Tôi Chỉ Có Thể Giúp Cho Những Ai Thật Sự Cần

Bài viết của Jerri-Jo Idarius, Báo Kim Cang Bồ Đề Hải, Tháng Giêng năm 2011, trang 39.

VBS_Jan_2011_a1_small

Linh Cảm Quán Thế Âm

Tuy không phải là đệ tử của Hòa Thượng nhưng trong thời gian khó khăn, tôi có đủ may mắn nhận được ân huệ và sự giúp đỡ của Ngài. Vào mùa thu năm 1979, tôi bắt đầu công việc dạy môn Thư pháp (calligraphy – nghệ thuật viết chữ) ở Vạn Phật Thành. Sau đó, tôi được phép thiết kế một phòng nghệ thuật tạo hình cùng với Linda Pecaites trong một tòa nhà kế bên xưởng gốm. Tôi nghĩ bây giờ nó được gọi là Diệu Ngữ Đường. Lúc đó tôi đã đi dạy học và tham gia những đề án xuất bản nguyệt san Kim Cang Bồ Đề Hải, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và nhiều kinh sách khác nữa. Mùa thu năm 1979 cho đến mùa hè năm 1981 là khoảng giời gian thật khó khăn đối với tôi bởi vì tôi vừa kết thúc cuộc hôn nhân mười năm và trở thành một người mẹ độc thân. Trong khoảng thời gian đó, con trai tôi Bodhi từ lúc 3 tuổi lên 5 tuổi cũng đã phải chịu nhiều khó khăn để thích nghi với hoàn cảnh mới.

Mặc dù tôi có cảm giác rằng tôi và Hoà Thượng đã có mối liên hệ trong những kiếp trước nhưng phải chờ đến khi Ngài đã thị hiện trong giấc mơ, không lâu sau khi tôi bắt đầu dạy môn Thư pháp cho các sư cô. Trong giấc mơ, Ngài bảo: “Hãy đến đây và đem theo bạn bè của con. Con sẽ mang đến một không khí gia đình”. Điều này dẫn đến sự ra đời của ngôi trường mẫu giáo mà Bodhi và các bạn nó ở Ukiah đã theo học và được hai sư cô dạy dỗ. Và trong những năm tiếp theo, tôi cũng đã đưa thêm nhiều bạn bè đến nghe các buổi thuyết giảng của Hòa Thượng. Tôi luôn cảm thấy được tiếp đón niềm nở và không thấy quy củ ở đây có gì bất tiện cả, miễn sao mình thể hiện được sự tôn trọng đúng mực đối với người khác.

Vào mùa đông năm 1980, người bạn thân nhất từ thời thơ ấu của tôi, cô Barbara Mayginnes, sinh hạ đứa con thứ hai. Cô ấy dọn nhà từ Portland, Oregon đến Ukiah vào những năm 70. Cô đã lập gia đình với một người bạn trong nhóm sinh hoạt tôn giáo của chúng tôi và đã trở thành đệ tử của vị tôn sư đó. Vào tháng 1 năm 1975, cô ấy hạ sanh được một con trai tên là Shamaz. Con trai tôi cũng được sinh đúng một năm rưỡi sau đó. Chúng nó cũng đã học hai năm ở trường Bồi Đức trong thời gian tôi làm việc ở Vạn Phật Thành.

Còn cậu con trai thứ hai của Barbara phải bị sinh mổ. Sau khi sanh, cô ấy rất yếu và không thể phục hồi lại sức khỏe bình thường như trước đây được. Chẳng bao lâu sau, cô phát hiện bác sĩ đã cắt phạm ống tiểu (ureter) (ống dẫn nước tiểu từ thận đến bàng quang) trong ca giải phẫu vừa rồi. Vì thế cô cần giải phẫu lần thứ hai. Trong thời gian hồi phục tại bệnh viện, nhiều biến chứng đã xảy ra, cơ thể của Barbara bắt đầu sinh ra nhiều cục máu đông khiến cho các bác sĩ quyết định phải dùng thuốc loãng máu Heparin. Điều này đã gây ra sự xuất huyết nội tạng và một lần nữa đe dọa đến tánh mạng Barbara. Trong thời điểm nguy cấp đó, các bác sĩ phân vân không biết nên chữa trị thế nào trong khi thời gian không còn nhiều nữa. Chúng tôi đang sắp mất Barbara rồi.

Vào sáng ngày 14 tháng 2, năm 1980, tôi gọi điện cho một sư cô ở Vạn Phật Thành và kể về tình trạng của Barbara, nhờ vị này báo lại cho Sư Phụ hay, lúc đó Ngài đang ở San Francisco. Một lúc sau, tôi lại gọi đến chùa Kim Sơn và nhờ một thầy tường trình rõ thêm chi tiết cho Hòa Thượng. Tôi nghe nói đây không phải lệ thường và có thể Hòa Thượng sẽ không hồi âm đâu. Tuy nhiên tôi cứ năn nỉ thầy báo lại dùm. Mười phút sau, chính thầy ấy gọi lại cho tôi và bảo rằng Hòa Thượng khuyên tôi nên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Và tôi đã làm theo như lời ngài dặn.

Để cứu lấy Barbara, các bác sĩ quyết định chỉ còn cách duy nhất là tiếnh hành giải phẫu lần thứ ba, và lần này họ sẽ kẹp chặt tĩnh mạch chủ (vena cava) để tránh tình trạng máu đông chạy vào tim. Tôi nhớ lại hình ảnh đám mây đen đã thấy trong bệnh viện và có cảm giác như bị cái chết bao quanh. Tôi chợt nhận ra là có thể sẽ không còn gặp lại bạn mình nữa. Bao nhiêu ký ức của thời thơ ấu bắt đầu hiện về trong tôi, và những kỷ niệm khi còn sống gần gũi bên nhau, rồi cứ nghĩ đến chuyện sẽ vĩnh viễn rời xa người bạn của mình là lòng tôi càng thêm đau nhói. Điều này rất có thể xảy ra. Phản ứng cảm xúc của tôi rất kịch liệt và tôi hầu như  hoảng hốt.

Trong khi ca giải phẫu thứ ba diễn ra, trên loa thông báo tôi ra nghe điện thoại tại phòng chờ. Ở đầu dây chính là Sư Phụ. Tôi luôn nhận ra những cuộc điện thoại của Ngài bởi sự im lặng bao la trước khi Ngài cất tiếng. Cứ như thể nhấc điện thoại lên và lắng nghe hư không vậy. Ngài bảo tôi cầu nguyện cho Barbara bằng cách nhất tâm chân thành niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” – không có bất kỳ niệm tưởng gì khác. Rồi Ngài khuyên tôi không nên lo lắng gì cả, hãy tin Đức Quán Thế Âm sẽ đến phù hộ cho bạn của tôi. Tôi và ba người bạn thân khác nữa cùng hộ niệm và không khí đã chuyển đổi ngay lập tức. Bóng tối bao trùm lấy bệnh viện tan biến khi một những làn sóng chữa lành cực mạnh tràn ngập bệnh viện. Cũng vậy, đây cũng là điều mà tôi thấy rõ và cảm nhận được. Lúc đó chúng tôi biết rằng giai đoạn nguy kịch đã qua, ca giải phẫu đã thành công. Khi được đưa ra khỏi phòng mổ, Barbara hơi tỉnh táo và có thể đưa tay vẫy nhẹ chào chúng tôi.

Ngày hôm sau Hòa Thượng gọi điện hỏi thăm tình trạng cô. Ngài khuyên cô cũng nên tự mình trì niệm để bình phục và có được lợi ích tốt nhất. Barbara vâng theo lời dạy. Về sau Hòa Thượng bảo tôi rằng khi trì niệm thì sự thành tâm là quan trọng nhất. Nếu mình chân thành, vị tha thì luôn sẽ được giúp. Một bài chú không có thái độ và tâm thành chân chánh thì cũng là vô nghĩa mà thôi.

Trong thời gian hồi phục, tuy bị đau nhưng Barbara tỏa ra một thứ ánh sáng đặc thù và sự an bình, một sự an bình mà tôi thường nhận thấy ở một số người đã từng trải qua đau khổ cùng cực hay cận kề cái chết. Lòng trắc ẩn và sự quan tâm của cô đối với  hạnh phúc của người khác khiến cho tôi rất cảm động. Có lần cô nói: “Tôi bị hành một trận nhưng kỳ thực, đó chính là phước của tôi. Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ nói được như vậy. Quá khứ đã qua rồi, không còn gì nữa. Quá khứ đã được hoàn toàn quét sạch.”

Sư Phụ hằng theo dõi tình hình Barbara trong nhiều tháng mà cô không hề hay biết. Mỗi khi gọi điện, Ngài đều hỏi thăm về sức khỏe của cô. Ngài thân mật bảo nếu ai cần giúp đỡ, tôi có thể nói với Ngài, miễn là có đủ khả năng, Ngài sẽ âm thầm giúp họ. Ngài cũng nói là chỉ có thể giúp được cho những ai thật sự cần. Barbara là một trong những người đó. Đây là lý do Ngài đã đáp lại lời khẩn cầu và gọi điện để chỉ dạy tôi sau khi tôi cầu cứu Ngài.

Lần cuối tôi được gặp riêng Hòa Thượng là năm 1992, sau thời gian Ngài ngã bệnh rất nặng vì đau thận. Lúc đó Ngài khuyên tôi hãy ghi lại câu chuyện về Barbara. Và chỉ sau khi Hòa Thượng viên tịch, tôi mới hiểu được tại sao. Bồ Tát Quán Thế Âm giúp tất cả những ai gặp nạn mà có tâm thật sự cầu giúp. Điều này mắt thường phàm phu khó nhận ra được. Có nhiều người dường như cần được giúp nhưng họ vẫn chưa sẵn sàng để đón nhận sự trợ giúp. Một số khác thì âm thầm chịu đựng, không than trách nhưng trong thâm tâm, họ đã sẵn sàng nhận sự giúp đỡ. Sư Phụ không những có thể thấu rõ lòng người mà còn rất từ bi. Số người được Ngài dành thời gian giúp đỡ nhiều đến mức ngay cả những người bên cạnh Ngài cũng không sao biết hết. Tấm lòng từ bi của Ngài đối với chúng sanh đã vượt xa giới hạn của tín đồ Phật giáo.

Là một người trong và cũng là ngoài cuộc, tôi hân hạnh được biết đến những công việc của Ngài ở một khía cạnh đặc biệt. Ngài từng giúp đỡ tôi cũng như con trai tôi và bạn bè tôi. Trong các giấc mơ, Ngài cảnh báo tôi về tương lai, và cho tôi thấy tầm cỡ của công việc của Ngài. Ngài không xem trọng danh tiếng, cũng chẳng lo sợ những đầu óc hạn hẹp của chúng ta không hiểu được Ngài. Không những thế, Ngài còn dùng những lời lẽ đơn giản để truyền dạy các chân lý cao siêu. Ngài biết lúc nào nên nặng tay và nghiêm khắc, còn khi nào phải dịu dàng và khoan dung. Các vị Đại sư khéo léo ứng dụng những phương tiện thiện xảo mà với cái nhìn hay các tiêu chuẩn của thế tục không thể hiểu thấu được. Vì vậy, nếu chúng ta không lắng nghe vào trong bằng cả tấm lòng, chúng ta sẽ vuột mất sự dạy dỗ lớn lao của các Ngài. Điều này cũng có nghĩa là khi chìm sâu trong mù quáng và chấp trước, chúng ta nên ghi nhớ, tin tưởng và tiếp nhận lời dạy của các Ngài.

Đối với tất cả tín đồ của những tôn giáo, tín ngưỡng khác, Sư Phụ đã thể hiện tinh thần cởi mở và thân thiện; hy vọng mỗi người chúng ta ở Vạn Phật Thành sẽ tiếp tục tinh thần đó. Quá trình chuyển đối cho chúng ta cơ hội thăng tiến tầm hiểu biết và năng lực mà trước nay chúng ta chưa hề mơ đến. Sự thử thách trước mắt chúng ta chính là trung thực với những thệ nguyện cùng lý tưởng của mình, đồng thời kính trọng mỗi một người mình gặp được trong cuộc hành trình. Áp dụng nguyên tắc trên sâu rộng hơn nữa, nếu chúng ta vượt qua các ranh giới ảo tưởng giữa ta với người dựng lên do tâm lý phân biệt, thì tổng hợp sức mạnh đó có khả năng chuyển hóa cả thế giới lẫn cộng đồng của chúng ta. Đây chính là cái sức mạnh của tương lai mà tôi cảm nhận được.

Lòng tôi tràn đầy cảm kích vì trong đời này, một lần nữa tôi gặp Sư Phụ, nhận được sự thương yêu và ơn huệ từ Ngài.

 

Ghi chú của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ:

 Câu chuyện của bà Jerri-Jo Idarius kể lại trên đây đã từng được Hòa Thượng đề cập trong bài khai thi Linh Cảm Quán Thế Âm http://www.dharmasite.net/khaithi4.htm#18 :

 

Linh Cảm Quán Thế Âm

Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi và linh cảm ra sao, thật là không thể nghĩ bàn. Nếu mọi người chúng ta thành tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì nhất định nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, căn lành sẽ tăng trưởng. Có rất nhiều sự tích nói về sự linh cảm của Ngài, nay tôi xin kể một chuyện xẩy ra tại đất Mỹ. Có một bà đến nhà thương để sanh con. Ðây là một trường hợp đẻ khó, nên bác sĩ phải giải phẫu để lấy đứa nhỏ ra, nhưng trong khi mổ người ta cắt phải ống dẫn nước tiểu của sản phụ mà không hay biết. Sau khi mổ và khâu lại, người sản phụ về nhà được mấy ngày mà không hề đi tiểu tiện, trong khi đó thân thể sưng lên. Thấy sự việc xảy ra bất thường, bà này bèn đến bác sĩ hỏi bệnh nhưng bác sĩ cũng không hiểu là bệnh gì. Sau thấy toàn thân phù thũng, bệnh nhân đành phải đi khám lại bệnh tình, lúc đó huyết áp đã xuống thấp tới 18 độ, độc tố tích lại cùng mình, không cách gì chữa trị, đành nằm chờ chết. Một số thân hữu của nạn nhân gọi điện thoại tới Vạn Phật Thành cầu cứu. Người ta báo cáo cho tôi hay, tôi bảo họ hãy thành tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Họ rất thành tâm niệm Ngài Quán Âm, và chỉ hai tiếng rưỡi đồng hồ sau, phù thũng tiêu dần, huyết áp tăng lên, đường nước tiểu thông trở lại, nạn nhân phục hồi sức khỏe rất nhanh chóng rồi xuất viện. Các sự tích về trường hợp từ cửa tử thần, hay từ bệnh nguy ngập mà hồi sanh, hay các chuyện tiêu tai giải nạn, ở tại thành Vạn Phật, kể ra không hết, nay tôi chỉ kể một câu chuyện đó mà thôi.