có khuyết tật; 44. Vóc dáng khiến người thấy sinh lòng ái kính; 45. Trán rộng bằng phẳng; 46. Thân oai nghiêm đầy đủ; 47. Tóc dài xanh biếc, dày mà không bạc; 48. Tóc mịn màng tỏa mùi hương thanh khiết; 49. Tóc suông không rối; 50. Tóc không đứt rụng; 51. Tóc trơn bóng, bụi bặm không dính; 52. Thân thể vững chắc đầy đặn; 53. Thân thể cao lớn đoan chính; 54. Các khiếu trong sạch tròn đẹp; 55. Sức mạnh hơn người; 56. Thân tướng được mọi người thích nhìn; 57. Mặt như trăng tròn mùa Thu; 58. Vẻ mặt thư thái; 59. Da mặt trơn bóng không có vết nhăn; 60. Làn da sạch sẽ không có cáu ghét không mùi hôi; 61. Các lỗ chân lông luôn toát hương thơm; 62. Miệng luôn tỏa hương thơm thanh khiết; 63. Thân tướng đầy đặn xinh đẹp; 64. Lông trên mình xanh biếc sạch sẽ; 65. Pháp âm tùy chúng ứng hiện không sai; 66. Tướng đỉnh đầu không ai thấy được; 67. Ngón tay, ngón chân đường khu ốc phân minh; 68. Lúc đi chân cách mặt đất; 69. Tự giữ gìn không nhờ người khác hộ vệ; 70. Oai đức bao trùm tất cả; 71. Âm thanh Phật nói vừa với sự tiếp nhận của mỗi chúng sinh; 72. Tùy theo sự yêu thích của chúng hữu tình mà thuyết pháp; 73. Chỉ một âm diễn thuyết chính đạo mà loài hữu tình tùy mỗi loại đều nhận biết được; 74. Thuyết pháp theo thứ lớp tùy nhân duyên; 75. Lời của Phật thường khen thiện chê ác mà tâm không yêu ghét; 76. Bất cứ việc gì trước quan sát sau mới làm; 77. Tướng tốt loài hữu tình không thể thấy hết; 78. Xương đảnh cứng chắc, tròn đầy; 79. Dung nhan trẻ hoài không già; 80. Chân tay và trước lồng ngực đều có đức tướng cát tường.
You must be logged in to post a comment.