English | Vietnamese

Pháp Dung Thông

Bài nói chuyện của ông Alan Nicholson vào ngày 6 tháng 6 năm 2018 tại Phật điện của chùa Vạn Phật Thánh Thành

 

Phần thâu âm bài nói chuyện bằng tiếng Anh

 

Kính thưa chư Phật và Bồ tát, kính thưa quý Thầy Cô, các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, quý nam nữ Phật tử,

Tôi là Alan Nicholson. Hôm nay tôi rất vinh dự có mặt ở đây. Trước khi bắt đầu, tôi xin thưa câu chuyện mà tôi kể sau đây không phải nói về tôi, Alan, mà về những công đức to lớn của Hòa Thượng Tuyên Hoá, về những chúng sanh ở thế giới này, và về Chư Phật Bồ Tát đến đây chỉ dạy chúng ta nếu chúng ta mở lòng đón nhận.

Nhiều tháng trước khi gặp Hòa Thượng Tuyên Hoá, tôi thường nằm mơ thấy một tăng sĩ Phật Giáo xuất hiện đi đứng trong giấc mơ của mình. Vị sư đó đã hiện ra trên tầng tiềm thức của giấc mơ và tôi không thể hiểu điều đó có ý nghĩa gì. Lần đầu tiên tôi gặp Hòa Thượng là vào dịp Lễ Phật Đản năm 1970. Ngài thuê một ngôi chùa ở khu phố San Francisco để tổ chức lễ. Vào buổi tối thì năm vị người Mỹ xuất gia đầu tiên với Hòa Thượng đã thuyết pháp, thực sự lúc đó tôi không gặp được Hòa Thượng mà chỉ nhìn thấy Ngài thôi. Đây là một phương pháp giáo huấn rất hay của Ngài. Thời đó Ngài thường xuyên cho các đệ tử cùa mình thuyết pháp trước và sau đó Ngài mới nói, tóm tắt lại bài giảng, giúp mọi người hiểu rõ và ban Pháp bảo cho mọi người sau khi moi người nói xong. Tuy nhiên, tối hôm đó thì Hòa Thượng không có thuyết pháp. Ngày Phật Đản hôm đó là như thế.

Ngày hôm sau tôi đến giảng đường tại khu phố Tàu (Chinatown) ở San Francisco. Sư Phụ sắp giảng bài học tiếng Trung Hoa vào buổi chiều và một vị thầy gặp tôi ở cửa chính đã mời tôi vào bên trong nghe Sư Phụ giảng bài học tiếng Trung Hoa. Tôi bước vào, ngồi xuống và chờ đợi. Hình như tôi đã đến sớm 15 phút hoặc hơn. Và chẳng bao lâu sau, tôi cảm thấy căn phòng tràn ngập ánh sáng hào quang – hào quang giống như màu vàng kim xanh lá cây dày đặc. Tôi không thể giải thích được nhưng nó rất dày đặc và gần giống như nước. Ánh sáng hào quang đó rất nhiều, và rồi một quả cầu ánh sáng chói loá vĩ đại xuất hiện. Hòa Thượng Tuyên Hoá đã bước ra từ trong biển ánh sáng đó. Ngài nở một nụ cười thật tươi, tôi không nhớ rõ có ai khác trong gian phòng lúc đó hay không nhưng Hòa Thượng bước đến chỗ tôi ngồi.

Ngài nói: “À, là Ông đó à, ông có khoẻ không”.

Tôi không biết phải đáp lại làm sao, chỉ thưa: “Dạ con khỏe. Còn thầy thì sao?”

Hòa Thượng nói: “Tôi không biết, không có cách gì để biết tôi tốt hay xấu, mạnh hay yếu, đây là cảnh giới của tôi”. “Còn ông, ông đến đây để làm gì?”

“Dạ con đến để học Phật Pháp”.

Qua sự trao đổi đó tôi mới nhận thức tôi đã tìm được vị thầy của mình từ nhiều kiếp về trước, và đó là nhân duyên tôi tìm ra Sư Phụ. Đó là ngày thứ nhất và kể từ đó sự việc càng lúc càng thú vị hơn khi tôi sống tại chùa và được cần kệ bên Ngài.

Kể từ hôm đó tôi hằng ngày đều đến nghe Hòa Thượng thuyết pháp và khoảng một tuần sau thì tôi dọn vào ở trong Phật Giáo Giảng Đường. Hòa Thượng bắt đầu giảng kinh Pháp Hoa vào mùa hè năm ấy. Hầu hết các kinh đều nói về nhân duyên kinh được nói ra. Kinh thường nói về Chư Phật chư Bồ Tát đến nghe như thế nào, về những hoàn cảnh nhân duyên đưa đến Phật thuyết kinh. Trong kinh Pháp Hoa thì bắt đầu bằng những chi tiết khá dài về chư Phật chư Bồ Tát là ai, đến từ đâu, phương hướng nào, và tất cả những thính chúng cũng như sự trang nghiêm của Đức Phật khi Ngài giảng kinh. Đối với tôi, những điều đó là thật, là đang xảy ra. Tôi có thể thấy được cảm ứng từ lời giảng kinh của Hòa Thượng khi Kinh được mở bày ra. Đây là Sư Phụ đang thuyết pháp, nhưng tôi có thể thấy hàng triệu triệu Chư Phật và chư Bồ Tát đến với Pháp Hội này. Ngoài ra còn có các hàng Thiên Nhân hóa hiện, rồi các lưới báu và những tràng lọng trang nghiêm bàn nơi bàn thờ Phật, rồi hoa từ trên trời rơi xuống như mưa cùng các loại ngọc ngà châu báo không thể nghĩ bàn. Quả thật là vi diệu! Đó là bước khởi đầu làm quen của tôi với đạo Phật. Hòa Thượng Tuyên Hóa đã làm sống dậy Chánh Pháp, ngay tại đây, ngay tại bây giờ.

Một điều khác nữa đã xảy không lâu sau khi tôi dọn vào trong giảng đường, là điều tôi cũng từng nghe nhiều người khác nói, đó là có một cảm giác quen thuộc trong gia đình, như trở về lại nhà mình; và với riêng tôi, tôi hẳn đã cảm nhận được điều đó khi đang đứng trong đại chúng. Tôi không những có cái cảm giác ấm cúng và thoải mái như ở nhà mà tôi còn thấy các nhục thân của mọi người đều như tan biến, và pháp thân của họ hiện ra. Tôi có thể thấy pháp thân của các chúng sanh quyến thuộc của Hòa Thượng, của các chúng sanh đã theo Ngài tu học trong nhiều kiếp. Tôi không rõ mình đã ý thức được việc này từ khi nào, là việc có một đại gia đình Phật Pháp rất lớn ở nhiều cõi và tôi là một phần trong gia đình đó. Việc ấy khiến tôi rất yên tâm và không lâu sau đó tôi đã quy y với Hoà Thượng.

Và đó là mùa hè đầu tiên tôi sống cùng với Hòa Thượng Tuyên Hoá, với Phật pháp, với Tứ chúng. Một mặt thì cũng rất đặc biệt, kỳ lạ và khác thường, còn một mặt thì cũng rất bình thường, cũng giống như tất cả chúng ta đang ngồi ở đây. Khi sự việc rất là đặc biệt, vô cùng độc đáo thì nó cũng lại rất là bình thường, rất là phổ thông. Quý vị không nên chấp vào đó và cũng đường xem trọng nó quá. Tất cả chúng ta đều có cơ hội tu học với đức Phật, với tài sản Phật Giáo (Phật Pháp) và đây là điều vô cùng đặc biệt. Điều này rất khác thường. Không có nhiều người có cơ hôi tu học này, và cần thật có căn lành mới đến gần với Phật pháp. Chúng ta phải nắm lấy cơ hôi này và nghiên cứu càng nhiều càng tốt, phải nỗ lực hết sức thì chắc chắn gặt hái được kết quả để đưa chúng ta đi trên hành trình của mình. Thân xác của chúng ta đây không tồn tại đươc bao lâu, vì thế chúng ta không nên để trôi mất môt giây phút nào làm lãng phí cơ hôi quý giá như thế này.

À, tôi muốn nói đôi chút về Trại Phật Căn (Phật Căn Điền – Buddha Root Farm) (1). Không lâu sau khi dọn về chùa Kim Sơn Thánh Tự mới, bây giờ là ngôi chùa Kim Sơn Thánh Tự cũ, chúng ta đã mua môt mảnh đất ở tiểu bang Oregon gần thành phố Reedsport và Sư Phụ đã đặt tên là Trại Phật Căn – Buddha Root Farm. Dưới sự chỉ dẫn của Hòa Thượng, tôi đã tiến hành thiết kế một tu viện ở đó, được xem như là trung tâm giáo dục và chỗ tu hành cho Tổng hội Phật Giáo Pháp Giới (DRBA), mãi cho đến khi thầy Hằng Lai tìm ra được bệnh viện (tâm thần) cũ kỹ này, mà như quý vị đã biết bây gìờ đã trở thành Vạn Phật Thánh Thành.

Chúng tôi đã lên đó để tổ chức thất A Di Đà vào năm 1975. Đó là khóa đầu tiên và sau đó chúng ta vẫn có nhiều khóa tu tổ chức tại đó cho đến ngày nay. Đối với khoá tu đầu tiên thì nơi đó còn rất sơ sài. Lúc ấy nơi đó vẫn chưa được tu sửa, chỉ có một chiếc nhà kéo lưu động (trailer) rất cũ kỷ, nhưng có lẽ là nơi tốt nhất có thể tạm trú được. Mà quý vị biết không, mái lợp của nó thì bị dột, và còn có nhiều thế hệ nhện, chuột cùng các loài khác sinh sống ở trong đó.

Thất A Di Đà tại Trại Phật Căn (1975)

Ông Bill Breevort tại trại Phật Căn (1975)

Chủ nhân của khu đất đó là gia đình Breevort, họ đã tài trợ cho khoá tu và họ sống trên mảnh đất kế bên khu đất của chùa la khu dất họ đã cúng dường. Họ là lý do mà chúng ta đã mua thêm nhiều mảnh đất gần đó. Chúng tôi dọn dẹp làm sạch lại chiếc nhà kéo, hoặc là gia đình Breevort đã làm chuyện ấy, và Hoà Thượng ở trong chiếc nhà kéo đó còn mọi người thì ngủ trong các căn lều hay dưới các tấm vải nhựa che được dựng lên. Tôi lúc ấy có lái một chiếc xe lên nơi đó, và Sư Phụ bảo tôi nên ở chung với Ngài để tiện cho việc di chuyển và cũng để phụ giúp cho Ngài. Ban ngày thì chúng tôi tham dự thất niệm Phật, còn ban đêm tôi về ngủ trong chiếc nhà kéo với Sư Phụ. Có một vách ngăn nhỏ giữa nơi tôi ở và nơi ở của Hòa Thượng. Lúc đó tôi đã ngủ ngồi được một vài năm nhưng tôi vẫn còn đang gặp khó khăn trong việc ngủ ngồi giữ thẳng lưng. Tôi cứ hay nghiêng qua bên này rồi ngã qua bên kia còn chân tôi thì chĩa ra ngoài. Tôi dựa lưng ra sau và nhiều lúc sáng thức dậy tôi thấy mình nằm trên sàn nhà. Hòa Thượng thấy tôi đang cố gắng ngủ ngồi nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Đêm đầu tiên tôi ngồi dựa lưng vào trong góc để khỏi phải bị té nghiêng bên trái hay bên phải.Sư Phụ bảo tôi “Nếu con muốn làm người tu hành thì không được trụ vào đâu cả. Con không nên dựa vào bất kỳ cái gì, không dùng nếu ngồi thì phải ngồi như cái chuông, ngồi vững chắc trong thế ngồi của mình.” Tôi thầm nghĩ “Sư Phụ đã dạy như vậy thì mình tốt hơn là hãy nghe theo lời của Thầy mình là không dựa vào bất cứ cái gì cả.” Tối đó tôi ngủ ngồi mà không dựa vào chỗ nào hết và hôm đó thật sự là sự đột phá thành công đối với tôi. Tôi cảm thấy rất may mắn học được cách ngủ ngồi như thế và chắc chắn là tôi đã không thể làm được nếu không có Sư Phụ giám sát và điều chỉnh lại. Sau hôm đó sự ngồi thiền của tôi tiến bộ rất nhiều.

Phật Pháp thật không thể diễn bày, vô tận và bao trùm khắp vũ trụ. Đây là một đề tài mà tôi đã nghiên cứu sau đó và có lẽ tôi có thể giải thích thêm một chút về Pháp dung thông. Có môt lần nọ, Sư Phụ thông báo chúng ta sẽ có một buổi “Tụ Hội Vì Hoà Bình Thế Giới” ở thành phố Seattle (2) để vinh danh và mừng đón cuộc hành hương Tam Bộ Nhất bái của hai Thầy Hằng Cụ và Hằng Do (3). Vào thời đó chưa có máy tính điện toán như bây giờ nên chúng ta không thể biết được thời tiết ở thành phố Seattle hoặc tình trạng giao thông ở xa lộ. Có người nào đó cho biết là ở thành phố Seattle đang có mưa và có bão lớn. Vùng thành phố Seattle quanh năm thường có mưa nhiều và lúc đó có một cơn bão mùa đông lớn. Theo dự báo thi trời sẽ mưa lớn và mưa liên tục trong 3- 4 tuần sắp đến. Có ai đó đã đề cập đến chuyện này với Sư Phụ nhưng Sư Phụ bảo: “Ồ, Con đừng lo. Thầy sẽ lo (take care) chuyện đó cho!” Tất cả mọi người khác đều lái xe đi Seatlle còn tôi thì đi máy bay với Sư Phụ. Khi máy bay đến gần thành phố Seattle, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay thi thấy có một vòng tròn đường kính khoảng 10 dặm tuyệt đẹp bên trên thành phố Seattle, trong vòng tròn đó không có mây, giống như có ai đã dùng com pa khoanh vòng tròn đường kính 10 dặm mà trong phạm vi đó thì không có mưa gì cả. Chúng tôi đến phi trưòng thì trời dang mưa rất lớn và khi chúng tôi lái xe đến thành phố Seattle thì lại không mưa chút nào. Trời nắng ráo và trong trẻo. Cây cỏ ở khu vực chúng tôi tổ chức lễ thì lại khô ráo. Tôi không biết báo chí đã nói gì về điều này nhưng chúng tôi đã tổ chức được buổi lễ và cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Sau lễ này đã có nhiều người quyết định quy y hoặc xuất gia, vì vậy số chúng đệ tử của Hoà Thượng đã gia tăng lên rất nhiều. Sau ba ngày chúng tôi lên máy bay về lại và cái vòng tròn đó cũng biến mất. Khi chúng tôi rời đi, tôi không nghĩ có ai khác thấy được điều này; và nếu tôi không đi máy bay cùng Sư Phụ thì tôi chẳng thể nào nhìn thấy được vòng tròn đó bởi vì nếu chúng ta chỉ ở trong khu công viên ngay chỗ chúng ta làm lễ ở dưới đất, thì đối với những người ở dưới đất, trên bầu trời chỉ giống như có một đường nứt thôi, cac đám mây bị tách ra và bầu trời thật tuyệt vì không mưa; nhưng từ trên cao người ta có thể thấy một vòng tròn rõ rệt này.

Hai Thầy Hằng Cụ và Hằng Do trên hành trình Tam Bộ Nhất Bái từ thành phố San Francisco đến Seattle cầu nguyện Hòa Bình Thế Giới (10/1973 – 8/1974)

“Tụ Hội Vì Hoà Bình Thế Giới” – Seattle (1974)

 

Thật rất là kỳ lạ. Đi chung cùng với Sư Phụ lúc nào cũng là một dịp đặc biệt. Khi chúng tôi trở về và đáp xuống San Francisco, tôi mới ý thức được khi ngồi chung trên máy bay với Sư Phụ, chúng tôi phải giống như là đổi “thiết bị” để ra khỏi phi cơ. Đó là một loại không gian khác lạ, có rất nhiều chư Phật, chư Bồ Tát và Bồ Tát Quán Thế Âm cùng đi chung với Hòa Thượng. Chúng tôi phải trở về trái đất bằng nhiều cách. Đây là một số câu chuyện ngắn về việc có cơ hội đi chung và ở gần bên Hoà Thượng Tuyên Hóa.

Tôi muốn kể một chút về việc chuyển hoá vô minh thành trí huệ. Đức Phật trong Kinh Lăng Nghiêm có nói cho chúng ta nghe câu chuyện Ngài A-Nan bị mê lầm, quên mất giới luật, và Đức Phật đã dùng câu chuyện này như là phương tiện chỉ dạy cho A-Nan hiểu nguồn gốc của khổ đau và đâu mới là Tự Tánh chân thật và đâu là không phải. Ngài Long Thọ là người đã tìm ra được kinh Hoa Nghiêm và mang kinh này về từ cung điện của Long Vương. Trước khi khai mở đủ trí huệ để truyền bá Phật Pháp, Ngài cũng như tôn giả A-Nan gặp nhiều rắc rối khi truy đuổi dục lạc của thế gian. Ngài đã nhận ra rằng dục vọng là nguồn gốc của khổ đau. Sau đó Ngài đi lễ bái các bảo tháp của Đức Phật và xuất gia thành tỳ kheo. Bồ tát Long Thọ nghiên cứu toàn bộ Tam Tạng Kinh và được gọi là “Thiên Luận Sư” (vị Thầy Ngàn Bài Luận). Quyển “Trung Quán Luận” của Ngài có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của Tánh Không, thuyết Tánh Không – Sunyata – hay là tánh không của các giáo pháp. Bồ tát Long Thọ được xem là tổ sư sáng lập Trung Quán Tông (Madhyamika School). Chúng ta cũng vậy, cũng có thể thấy những khuyết điểm của mình và dùng giáo huấn của Hòa Thượng, của chư Phật và Bồ Tát để thấu hiểu bổn tánh của mình và để trở thành những người hộ pháp chân chánh.

Khi Hòa Thượng giảng kinh Hoa Nghiêm, Ngài có liên lạc thư từ với một nhà sư , nổi tiếng về nghiên cứu và hiểu bộ kinh này. Vừa rồi tôi có đi Đài Bắc và có đến viếng thăm chùa Hoa Nghiêm. Tôi được cho biết rằng ở đó người ta vẫn còn giữ nhiều bức thư của Hòa Thượng trao đổi với vị sư sáng lập chùa Hoa Nghiêm về bộ kinh Hoa Nghiêm. Tôi không biết đã có ai tìm được những lá thư Hòa Thượng gởi cho nhà sư ở Đài Bắc này không; nhưng sẽ rất thú vị nếu thấy được những bức thư này và xem những lá thư đó đã ảnh hưởng đến các chú giải của Hòa Thượng về kinh Hoa Nghiêm như thế nào.

Trên đây là một vài câu chuyện ngắn về việc cùng sống với Hòa Thượng. Và tôi xin cám ơn đã có dịp chia sẻ cùng quý vị một lần nữa. Mong rằng tôi đã nói ít về mình và đã nhấn mạnh nhiều hơn về những lời dạy của Hòa Thượng. Cám ơn quý vị rất nhiều, và tôi nghĩ rằng chúng ta có thể ngừng ở đây.

 

 

Ghi chú:

(1) Xem thêm về Trại Phật Căn http://www.dharmasite.net/BuddhaRootFarm/index_v.htm

(2) Worl Peace Gathering – Nguyên văn Hoa ngữ: 世界和平聚会 – Thế Giới Hòa Bình Tụ Hội. Xem thêm http://www.drbachinese.org/vbs/1_100/vbs52/news.html

(3) Xem thêm về Hành Trình Tam Bộ Nhất Bái này http://www.dharmasite.net/TamBoNhatBai.htm