Chinese | English | Vietnamese

 

Hòa Thượng Tuyên Hoá lược giảng

  1. Lạm Bàn Đầu Kinh (chia làm 3 phần)

A1. Ngũ thời Bát giáo (chia làm 2 phần)

B1. Ngũ thời

B2. Bát giáo

A2. Thất chủng lập đề

A3. Ngũ trùng huyền nghĩa (chia làm 5 phần)  

          B1. Giải thích danh (chia làm 3 phần)

C1. Giải thích “Diệu pháp” (chia làm 4 phần)

D1. Giải thích “Tâm pháp diệu”

D2. Giải thích “Chúng sanh pháp diệu”

D3. Giải thích “Phật pháp diệu”

D4. Dùng “Lục tức Phật” giải thích “Diệu pháp”

C2. Giải thích “Liên hoa”

C3. Giải thích “Kinh”

B2. Hiển thể

B3. Minh tông

B4. Luận dụng

B5. Phán giáo tướng

A1. Ngũ thời Bát giáo

Khi giảng kinh, có người giải thích Ngũ thời Bát giáo theo quan điểm tông Thiên Thai, có người giải thích theo tông Hiền Thủ. Theo Trí Giả đại sư, người sáng lập ra tông Thiên Thai đem một đời giáo hóa của đức Như Lai chia làm “Ngũ thời Bát giáo”; dùng “Ngũ thời” để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời là thời Hoa Nghiêm, thời A Hàm, thời Phương Đẳng, thời Bát Nhã, thời Pháp Hoa và Niết Bàn. Trong Ngũ thời nầy lại phân ra Bát giáo là Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo thuộc về bốn giáo Hóa Pháp; còn Đốn giáo, Tiệm giáo, Bí Mật giáo và Bất Định giáo thuộc về bốn giáo Hóa Nghi; kết hợp cả hai lại, gọi là “Bát giáo”. Bát giáo nầy đã được Đức Phật tuyên thuyết trong năm thời kỳ khác nhau.

Trong năm thời kỳ nầy, còn có thí dụ “Ngũ thời, Ngũ vị” để phân biệt nói rõ pháp dùng để giáo hóa và căn cơ được giáo hóa. Mặt trời mọc ban đầu chiếu trên núi cao, kế chiếu đến vực thẳm hang sâu, cuối cùng chiếu khắp đồng bằng. Ánh sáng chiếu trên đồng bằng lại chia làm 3 thời kỳ “Thực thời, Ngu trung thời và Chánh trung thời”, đây gọi là “Ngũ thời”. Ngũ thời chính là lúc mặt trời mọc, mặt trời chiếu sáng, mặt trời đứng bóng, mặt trời xế bóng và lúc hoàng hôn. Ngũ vị chính là ngưu nhũ (sữa bò),  lạc (sữa đặc), sanh tô (bơ), thục tô (phô mai) và đề hồ  (sữa tinh chất). “Ngũ thời, Ngũ vị” nầy dùng ví dụ cho giáo pháp trong năm thời kỳ được nói theo một trình tự; căn cơ được giáo hóa cũng  tuần tự chín muồi. Cho nên khi chúng ta giảng về “Ngũ thời Bát giáo”, cũng phải biết đến Ngũ thời, Ngũ vị nầy.


B1. Ngũ thời

  1. Thời Hoa Nghiêm

Sau khi thành đạo, bộ kinh Phật thuyết đầu tiên là “Kinh Hoa Nghiêm”. Bộ “Kinh Hoa Nghiêm” nầy có 3 quyển Thượng, Trung và Hạ. Trên nhân gian chúng ta chỉ có quyển Hạ; quyển Thượng và Trung đều được lưu giữ dưới Long cung. Bồ tát Long Thọ sau khi học hết những văn tự ở nhân gian, ngài liền đi đến Long cung đọc tụng tạng Kinh; quyển Hạ nầy do Bồ tát học thuộc dưới Long cung mà viết ra. Bồ tát Long Thọ có biệt tài xem qua liền thuộc, cho nên ngài đến Long cung xem qua một lượt bộ “Kinh Hoa Nghiêm” và truyền quyển Hạ nầy lên nhân gian.

Phật nói “Kinh Hoa Nghiêm” trong vòng 21 ngày, trong suốt thời gian thuyết “Kinh Hoa Nghiêm”, chỉ có hàng Bồ tát là thấy được , nghe được; hàng Thanh văn tiểu thừa như La Hán và Tỳ kheo đều không thấy được, không nghe được. Nên nói “Có mắt mà không thấy Lô Xá Na”, tuy có mắt nhưng không nhìn thấy được thân Lô Xá Na ngàn trượng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Hiện ra pháp thân Lô Xá Na cao ngàn trượng như thế, chúng ta cho là rất lớn, kỳ thật không lớn lắm. Vì sao vậy? Nếu đem so với thân Phật A Di Đà thì thân kia còn kém rất xa! Nên nói:

“Lông trắng uyển chuyển năm Tu di, 

Mắt biếc trong ngần bốn biển lớn”.

Tướng lông trắng của Phật A Di Đà—tướng lông trắng ở chặng giữa chân mày uyển chuyển , to lớn như năm ngọn núi Tu di. Cặp mắt biếc của Phật A Di Đà rộng như bốn biển, thật là cặp mắt vĩ đại! Chỉ một đại dương, chúng ta còn không biết mênh mông dường nào, huống đây lại là bốn biển. Câu kệ tụng nầy do ai viết ra? Đây là do những vị Tổ sư khai ngộ thời xưa nhìn thấy được tướng hảo trang nghiêm của Phật A Di Đà, nên diễn tả lại như thế trong kệ tụng.

Nếu so sánh với tướng lông trắng và cặp mắt biếc của Phật A Di Đà thì thân kia đã nhỏ lại càng nhỏ! Thân Lô Xá Na ngàn trượng nầy không hề lớn chút nào, mà hàng Nhị thừa lại không nhìn thấy. Có mắt thì có mắt nhưng không nhìn thấy thân Phật Lô Xá Na. Lại “Có tai mà không nghe được Pháp viên đốn”. Hàng nhị thừa Thanh văn, Duyên giác cũng có tai, nhưng không nghe được Phật nói đại pháp Hoa Nghiêm. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói “Kinh Hoa Nghiêm” trong thời kỳ nầy chỉ để giáo hóa các Bồ tát và Bồ tát lớn trong 10 phương. Cho nên thời Hoa Nghiêm thuộc Viên giáo, kiêm Biệt giáo trong bốn giáo Hóa Pháp và “Kinh Hoa Nghiêm”  thuộc Đốn giáo, kiêm Tiệm giáo trong bốn giáo Hóa Nghi.

Trong ngũ vị, thời Hoa Nghiêm được sánh với vị nào? “Tùng ngưu xuất nhũ”, giống như sữa tiết ra từ thân bò. Vì là sữa vừa được lấy từ thân bò ra, năng lượng của nó rất lớn, chất bổ dưỡng rất cao, nên được dùng để sánh với thời Hoa Nghiêm.

Nói về Ngũ thời, Ngũ chiếu thì thời Hoa Nghiêm được xem “Như nhật sơ xuất, tiên chiếu cao sơn”, giống như khi mặt trời vừa mới mọc, đầu tiên chiếu trên núi cao, vì núi cao nên được mặt trời chiếu đến trước nhất. Ở đây ví pháp Phật nói giống như mặt trời, ban đầu nói cho các Bồ tát. Bồ tát được ví như hết thảy mọi núi cao, vì Bồ tát là bậc tối cao trong tất cả chúng sanh, nên pháp được nói trong thời kỳ đầu nầy là Hoa Nghiêm. “Hoa Nghiêm” trong thời thứ nhất nầy chính là “Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm”.

  1. Thời A Hàm

Thứ hai là “Thời A Hàm”. A Hàm là tiếng Phạn, dịch nghĩa “Vô tỉ pháp”, không có pháp nào lại có thể bì với pháp nầy. Tức là tất cả pháp của ngoại đạo đều không thể sánh với “A Hàm”, “A Hàm” cao hơn hết thảy pháp của ngoại đạo. Những điều Phật tuyên nói trong thời A Hàm đều có liên quan đến giáo lý trong tam tạng “Kinh, Luật, Luận”, nói pháp sanh diệt: “Nhân duyên, Tứ đế”, cho nên thời A Hàm thuộc về “Tam tạng giáo”, còn gọi là “Tạng giáo”.

Nói về ngũ vị, thời A Hàm giống như “Tùng nhũ xuất lạc”, từ sữa bò mà làm ra lạc. “Lạc” ở đây chính là thứ được làm từ sữa bò, cho trẻ nhỏ dùng rất thích hợp.

Bàn về ngũ thời thì thời A Hàm là “Nhật xuất tiên chiếu cao sơn, thứ chiếu u cốc”, giống như mặt trời mọc lên cao mười mấy trượng, chiếu khắp đến những nơi tối tăm nhất trong hang núi. Ý nói tất cả những người tu theo tiểu thừa đều có thể hiểu được Phật pháp; những người ngu si nhất cũng đều có thể sáng tỏ được Phật pháp.

 

  1. Thời Phương Đẳng

Thứ ba là “Thời Phương Đẳng”. “Phương” là bốn phương, “đẳng” là bình đẳng. những kinh điển được nói trong thời Phương Đẳng đều thuộc về bộ Phương Đẳng. Trong Hóa Pháp, thời Phương Đẳng thuộc về Thông giáo. Vì sao gọi là Thông giáo? Vì nó “Thông tiền thông hậu, thông đại thông tiểu”, đã thông Tạng giáo của tiểu thừa ở trước, lại thông Biệt giáo của đại thừa ở sau; cũng chính là thông “A Hàm” ở trước, lại thông cả “Bát Nhã” ở sau. Thông giáo là cửa đầu tiên đến với đại thừa; “Phương Đẳng” nầy thuộc về Thông giáo, thông cả tam thừa cùng học.

Sánh về ngũ vị, thời Phương Đẳng tương đương với sanh tô được làm từ lạc; loại sanh tô nầy trẻ nhỏ và người lớn đều có thể dùng được, không hề có tác hại gì.

Trong ngũ thời, Phương Đẳng được sánh với “Thực thời”, là lúc mặt trời mọc trong khoảng từ 9 đến 10 giờ sáng; chiếu sáng núi cao, chiếu xuống cả đồng bằng. Đây ví cho không những người tu theo tiểu thừa có thể học, mà người tu theo đại thừa cũng có thể học; người tu theo hai truyền thống đều có thể nghiên cứu loại kinh điển nầy.

 

  1. Thời Bát Nhã

Thời thứ tư là “Bát Nhã”. Bát Nhã thuộc về giáo nào trong Bát giáo? Trong Hóa Pháp, Bát Nhã thuộc về Biệt giáo. Biệt giáo là cửa đầu tiên đến với đại thừa. Vì sao gọi là “Biệt giáo”? Vì Bát Nhã “Biệt tiền biệt hậu”, sai biệt với “A Hàm” và “Phương Đẳng” ở trước, lại khác luôn “Pháp Hoa” và “Niết Bàn” ở sau. Bát Nhã lại “Biệt tiểu biệt đại”, sai biệt với “Tạng giáo” và “Thông giáo” ở trước và “Viên giáo” ở sau, nên gọi là “Biệt”. Biệt giáo là điểm kết của đại thừa, cũng chính là lúc phải “Chuyển giáo phú tài”. “Chuyển giáo” là chuyển đổi quyền giáo của tam thừa; “phú tài”  là chuẩn bị nói Pháp Hoa là một Phật thừa viên mãn.

“Thời Bát Nhã” Biệt giáo nầy tương đương với thục tô làm từ sanh tô trong ngũ vị; loại thục tô nầy cho người lớn dùng rất thích hợp, nên Biệt giáo thuộc về cửa đầu tiên của đại thừa. Đây dụ cho chỉ có Bồ tát quyền giáo đầy đủ căn tánh đại thừa mới có thể học loại pháp môn Bát Nhã đốn giáo nầy. Bát Nhã lại được sánh với “Ngu trung thời”, giống như mặt trời mọc khoảng từ 10 đến 11 giờ trưa; mặt trời chiếu sáng khắp quả đất, nhưng vẫn chưa đến chánh ngọ (12 giờ trưa).

Cứu cánh vì sao gọi là Bát Nhã? Bát Nhã là tiếng Phạn, vì có 3 ý nghĩa, mà nhiều nghĩa thì không dịch; lại tôn trọng cũng không dịch, vì Bát nhã là tôn quý nên không dịch (mà giữ nguyên âm tiếng Phạn).

Bát Nhã đầy đủ 3 nghĩa: Văn tự Bát Nhã, Quán chiếu Bát Nhã, Thật tướng Bát Nhã.

(1)    Văn tự Bát Nhã

Tất cả—Kinh, Luật, Luận đều thuộc về Văn tự Bát Nhã. Đây là văn tự xuất thế gian, chẳng phải văn tự thế gian; văn tự thế gian không diễn đạt được Bát Nhã, chỉ nói được trí tuệ thế gian, một loại thế trí biện thông.

(2)   Quán chiếu Bát Nhã

“Quán” là quán tưởng, “Chiếu” là chiếu sáng. Quán tưởng, đồng thời dùng trí tuệ quán chiếu tất cả pháp, như “Tâm Kinh” nói: “Bồ tát Quán Tự Tại, khi thực hành thâm sâu Bát nhã ba la mật đa, chiếu thấy năm uẩn đều không”, chính là chữ “Chiếu” nầy—quán chiếu; dùng trí tuệ để quán chiếu lý thật tướng. Quý vị hãy dùng trí tuệ của mình để quán chiếu loại Bát Nhã nầy

(3)    Thật tướng Bát Nhã

Thật tướng là gì? “Cái gọi thật tướng, chính là vô tướng vậy”, xưa nay vốn không có tướng, nhưng lại đầy đủ tất cả tướng, hàm nhiếp tất cả tướng; tất cả tướng đều lưu xuất từ vô tướng nầy, đó chính là “Thật tướng” Bát Nhã. Dùng Văn tự Bát Nhã làm cơ sở cho Quán chiếu Bát Nhã; dựa vào Quán chiếu Bát Nhã để đạt đến Thật tướng Bát Nhã, vốn có sẳn trong tự tánh của  mọi người, Đây gọi là “Bát Nhã”.

 

  1. Thời Pháp Hoa và Niết Bàn

Thứ năm là “Thời Pháp Hoa và Niết Bàn”, chính là bộ “Kinh Pháp Hoa” hiện chúng ta đang giảng giải. Phật nói bộ “Kinh Pháp Hoa” nầy trong suốt 8 năm, nói “Niết Bàn” trong vòng một ngày một đêm, nên nói “Pháp Hoa, Niết Bàn chung tám năm”. Quý vị không được xem nhẹ bộ “Kinh Pháp Hoa” nầy, vì đây là bộ kinh Phật nói lên lý rốt ráo, là loại pháp môn cứu cánh nhất.

Phật trước nói Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã đều vì lót sẵn đường để nói “Kinh Pháp Hoa”, nên bộ kinh nầy được gọi là “Khai quyền hiển thật” (mở ra phương tiện để hiển bày lý chân thật). Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng và Bát Nhã ở trước đều được gọi là “ “ Vị thật thí quyền” (vì hiển bày lý chân thật nên thực hiện phương tiện quyền xảo); tại sao Phật nói những pháp kia trước? Do vì “Kinh Pháp Hoa.” Cho nên đến thời hội Pháp Hoa được gọi là “Khai quyền hiển thật” “phế quyền lập thật” (mở ra phương tiện để hiển bày lý chân thật; sau bỏ phương tiện,  lập ra lý chân thật), không dùng đến pháp môn phương tiện quyền xảo trước kia, chỉ giữ lại “Kinh Pháp Hoa” nầy.

“Kinh Pháp Hoa” là chân tâm, chân thân, Pháp thân, và đồng thời cũng là Ứng thân, Báo thân của Phật; cho nên người nghiên cứu Phật pháp, nếu như không thông hiểu “Kinh Pháp Hoa” thì vẫn xem như chưa nếm được mùi vị của Phật pháp, diệu nghĩa chân thật của Phật pháp ngay bên trong “Kinh Pháp Hoa”, do vậy pháp nầy mới được gọi là “Diệu pháp”, bộ kinh nầy  ví như “Liên hoa” (hoa sen).

Hoa sen là vua trong các loài hoa, là một loại hoa tôn quý, nổi tiếng nhất trong các loài hoa. Hoa sen mọc lên từ đất bùn mà không nhiễm bùn nhơ, tuy bám rễ từ bùn nhưng  vươn lên khỏi mặt nước; nên nói “Tại trần xuất trần”, tuy ở trong trần nhưng vượt ra khỏi trần. Hoa sen là một loại diệu hoa, “Diệu liên hoa” nầy là một loại hoa tôn quý, nổi tiếng nhất trong các loài hoa; bộ kinh nầy cũng là một bộ kinh rốt ráo nhất trong các bộ kinh. Trong Phật giáo có 2 câu ngạn ngữ như thế nầy:

Khai tuệ đích Lăng Nghiêm,

Thành Phật đích Pháp Hoa”.

Bộ kinh để khai mở trí tuệ chính là “Kinh Lăng Nghiêm”; muốn thành Phật, nhất định phải học “Kinh Pháp Hoa”, cho nên hai bộ kinh “Pháp Hoa” và “Lăng Nghiêm” chiếm một vị trí quan trọng nhất trong Phật giáo. Đặc biệt là bộ “Kinh Pháp Hoa” nầy, tất cả kinh điển đều vì “Kinh Pháp Hoa” mà diễn nói, nên nói “Kinh Pháp Hoa” là vua trong các kinh. Có thể nói hiện giờ chúng ta đang nghiên cứu Kinh Pháp Hoa là một cơ duyên không thể nghĩ bàn, đó chính là điều vi diệu nhất vậy.

Thời Pháp Hoa là “Nhật chánh trung thiên, biến chiếu đại địa”. Mặt trời đúng ngọ, bất luận là núi cao, hang sâu, đồng bằng, nơi nào cũng chiếu đến, thậm chí đến bóng người còn không có; dùng để ví dụ cho sau khi giáo hóa người theo tiểu thừa, nhị thừa và đại thừa, đều có thể quy nhiếp về Bồ tát căn cơ đại thừa, cho nên không cần nghe giảng qua bộ “Kinh Pháp Hoa” nầy, chỉ cần nghe đến tên kinh thôi là đã gieo trồng các thiện căn rồi! Tên “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” đâu dể dàng được nghe thấy, nên được gọi là pháp môn “Khai quyền hiển thật”.

Phật vì “Một đại sự nhân duyên” xuất hiện ra nơi đời, đại sự nhân duyên ấy là gì? Là vì muốn nói “Kinh Pháp Hoa”. Hiện tại chúng ta có thể nghe được bộ “Kinh Pháp Hoa” nầy, tương lai có thể hiểu được diệu nghĩa của “Kinh Pháp Hoa”, quả là trong vô lượng kiếp trước đã trồng nhiều căn lành, mới có thể gặp được loại kinh điển vi diệu không thể nghĩ bàn nầy, gặp được pháp hội kỳ diệu nhất nầy. Một đời đức Phật đều vì nói “Kinh Pháp Hoa”, hiện tại chúng ta có dịpđược nghe Phật nói “Kinh Pháp Hoa”, mỗi người nên sanh tâm hoan hỷ lớn, nghĩ tưởng đây là thiện duyên hy hữu khó gặp.

Quý vị nghĩ xem, nước Mỹ đã thành lập lâu như thế, có người nào đã chính thức nghe qua bộ “Kinh Pháp Hoa” nầy chưa? Nghe qua “Kinh Lăng Nghiêm” chưa? Chưa có. Chỉ có xem qua bản dịch, cũng như con kiến gặm quả dưa hấu vậy, gặm tới gặm lui ngoài vỏ, không thể nào biết được mùi vị trái dưa hấu ra sao; mình xem kinh điển cũng như con kiến gặm quả dưa vậy. Ruột dưa hấu ngọt, nhưng nó không nếm được, chỉ vòng đi vòng lại bên ngoài, lòng vòng quanh quả dưa, dù có bò bao lâu cũng không có cách nào biết được mùi vị bên trong. Thế thì bây giờ chúng ta chỉ cần bổ quả dưa hấu ra, liền có thể nếm được mùi vị bên trong.

Trong năm vị, kinh Pháp Hoa là vị đề hồ, đề hồ có hương vị tuyệt diệu không gì sánh bằng. Lấy đề hồ làm giáo tướng, dụ cho vị của “Kinh Pháp Hoa”. Nghe nói vị đề hồ là tối diệu, hy hữu nhất thế gian, “Kinh Pháp Hoa” cũng giống như món đề hồ ngon nhất nầy, không có món nào có thể ngon hơn! Bây giờ chúng ta  mở “Kinh Pháp Hoa” ra, cũng như đang đợi mỗi người tự nhâm nhi để thưởng thức mùi vị ấy!

“Kinh Pháp Hoa” được gọi là ‘Diệu pháp”, mục đích một đời đức Phật chính là nói bộ kinh nầy. “Kinh Pháp Hoa” là “Thuần viên độc diệu”. Thuần viên chính là Viên giáo thuần túy. “Kinh Pháp Hoa” không có pha tạp Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo,  chỉ đơn  thuần là Viên giáo, cho nên trong Phật giáo, Kinh Pháp Hoa là một bộ kinh quan trọng nhất. Người học Phật pháp, nếu chưa từng đọc tụng qua “Kinh Pháp Hoa”, chưa từng nghe qua “Kinh Pháp Hoa” thì trên căn bản chưa thể nói là thông hiểu Phật pháp. Vì sao vậy? Vì mục đích tối hậu của đức Phật chính là “Kinh Pháp Hoa”, đây chính là điều quan trọng nhất. Quý vị là đệ tử nhà Phật mà không biết đến bộ kinh nầy, há chẳng phải là chưa rõ Phật pháp hay sao? Vì sao chưa rõ Phật pháp? Vì chưa thiệt hiểu “Diệu pháp”, cho nên không rõ.

“Kinh Pháp Hoa” giống như mặt trời chánh ngọ, tất cả sơn hà đại địa, sum la vạn tượng, bất luận là hang sâu, vực thẳm, là cổ thụ cao to, bất cứ nơi nào cũng đều được loại ánh sáng nầy chiếu đến, cho nên tất cả mọi người trong hội Pháp Hoa đều được thành Phât. Trong quyển kinh nầy có đề cập đến “Nếu người lòng tán loạn, vào trong nơi tháp miếu, một xưng nam mô Phật, đều đã thành Phật đạo”. Đây là đức Phật Thích Ca thọ ký cho tất cả chúng ta, nói nếu người nào tâm không chuyên nhất, dùng lòng tán loạn đi vào trong tháp miếu, hoặc đến tháp Phật, hoặc vào trong miếu, chỉ cần niệm một tiếng “Nam mô Phật” như vậy, nhất định sẽ thành Phật.

Lúc trước giảng “Kinh Lăng Nghiêm”, chẳng phải chúng ta đã nói qua “Hoặc có người lễ bái, hoặc lại chỉ chấp tay, cho đến chấp một tay, hoặc chỉ hơi cúi đầu, dùng đây cúng dường tượng, dần gặp vô lượng Phật, tự thành đạo vô thượng, rộng độ chúng vô số”. Hoặc chỉ chấp tay—chấp một tay, có điều, chấp một tay ở trước Phật là không cung kính. Tuy lễ không được cung kính lắm như thế,  hoặc chỉ hơi cúi đầu, cũng đều nhất định được thành Phật. Hiện giờ chúng ta đến đây lễ Phật, niệm Phật, tương lai nhất định sẽ được thành Phật.

Có người nói: “Chỉ chấp tay, hơi cúi đầu, lòng tán loạn đều có thể thành Phật, hiện tại chúng ta thành tâm như thế, kính lễ như thế, công đức nầy thật là to lớn!” Quý vị không được khởi tâm kiêu ngạo như vậy, cũng không được sanh lòng tự mãn như vậy; hiện tại chúng ta hiểu rõ Phật pháp, đã thành tâm càng phải thành tâm, trong cung kính càng phải cung kính, như vậy mới đúng là dõng mãnh tinh tấn của Phật Giáo. Nên không thể tự mãn mà  nói rằng: “Chỉ chấp tay, hơi cúi đầu, lòng tán loạn đều có thể thành Phật, hiện tại ta không cần tu hành, tương lai ta cũng sẽ thành Phật!” Không được có tâm tự mãn như thế!

Bộ “Kinh Pháp Hoa” được nói trong hội Pháp Hoa, theo quan điểm của tông Thiên Thai chính là Viên giáo và Đốn giáo. Viên giáo chính là viên dung nhất; cái viên dung nhất, nếu thêm “Đốn” vào, lập tức sẽ thành Phật, không cần phải chờ đợi, ngay đó thành Phật. Chúng sanh đốn căn nầy—đốn là “lập tức, hốt nhiên”; hốt nhiên khai ngộ là khai ngộ rất nhanh. Lục tổ Huệ Năng giảng về “Đốn”, đại sư Thần Tú giảng về “Tiệm”.

 


B2. Bát Giáo

“Tạng, Thông, Biệt, Viên” gọi là bốn giáo “Hóa Pháp”; lại có “Đốn, Tiệm, Bí Mật, Bất Định” gọi là Bốn Giáo “Hóa Nghi”, hiệp tất cả lại thành ra Bát Giáo. “Bát Giáo” nầy được nói trong “Ngũ Thời”. Bốn Giáo Hóa Pháp và Bốn Giáo Hóa Nghi cũng giống như phương thuốc và vị thuốc; “Bốn Giáo Hóa Nghi” là nghi thức, cách làm của Phật khi giáo hóa chúng sanh, giống như bác sĩ cho toa thuốc. “Bốn giáo Hóa pháp” là pháp môn giáo hóa chúng sanh, giống như vị thuốc được dùng. Nếu như quý vị chỉ cho toa mà không có người dùng thuốc, bệnh sẽ không khỏi được; vì chỉ có toa thuốc, nói toa nầy có thể trị được bệnh gì đi nữa, cũng vô dụng, nhưng chỉ cần dùng thuốc, sau khi dùng, bệnh mới khỏi.

Bốn Giáo Hóa Pháp:

(1)     Tạng Giáo

Chính là giảng về tam tạng “Kinh, Luật, Luận”, nói pháp có sanh diệt “Nhân Duyên, Tứ Đế”, chủ yếu dạy cho hàng Nhị thừa, thứ đến dạy Bồ Tát.

(2)      Thông Giáo

Là điểm khởi đầu của đại thừa, nói về “Tứ Chân Đế” và “Lục Độ” không sanh diệt, làm thông cả tam thừa cùng học, là pháp tam thừa cùng tu, lấy Bồ Tát Thông Giáo làm đối tượng chính, nhị thừa làm đối tượng phụ.

(3)      Biệt Giáo

Là điểm kết thúc của đại thừa, dùng pháp đại thừa vô lượng, nói pháp môn Bát Nhã “Nhất thiết pháp không”, chủ yếu dạy Bồ Tát Biệt Giáo.

(4)      Viên Giáo

Thuần viên độc diệu, nói “Trung đạo thật tướng” sự lý viên dung, chỉ một Phật thừa không xen tạp ba giáo trước. Viên Giáo lại chia làm 2 loại: “Đồng Viên và Biệt Viên”. Một thừa pháp chung căn cơ cho cả tam thừa, gọi là “Đồng Viên”, như “Kinh Pháp Hoa”, chủ yếu dạy cho Bồ Tát lợi căn tối thượng, kế dạy cho bậc Thánh tam thừa. Một thừa pháp hoàn toàn khác với căn cơ tam thừa, chỉ dành riêng cho bậc đại căn viên đốn, gọi là “Biệt Viên”, như “Kinh Hoa Nghiêm”,  đối tượng là Bồ Tát lợi căn tối thượng.

Bốn Giáo Hóa Nghi:

(1)             Đốn Giáo

Vì sao gọi là Đốn? Viên Giáo chính là giáo lý viên dung tối thượng, nếu như thêm “Đốn” sẽ lập tức thành Phật, không cần chờ đợi, tức khắc thành Phật. Chữ “Đốn” không phải là “Độn” của trì độn (trì trệ, ngu độn), mà là lập tức, hốt nhiên, hốt nhiên khai ngộ. “Đốn” là rất nhanh. Lục Tổ giảng “Đốn”, Thần Tú giảng “Tiệm”. “Kinh Pháp Hoa” là Đốn Giáo, “Kinh Hoa Nghiêm” là Đốn Tiệm Giáo.

(2)             Tiệm Giáo

Tiệm là tu hành từng bước từng bước, khai ngộ từ từ. Ba giáo “A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã” ở trước “Kinh Pháp Hoa” đều thuộc về Tiệm Giáo.

(3)             Bí Mật Giáo

Bí mật là giáo Bí Mật do Phật thuyết. Giáo Bí Mật là gì? Là những thần chú đã được tuyên thuyết. Tất cả những thần chú nầy đều gọi là “Bí Mật”. Bí Mật là “Vị bỉ thuyết nhi thử bất tri, vị thử thuyết nhi bỉ bất tri”; dạy pháp cho người kia, người nầy không biết; dạy pháp cho người nầy, người kia cũng không biết, không biết lẫn nhau.

(4)             Bất Định Giáo

Là thuyết pháp không có cố định, như nói “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (“pháp còn phải bỏ, huống gì chẳng phải pháp” _ Kinh Kim Cang). Pháp luôn luôn linh hoạt, nên không cố định; vì pháp là linh hoạt, ắt phải xa lìa tất cả chấp trước. Nên nói “Nhân nhân thí giáo, nhân bệnh hạ dược”,  vì người nầy giáo hóa cho họ cách nầy; vì người có bệnh như vầy, nên mới cho thuốc như vậy, cho họ uống loại thuốc như vậy, nói pháp tùy theo bệnh của họ.

Pháp Phật nói đều không ngoài Ngũ thời, Bát giáo. Sau khi Phật thành đạo, nói pháp suốt 49 năm, giảng kinh hơn 300 hội, hoàn toàn vì nói “Kinh Pháp Hoa”. Ban đầu Phật nói “Đại Hoa Nghiêm”, người căn tánh tiểu thừa không thể tiếp nhận, về sau Phật mới “Ẩn đại thị tiểu”, không giảng lý luận cao thâm, chỉ giảng những đạo lý rất căn bản dễ hiểu, đó chính là “A Hàm”. Vì dẫn dắt hàng Nhị thừa phát tâm, nên mới nói “A Hàm”; kế sau lại nói “Phương Đẳng”, cứ thế từng bước từng bước. Sau “Phương Đẳng” lại nói “Bát Nhã”, dạy người phát sanh trí tuệ, có trí tuệ mới có thể đạt đến cấp độ diệu pháp của “Kinh Pháp Hoa”, mới có đủ trình độ nghe “Kinh Pháp Hoa”.

Nhưng “Kinh Pháp Hoa” nầy là khó nghe, khó gặp nhất; khi đức Phật Thích Ca nói “Kinh Pháp Hoa”, có năm ngàn Tỳ kheo vừa nghe Phật nói pháp nầy, bèn nói: “Thật khó thể tin! Thật khó thể tin!” bèn đều đứng dậy bỏ đi, rút lui không thèm nghe nữa. “Năm ngàn Tỳ kheo rút lui”, quý vị thử tính xem lúc ấy có đến năm ngàn đệ tử Phật bỏ đi, cho nên bộ kinh nầy rất khó tin. Phật bảo “Thôi! Thôi! Thôi!”, ba lần nói thôi, thôi cái gì? “Thôi không nên nói, pháp của ta vi diệu khó nghĩ bàn”, Phật lại tiếp “Như Lai không giảng nữa! Như Lai không giảng nữa! Như Lai không giảng  “Kinh Pháp Hoa” nữa! Vì sao vậy? Vì pháp của “Kinh Pháp Hoa” nầy rất mầu diệu! khó nghĩ khó bàn, chúng sanh không dễ tin nhận. Tốt hơn Như Lai không nên nói, Như Lai không nên nói, không nên giảng!”. Nhưng tôn giả Xá Lợi Phất nhất mực thỉnh cầu đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.

Đức Phật Thích Ca đã cực khổ chuẩn bị mấy mươi năm để nói “Kinh Pháp Hoa”, vì “Kinh Pháp Hoa” là diệu lý Viên Giáo, thật tướng, nên trước mới nói một số pháp hội về “A Hàm”, “Phương Đẳng”, “Bát Nhã” đều vì để lót đường cho “Kinh Pháp Hoa”, đây gọi là “Vị thật thí quyền”. Giống như tu sửa đại lộ chuẩn bị đến New York, hoặc đến thủ đô Washington của Mỹ. Từ lúc vừa khởi công sửa đường đều nhắm vào mục đích tới thủ đô Washington; trải qua nhiều năm tu sửa, mới đến được nơi muốn đến. Đường tuy đã sửa rồi, nhưng có một số người không muốn đến nơi đó, nói: “Quý vị muốn sửa con đường nầy thì quý vị cứ sửa. Tôi không đi! Tôi không đi đến nơi đó!”. “Năm ngàn Tỳ kheo thối lui” cũng giống như thế.

Chúng ta hiện đang giảng bộ “Kinh Pháp Hoa”, quả sẽ làm cho toàn thể  tam thiên đại thiên thế giới đều phóng quang, mười phương chư Phật, Bồ Tát thảy vô cùng hoan hỷ. Chúng ta là những người nghiên cứu Phật pháp, , trong lúc bận rộn nhất định phải cố nhín ra thời gian đến nghe diệu pháp này, vì đây là một bộ Kinh tối diệu. Nếu chúng ta bỏ qua cơ hội nghe bộ Kinh tối diệu nầy, thì không thể đạt được diệu pháp; không đạt được “Diệu” sẽ trở thành bất diệu. mỗi người chúng ta đều không  muốn bất diệu, mà phải tìm cầu “Diệu” nầy. Thế thì muốn tìm được chữ ‘Diệu”, phải hạ chút công phu, có thể dùng tâm kiên cố, tranh thủ trong bận rộn để nghiên cứu diệu pháp nầy. nhất định phải có tâm kiên cố mới có thể hiểu được diệu pháp của “Pháp Hoa”.

A2. Thất Chủng Lập Đề:

Theo quy củ của tông Thiên Thai thì mỗi bắt đầu giảng một bộ kinh nào, trước tiên phải giảng “Thất chủng lập đề” và “Ngũ trùng huyền nghĩa” (bảy cách lập đề và năm tầng huyền nghĩa). Bảy cách lập đề gồm 3 loại đề đơn, 3 loại đề kép và 1 loại đề đầy đủ, tức là đơn tam, phức tam và cụ túc nhất.

Ba loại đề đơn: “Đơn” nghĩa là đơn thuần, chỉ đơn thuần lấy một tên, hoặc người, hoặc pháp, hoặc dụ để đặt thành tên gọi cho bộ kinh.

(1) Tên Người Lập Đề (Đơn Nhân Lập Đề)

Ví dụ như “Phật thuyết A Di Đà Kinh”. Phật là người, A Di Đà cũng là người; cho nên nói chỉ dùng người lập đề, dùng người đại diện cho tên một bộ kinh. Vì “A Di Đà Kinh” là pháp môn Tịnh Độ, nói về thế giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, cho nên dùng tên “A Di Đà Phật” làm đại biểu.

Tại sao có thế giới Cực Lạc? Do nguyện lực của Phật A Di Đà mà có. Trong thời kỳ tu nhân, Ngài là Tỳ kheo Pháp Tạng, phát ra 48 đại nguyện. Nguyện nguyện đều là độ tất cả chúng sanh sanh về thế giới Cực Lạc, tương lai thành Phật. Cho nên bộ kinh nầy  dùng tên “A Di Đà Phật” làm đại biểu.

Bộ kinh “A Di Đà” vô cùng quan trọng! Phật Pháp đến cuối thời Mạt Pháp, đầu tiên “Kinh Lăng Nghiêm” không còn. Do vì “Kinh Lăng Nghiêm” giải thích tường tận chân lý của vạn sự vạn vật trên thế gian, có thể nói là tiết lộ hết bí mật của trời đất, cho nên đến thời kỳ Mạt Pháp “Kinh Lăng Nghiêm” sẽ bị diệt trước. Sau khi “Kinh Lăng Nghiêm” diệt, các kinh điển khác cũng lần lượt diệt theo, sau cùng chỉ còn “Kinh A Di Đà”. Bộ “Kinh A Di Đà” của Phật Giáo biến mất sau cùng.  Chỉ còn lại sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật” trụ ở đời 100 năm nữa; sau 100 năm sáu chữ mất bớt hai chữ, chỉ còn lại bốn chữ “A Di Đà Phật” tiếp tục trụ thế 100 năm; sau cùng Phật Pháp hoàn toàn biến mất. Đến lúc Phật Pháp đoạn diệt hết, người trên thế gian cũng chẳng còn bao nhiêu; lúc đó tam tai, bát nạn đua nhau hoành hành, đủ thứ tai ương nẩy sanh làm cả thế giới điều bị tiêu diệt .

Sở dĩ chúng ta phải đặc biệt chú trọng đến “Kinh A Di Đà” vì “Pháp môn Tịnh Độ” rất thích hợp với căn cơ của tất cả chúng sanh trong thời Mạt Pháp. Song, ngay trong thời Mạt Pháp cũng có cả thời Chánh Pháp và thời Tượng Pháp. Như trước tôi đã giảng qua, thí dụ như tại một địa phương nào đó chẳng hề có Phật Pháp, hoặc ở những quốc gia trước giờ chưa từng nghe nói tới Phật Pháp, nay mới nghe được Phật Pháp, như vậy cũng có thể coi như đương ở trong  thời Chánh Pháp. Hoặc Phật Pháp vừa mới truyền vào đất nước nầy, đây cũng có thể nói là thời kỳ Chánh Pháp. Như ngày nay ở trên đất Mỹ rất nhiều người hoan hỷ tập thiền, hoan hỷ nghiên cứu Phật Pháp, từng chút từng chút  khai triển phong trào Phật Giáo, đó cũng có thể nói là thời kỳ Chánh Pháp!

(2) Pháp Lập Đề (Đơn Pháp Lập Đề)

Kinh nào chỉ dùng pháp đặt tên? Thí dụ như “Kinh Niết Bàn”. Niết Bàn vốn là một pháp; “Niết” nghĩa là bất sanh, “Bàn” nghĩa là bất diệt. Niết Bàn là pháp không sanh không diệt, là pháp không có sanh diệt.

(3) Dụ Lập Đề (Đơn Dụ Lập Đề)

“Đơn dụ” là chỉ dùng một ví dụ để lập đề, như “Kinh Phạm Võng” là dùng ví dụ đặt thành tên kinh. Phạm Võng là một mành lưới đặt trước cung điện của Đại Phạm Thiên Vương; mành lưới nầy hình ống tròn, lại có lỗ, giống như lưới giăng cá, nhưng không phải để bắt cá, mà chỉ dùng để trang trí. Vì Đại Phạm Thiên Vương thích làm cho cung điện của mình trở nên hùng tráng, xinh đẹp nên mới treo mành lưới nầy lên. Mỗi một lỗ của mành lưới đều có đính một hạt bảo châu; hạt bảo châu nầy chính là dạ minh châu phát sáng suốt ngày đêm. Do mỗi mắt lưới đều có đính hạt châu như thế, cho nên “quang quang tương chiếu, khổng khổng tương thông”, ánh sáng của mỗi mỗi hạt châu phản chiếu lẫn nhau, thông suốt qua các mắt lưới. Gọi là Phạm võng (mành lưới của Phạm Thiên). Bộ “Kinh Phạm Võng” nầy chính là “Kinh Bồ Tát Giới”, nói về giới của BồTát. Vì sao lại dùng “Phạm Võng” đặt tên? Vì giới  giống như hạt minh châu phóng quang, nếu quý vị giữ được giới thì cũng sẽ  có hào quang nên gọi là “Kinh Phạm Võng”. (Lời người ghi: “Kinh Phạm Võng” nầy lấy theo tên “Kinh Phạm Võng” do Đại sư Cưu Ma La Thập phiên dịch, xưa nay gọi là “Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm”, có chỗ lượt bớt đi chữ Giới, gọi là “Phật Thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa Phẩm”. Ở đây Hòa Thượng dùng tên “Kinh Phạm Võng” để giải thích rõ cách thức chỉ dùng ví dụ đặt tên kinh (Đơn Dụ Lập Đề); nếu dùng “Phật Thuyết Phạm Võng Kinh” tức là theo phương thức lấy người và pháp lập đề.)

Ba loại đề kép: Đề kép là loại ghép hai tên lại với nhau, hoặc người với pháp, hoặc người với dụ, hoặc pháp với dụ.

(1)    Tên Người với Pháp Lập Đề (Nhân Pháp Lập Đề)

Ví như “Văn Thù Vấn Bát Nhã Kinh”, Bồ tát Văn Thù là người, Bát Nhã là pháp. Bồ tát Văn Thù là một vị Bồ tát đại trí đại tuệ, Ngài hỏi về Bát Nhã, phải là một người trí tuệ mới có thể hỏi về pháp trí tuệ; nếu Ngài không phải là một người có trí tuệ thì sẽ không hỏi về loại pháp trí tuệ nầy.

(2)    Tên Người với Dụ Lập Đề (Nhân Dụ Lập Đề)

Thí dụ như “Như Lai Sư Tử Hống Kinh”. “Như Lai” là một trong 10 đức hiệu của Phật, Như Lai là người. Sư tử hống (tiếng rống của sư tử) là dụ, ví như Như Lai thuyết pháp giống như sư tử rống. Nên nói: “Sư tử nhất hống, bách thú giai cụ” (sư tử rống lên, trăm thú đều sợ). Một khi sư tử rống lên thì tất cả ác thú bất luận là sói, trùng, hổ, beo v.v.. thảy đều trở nên hiền lành, thậm chí run sợ tè dầm, không còn biết gì nữa! Kinh Như Lai Sư Tử Hống nầy dùng phương thức “nhân dụ lập đề”.

(3)   Pháp với Dụ Lập Đề (Pháp Dụ Lập Đề)

Thế nào gọi là pháp dụ? Chính là “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” nầy. “Diệu Pháp” là pháp, “Liên Hoa” là dụ; lấy Diệu Pháp ghép lại với Liên Hoa thành danh xưng của kinh, bộ kinh nầy dùng phương thức “pháp dụ lập đề”.

Một Đề Đầy Đủ (Cụ Túc Nhất)

Theo cách thức này, người ta ghép cả 3 yếu tố lại, người, pháp và dụ làm thành tên gọi cho kinh, như “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”. “Đại Phương Quảng” là pháp; “Phật’ là người; “Hoa Nghiêm” là dụ. Cho nên tên kinh “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh” là đầy đủ cả “nhân, pháp, dụ”, thuộc về phương thức “Cụ túc nhất” trong bảy cách lập đề.

Người nghiên cứu Phật Pháp nhất định phải ghi nhớ lấy bảy cách lập đề nầy, trong giới hạn tối thiểu cũng có thể giảng ra được. Nếu không thì chẳng phải là người nghiên cứu Phật Pháp.

Trong “Đại Tạng Kinh” có nhiều cách phân loại, kinh điển thì nhiều, có trên mấy ngàn quyển, nhưng đều không ngoài bảy cách lập đề nầy. Cho nên khi xem kinh điển, quý vị chỉ nhìn qua là biết bộ kinh nầy dùng phương thức lập đề nào. Nếu nhận rõ được, tự nhiên có thể thâm nhập kinh tạng; có thâm nhập kinh tạng mới có được trí tuệ như biển. Còn nếu quý vị ngay cả cái tên cũng không nhận ra, như được hỏi: Sao gọi là “Niết Bàn Kinh”? thì trả lời rằng: “Tôi không biết!”. Không biết ư ? Ngay cả tên của “Kinh Niết Bàn” cũng không rõ, thì quý vị đọc “Kinh Niết Bàn” không có ích lợi gì!

Ví dụ như  Tôi gặp lại một người bạn thân, người nầy với tôi rất thân thiết, rất chí tình.  Nhưng khi có người hỏi người bạn tôi tên họ là gì thì tôi bảo rằng: “Tôi không biết!”. Như vậy, tôi có thể nói người đó là bạn thân của tôi chăng? Đến tên họ của người ta mà không biết thì sao gọi là bạn thân? Nói về kinh điển thì cũng giống như vậy. Quý vị không biết tên của người mà quý vị nói là bạn thân, không rõ bạn của quý vị ở đâu, ngay cả đương làm công việc gì cũng không biết nữa! Điều này giống như người đọc kinh mà không rõ tên kinh, làm sao có thể thâm nhập kinh tạng; không thâm nhập kinh tạng thì không thể khai mở được trí huệ rộng lớn như biển; không có được trí tuệ như biển thì một đời học Phật Pháp của quý vị vẫn đần độn, vẫn ngu si! Cho nên bảy  cách lập đề rất quan trọng. Biết rõ “bảy loại lập đề” là có thể nghiên cứu Phật Pháp được!

 


A3. Ngũ Trùng Huyền Nghĩa (chia 5 phần)

          B1. Thích danh (chia làm 3)

C1. Giải thích “Diệu pháp” (chia làm 4)

D1. Giải thích “Tâm pháp diệu”

D2. Giải thích “Chúng sanh pháp diệu”

D3. Giải thích “Phật pháp diệu”

D4. Dĩ “Lục tức Phật” thích “Diệu pháp”

C2. Giải thích “Liên hoa”

C3. Giải thích “Kinh”

B2. Hiển thể

B3. Minh tông

B4. Luận dụng

B5. Phán giáo tướng

“Ngũ trùng huyền nghĩa” là gì? Chính là “Danh, thể, tông, dụng, giáo”; cũng chính là “Thích danh, biện thể, minh tông, luận dụng, phán giáo tướng”.

B1. Thích danh (chia làm 3

Danh tức là bộ kinh nầy lấy gì làm tên? Thể tức là thể pháp của bộ kinh nầy là gì? Thể pháp biết rồi, còn phải biết tông chỉ của kinh là gì? Tông chỉ biết rồi, phải biết công dụng của nó như thế nào? Công dụng biết rồi, cuối cùng phải biết giáo tướng của kinh; giáo tướng của nó vì sao như thế?

Đây cũng giống như con người chúng ta vậy. Đầu tiên chúng ta phải có tên (danh); như người họ Trương, gọi là “Trương Tam”; người họ Lý gọi là “Lý Tứ” v.v.., mỗi người đều có tên riêng của  mình. Thí dụ như tên người đó là Trương Tam, vậy Trương Tam cao lớn chừng nào? Cân nặng ra sao? Thân thể có khỏe mạnh không? Các chi tiết này cần biết để nhận diện (là thể ). Biết được về “thể” của Trương Tam rồi, kế tiếp tìm hiểu xem amh ta chuyên hướng về gì (tông chỉ)? Buôn bán? Học hành? Hay lao động chân tay? Trong các ngành sĩ, nông, công, thương, quan chức, Trương Tam hướng về ngành nào? Anh ta chuyên về chuyện học hành ư? Vậy học hành là tông chỉ của Trương Tam. Kế đó, ta hỏi xem học vấn của anh ta dùng vào viêc gì (dụng)? Có phải anh ta học xong rồi đi ngủ, không làm gì cả? Không phải! Học xong còn phải phát triển, áp dụng cái sở học của mình. Thí như học khoa học thì vận dụng vào việc phát triển khoa học; học triết học thì phát triển về triết học; học kiến trúc, chứng tỏ mình muốn là kỹ sư; học văn học, hoặc giáo dục, định hướng sau này sẽ làm nhà giáo dục. Đó là khía cạnh thực dụng riêng của mỗi ngành. Kinh cũng như vậy, mỗi kinh đều có công dụng riêng. Giờ đã biết được công dụng của anh ta rồi; thể chất, tông chỉ, tên họ cũng đã biết. Chặng cuối cùng là bàn về chức phận (phán giáo tướng), là giáo sư, là giám đốc, hay là nội trợ? v.v.. Tóm lại, mỗi người đều có chức phận riêng, và do điều nầy mà ta có thể xác định được sự thành tựu trong đời của người ấy là gì. Phân tích huyền nghĩa trong một bộ  kinh cũng như vậy.

Tên bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” nầy được đặt theo phương thức nào? Khi giảng thất chủng lập đề đã có nói qua, tên bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” được đặt theo phương thức “pháp dụ lập đề”.

Trong năm tầng huyền nghĩa, đầu tiên là “Thích danh”, tức là giải thích tên kinh, đó là huyền nghĩa thứ nhất. Bộ kinh nầy lấy “Diệu Pháp Liên Hoa” làm tên; “Diệu pháp” là pháp, “Liên hoa” là dụ. Vì là “Diệu pháp” người ta khó hiểu, nên dùng “Liên hoa” để ví cho diệu pháp nầy. Do vậy, bộ kinh được đặt tên theo phương thức “pháp dụ lập đề ”, dùng “Diệu Pháp Liên Hoa” làm tên.

 

C1. Giải thích “Diệu Pháp”

Suy cho cùng “Diệu Pháp” là gì?

– “Diệu Pháp ư?  con biết rồi! Là pháp rất kỳ diệu!”

Đúng!  Bây giờ quý vị đã hiểu rõ. Thế thì chữ “rất kỳ diệu” trong tiếng Anh nói như thế nào? Nói là: very, very good, very, very wonderful! Nói cho cùng, sự kỳ diệu đó nó đến cỡ nào? Đến mức nào vậy?

“Sự kỳ diệu” nầy diệu đến mức tâm không thể nghĩ tới, lời không thể bàn được. Tâm không thể nghĩ tới, tức là không thể dùng tâm để nghĩ tưởng đến được, quý vị nghĩ tới nghĩ lui cũng không ra. Nếu nghĩ ra thì nó đã không phải là diệu rồi! Có nát óc nghĩ cũng nghĩ không ra. Đã nghĩ không ra thì càng không thể nói được! Tóm lại, cái gì nghĩ không tới, nói càng không được, chính là chữ “diệu” này. Tuy không thể nói, nói không ra, nhưng vẫn phải nói. Nói cái gì? Nói để hình dung cái “diệu” này, để giải thích ý nghĩa của chữ “diệu” này.

Thật sự `cái “diệu” nầy, nó là như thế nào? Chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ cảnh giới nầy. Song, phàm phu như chúng ta lại bảo rằng: “Tôi hiểu Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. Hiểu ư? Pháp này của “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” không thể hiểu, có như vậy nó mới là diệu pháp!

Hỏi: “Đã không thể hiểu thì giảng để làm gì?”

Chúng ta giảng là giảng chút chút về ý nghĩa, nhiều hơn nữa thì không có cách nào giảng ra được; nếu muốn giảng đến tận cùng cái chữ “diệu” thì tôi không có cách gì  nói cho được. Tôi nói thật! Nếu không biết thì tôi sẽ không gạt quý vị mà nói: “Tôi biết!” Tôi không biết giảng mà lại nói: “Tôi giảng kinh cho quý vị nghe”, đó quả là dối người mà cũng tự lừa mình!

Tôi tin rằng nay giảng bộ “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” này cũng chỉ là giảng chút ít thôi, chỉ chút ít mà không biết sẽ giảng trong bao nhiêu ngày. Vì chỉ một chữ “diệu” nầy mà Đại sư Trí Giả của tông Thiên Thai đã giảng hết 90 ngày. Mùa nghỉ hè năm nay (1968), cả bộ “Kinh Lăng Nghiêm” chúng ta chỉ giảng có 96 ngày, thật nhanh, như ngồi hỏa tiễn lên thám hiểm cung trăng vậy. Cũng bộ “Kinh Lăng Nghiêm”, lúc trước tôi giảng ở Hồng Kông mất 14 tháng; còn bây giờ ở đây, vẻn vẹn chỉ 3 tháng là đã giảng xong rồi.

Về một chữ “diệu”, Đại sư Trí Giả của tông Thiên Thai giảng trong 90 ngày mà vẫn chưa trọn vẹn, chỉ giảng được một phần nhỏ. Nay chúng ta giảng chữ “diệu”, rốt cuộc phải mất bao nhiêu ngày? Cũng không tính trước, chỉ biết tới đâu hay tới đó!

Đầu tiên chúng ta nói về cái “diệu”. Cái gì là diệu? Diệu pháp chính là diệu. Cái gì là diệu? Chúng sanh chính là diệu. Cái gì là diệu? Phật cũng là diệu. Cái gì là diệu? Hết thảy các thứ trong trời đất chẳng có cái gì là không diệu? Quý vị nói xem cái gì là không diệu? Hết thảy đều là diệu pháp! Bởi vậy cho nên, nếu giảng  đến chữ “diệu”  thì quả là vô cùng vô tận.

– “Hòa thượng nói cái nầy cũng là diệu, cái kia cũng là diệu, vậy cái ‘diệu’ ở đâu mà tới?”

Tôi nay xin nói thẳng cho quý vị hay: cái “diệu” nó xuất phát ở cái tâm này. Làm sao biết được nó là diệu pháp? Bởi vì chúng ta có cái tâm, cho nên tâm pháp là diệu; bởi tâm pháp diệu nên chúng sanh pháp là diệu; bởi chúng sanh pháp diệu nên Phật pháp là diệu.


D1. Giải thích “Tâm Pháp Diệu”

Tâm pháp diệu! Tại sao mà diệu? Toàn thể sơn hà đại địa, sum la vạn tượng, cho đến nhà cửa phòng ốc, hết thảy những thứ đó từ đâu mà có? Đều do từ một niệm hiện tiền trong tâm của mỗi người sanh ra. Mọi thứ nẩy ra từ tâm chúng sanh, quý vị nói xem, vậy chẳng phải là diệu sao? Thế nào từ trong tâm mà có thể sanh ra tất cả?

– “Ồ!  Con không biết!”

–  Đó là diệu đấy!

– “Tôi biết! quý vị biết!”

– Đây cũng là diệu đấy!

Không biết là diệu mà biết cũng là diệu. Tại sao vậy? Vì sao mà quý vị không biết? Điều đó chẳng phải là kỳ diệu ư? Vì sao mà quý vị lại biết? Há chẳng phải đó cũng là một sự kỳ diệu ư? Đây chính là tâm pháp diệu.

Bàn về tâm pháp diệu, xin hỏi: “Cái tâm làm sao mà kỳ diệu?”

Một số người, mỗi khi nghe nói đến tâm, đều chỉ vào lồng ngực bảo rằng: “Tâm tôi ở đây!” Tâm quý vị ở đó? Vậy là đã nhận lầm tâm rồi! Là đã nhận giặc làm con rồi! Giống như Tôn giả A Nan , Ngài chỉ cái tâm cũng tương tự như vậy, cho rằng tâm mình ở trong thân. Cái tâm đó là tâm gì? Nó chẳng qua là trái tim bằng thịt; nó vô dụng. Vì sao nói vô dụng? Bởi nó chỉ là một khối thịt! Quý vị nói xem cái khối thịt nầy có hữu dụng gì chứ? Không có  hữu dụng gì cả!

Cái tâm đó, nó chính là “tâm tập khởi”, tập là “Tập” trong “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, là cái tâm do tích tập các phiền não mà sanh ra. Còn gọi là “tâm duyên lự”. Duyên là phan duyên (chạy theo trần cảnh), lự là tư lự (suy tư, nghĩ ngợi). Nó có công năng bắt theo trần cảnh và suy tư nghĩ ngợi, chỉ giỏi giúp quý vị khởi sanh vọng tưởng và làm cho thức thứ sáu (ý thức) đầy tạp niệm, đó chính là “tâm duyên lự”. Bởi vậy, nói “tâm” là kể các loại: “tâm bằng khối thịt, tâm duyên lự, tâm vọng tưởng, tâm tập khởi,” nhiều tên gọi như vậy! Nay nói đến “tâm pháp” quý vị không nên cho rằng tôi nói về cái tâm đó đâu.

– “Ồ! Vậy ra tôi còn có cái tâm khác nữa sao?”

Quý vị không biết ư? Đó chẳng phải là một sự kỳ diệu hay sao? Ngay đến cái  “tâm” của mình mà còn không hay biết, cái đó mới thật là kỳ diệu! Tâm của chính mình, quý vị đã không biết, thì đến cả cái sinh mạng của mình cũng không hiểu rõ rồi! Lúc đến thế gian thì mơ hồ, không biết mình từ đâu mà tới, đó là một sự kỳ diệu; khi ra đi cũng mơ hồ không kém và chẳng biết sẽ đi về đâu, đây cũng là một sự kỳ diệu. Sanh, tử đều là kỳ diệu cả!

– “Lúc đến cũng như lúc đi đều chẳng biết gì, Hòa Thượng bảo đó là kỳ diệu, con thì thấy điều Hòa Thượng nói  là kỳ diệu; như nay con đương sống, điều đó chẳng có gì là kỳ diệu cả?”

Ô! Càng kỳ diệu nữa! Tại sao? Quý vị chẳng hay chẳng biết gì lúc nào mình đã biến từ một hài nhi thành một đứa trẻ, rồi từ đứa trẻ thành người lớn; sau đó quý vị không biết sẽ biến đổi ra sao, rồi lại sanh ra một số con trai con gái; có con cái rồi, quý vị không biết sao lại biến thành người già. Quý vị nói xem, đó có phải là kỳ diệu hay không? Nếu bảo là không, thì tại sao giữa bao nhiêu sự biến hóa đổi thay như vậy, mà quý vị chẳng hay chẳng biết gì hết? Đó đều là diệu pháp!

Song, bây giờ tôi nói ra diệu pháp này thì quý vị cảm thấy: “Ờ! Có chút ý nghĩa, thì ra là vậy!”; nhưng lại không biết chắc: “Ông Thầy nầy bảo đó là diệu pháp, thì thôi, cứ cho rằng diệu pháp đi!” Khi tôi chưa giảng tới thì quý vị không biết đó là diệu pháp, có phải không? Cho nên, diệu pháp nầy, chính là một thứ tác dụng được nảy sanh trong lúc quý vị không hay không biết. Đó chính là diệu vậy!

Cái “diệu” nầy, nói ra nhiều không kể xiết; mắt trông mà thấy được đều là diệu. Tại sao vậy? Bởi nếu không diệu thì làm sao quý vị có thể nhìn thấy? Như quý vị nhìn mà không thấy, bèn nói:

– “Nhìn mà không thấy, vậy là không kỳ diệu?”

Trông mà không thấy thì càng kỳ diệu! Quý vị thấy là kỳ diệu, không thấy cũng là kỳ diệu; lắng tai mà nghe được là kỳ diệu, không nghe được cũng là kỳ diệu. Tôi xin đan cử một thí dụ: Tôi viết bốn chữ “A Di Đà Phật” trên tấm vải màu vàng, mang treo lên; Quả Tiền từ dưới nhìn lên trên tấm vải, khi y quay lại, tôi hỏi: “Con nhìn cái gì?” Y đáp: “Rất kỳ diệu!” Quý vị nói xem, y trông thấy được, tại sao y biết nó là kỳ diệu? Đó cũng là một sự kỳ diệu!

Chẳng riêng gì khi nhìn mà thấy được là diệu. Tại sao nhìn mà ta lại thấy? Đây chính là “năng kiến và kiến (thấy và cái thấy)” mà trong Kinh Lăng Nghiêm nói tới: “Ai có thể thấy (năng kiến)? Ai đồng với ta nhìn mà thấy (kiến)?” Quý vị nói xem, đó là kỳ diệu hay không kỳ diệu? Nếu như nhìn mà không thấy, thì bởi cớ gì mà nhìn không thấy? Vậy chẳng là kỳ diệu sao? Tại làm sao nhìn các thứ ở gần thì quý vị trông thấy? Trả lời: “Bởi các thứ đó ở gần.” Đó chẳng phải là kỳ diệu sao? Đó cũng là một sự kỳ diệu. Các thứ ở xa thì quý vị không thấy được. Tại sao khi gần lại có thể thấy mà xa thì nhìn không thấy? Đó chẳng phải là kỳ diệu sao? Đó đều là kỳ diệu!

Như chúng ta thường trông thấy các thứ, khi thấy màu vàng chẳng hạn, chúng ta có cái ảnh của màu vàng; khi thấy màu xanh, có cái ảnh của màu xanh; thấy màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, hay màu sắc gì, thì trong thức thứ tám của chúng ta đều sanh khởi cái ảnh của màu sắc đó. Sao lại sanh khởi như thế? Ai dạy bảo ta như thế ? Điều này chẳng phải là kỳ diệu hay sao? Như ta trông thấy màu vàng, trong khi đó, không có ai ở bên cạnh bảo ta như thế nầy: “Anh đương thấy màu vàng đấy, trong tâm anh nên sanh khởi một ảnh của màu vàng”. Chẳng ai bảo ta như vậy, tự ta sanh khởi. Chẳng phải là kỳ diệu hay sao? Cho đến các màu hồng, màu trắng, màu lam, hết thảy các thứ màu sắc mà chúng ta nhìn, thảy đều sanh khởi ảnh của các màu đó. Đó há chẳng phải là diệu hay sao? Đó chính là “diệu”!

Nghe cũng như thế. Tại sao có những âm thanh quý vị thích nghe, có những âm thanh quý vị không thích nghe? Có ai bảo quý vị thích nghe? Có ai bảo quý vị không thích nghe? Chẳng có ai cả! Vì sao tự bản thân quý vị có thể khởi ra “Thích nghe” và “Không thích nghe” nầy? Trông thấy sự vật, vì sao quý vị sanh ra tâm yêu ghét? Thấy sắc đẹp liền sanh tâm yêu thích; thấy sắc không vừa ý liền sanh tâm ghét bỏ, những việc nầy do ai dạy quý vị? Trả lời: “ con không biết là ai dạy, nhưng tự trong tâm tưởng  con khởi nghĩ như thế!” Quý vị khởi nghĩ như thế. Kỳ diệu chính là ở chỗ đó!

Bởi vậy cho nên, hết thảy mọi thứ đều kỳ diệu, đó là diệu pháp, đó là “tâm pháp diệu”. Thiên biến vạn hóa nẩy sanh từ cái tâm. Quý vị nói xem, nếu chẳng phải là diệu thì làm sao nó khởi ra thiên biến vạn hóa? Cho nên cái “diệu” đó nói ra vô cùng! Nếu như tôi muốn nói, nói tới cả mấy trăm năm cũng không hết. Nếu quả thực nói hết được, thì chẳng phải là diệu rồi! Chính bởi nói không hết được, nên mới là diệu!

Tại sao đức Phật Thích Ca thuyết pháp suốt 49 năm, giảng kinh hơn 300 hội? Vì đều không ngoài chữ “diệu” nầy. Chữ “diệu” nầy bao nhiếp cả Ba tạng kinh điển, 12 phần kinh, gồm thâu hết tất cả Phật Pháp, quý vị nói nó kỳ diệu hay không kỳ diệu? Tất cả Phật Pháp đều không vượt ra ngoài chữ “diệu”, cho nên Đại sư Trí Giả “Cửu tuần đàm diệu”, chín mươi ngày bàn chữ “diệu”. (Tuần là tuần trăng, mỗi một tuần là 10 ngày). Chớ nói là 90 ngày, tôi xin nói với quý vị rằng đến 90 năm giảng cũng chưa hết chữ “diệu”! Quý vị bảo:

– “Ây! Bộ “Kinh Pháp Hoa” đó, cả đời chúng ta nghe không bao giờ xong. Không có cơ hội nghe hết đâu! Chín mươi năm mà còn giảng chưa xong một chữ ‘diệu”, thì bộ kinh này chúng ta không cần nghe!”

Quý vị đừng sợ! Bởi vì thời đại ngày nay cái gì cũng nhanh. Giảng nhanh cũng là một điều kỳ diệu. Vậy thì tôi sẽ giảng không quá chậm đâu! Chậm chút chút cũng là kỳ diệu, giảng nhanh một chút cũng không tách ra khỏi chữ “diệu”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh đã không vượt khỏi chữ “diệu”, ngày nay tôi giảng kinh làm sao có thể rời khỏi chữ “diệu” được chứ? Cho nên cũng không rời khỏi. Chữ “diệu” này, nếu quý vị rời khỏi nó thì chẳng kỳ diệu rồi; rời không khỏi, đó chính là diệu!

Tuy pháp này là kỳ diệu, nhưng muốn biết cái diệu pháp đó, chúng ta phải buông bỏ cái “diệu” đi. Nếu như buông không được thì quả nó là diệu; buông bỏ được thì càng diệu hơn nữa! thì là chân diệu! Nếu không tin thì quý vị hãy thử coi! Quý vị buông bỏ cả thân và tâm này, trong không thân tâm, ngoài không thế giới, nhân không, pháp không, hết thảy đều không; quý vị nói đây chẳng phải là  kỳ “diệu” sao? Buông bỏ được hết như vậy, thì mới tới được cái “diệu” chân thật, vốn sẵn có của tự tánh. Quý vị “trong không thân tâm, ngoài không thế giới”, nhưng vẫn không tách rời thân tâm và thế giới. Không phải rời khỏi thân tâm nầy của tôi, rời khỏi thế giới nầy rồi, thì mới không thân tâm và thế giới. Mà chính là không (thân tâm và thế giới) ngay tại thân tâm nầy, ngay tại thế giới nầy!

Thường ngày tôi đã nói rất nhiều lần, có thể có người không lãnh hội hết ý nghĩa nầy. Nói là: “Nhãn quán hình sắc nội vô hữu, nhĩ thính trần sự tâm bất tri” (mắt thấy hình sắc trong không có, tai nghe tiếng trần tâm không hay). Mắt nhìn thấy hình sắc, tai nghe mọi sự thế gian, tâm vẫn bất động; được như vậy là sắp đạt đến chỗ “trong không thân tâm, ngoài không thế giới” (nội vô thân tâm, ngoại vô thế giới). Đây là việc chẳng dễ dàng tí nào. Chính vì là việc không dễ, cho nên mới là diệu. Mà quả như dễ dàng, thì cũng là diệu. Cho nên cái gì cũng ở trong chữ “diệu”, hết thảy mọi thứ đều là diệu, tất cả đều không vượt ra ngoài “diệu”! Thảo nào Trí Giả Đại sư giảng trong 90 ngày mà vẫn không cách nào giảng xong chữ “diệu”!

Chữ “diệu”, nói ra không dễ dàng; bởi không dễ dàng nên đó là “diệu”. Không dễ nói nhưng vẫn phải nói, chính đây cũng là một sự kỳ “diệu”! Cho nên cái “diệu” nầy, nói cách nào cũng là kỳ diệu! nói tới cái gì cũng là kỳ diệu! Không có cái gì chẳng phải diệu. Tóm lại, tất cả đều là kỳ diệu, kỳ diệu và kỳ diệu! Quý vị hỏi:

– “Bảo cái gì cũng diệu, diệu, diệu, vậy ‘diệu ’ có lợi ích gì?”

Quý vị hỏi được câu hỏi này, thật là chân diệu!

Tu hành, tham thiền tĩnh tọa, chẳng qua là vì một chữ “diệu”; Đức Phật Thích Ca khổ hạnh sáu năm trên núi Tuyết là cầu cái “diệu”; tất cả Bồ tát thực hành Bồ tát đạo cũng cầu cái “diệu”; tất cả A-la-hán xả bỏ tất cả cũng vì cầu cái “diệu”; tất cả phàm phu tu hành cũng vì cầu cái “diệu”; tất cả Thánh nhân tu hành cũng là cầu cái “diệu”.

Đến quả vị Phật gọi là “Diệu”. Diệu gì? Gọi là ‘Diệu giác”. Bồ tát gọi là “Đẳng giác”, Đẳng giác không bì được Diệu giác, chỉ có Phật mới thành Diệu giác. Bởi vậy cho nên chúng ta phải hiểu rõ cái “diệu” này.

Cái “diệu” nầy, nó có công dụng gì? Chẳng có công dụng gì cả! Không có công dụng gì hết, nhưng cái gì cũng không thể thiếu nó. Cái đó là “phóng chi tắc di lục hợp” nghĩa là thả ra thì nó tràn đầy cả vũ trụ. Cái “diệu” đây, là đại dụng, đại tạo, đại hóa; muôn vật trong trời đất, hết thảy các thứ đều từ trong cái “diệu” mà sanh ra. Bởi vậy quý vị chớ cho rằng cái thế gian này là do thiên chúa (Thượng Đế), hay địa chúa, nhân chúa mà tạo ra. Không đúng đâu! Từ cái “diệu” mà sanh ra tất cả.

Chữ “diệu” nầy chỉ có Phật mới hiểu rõ; Phật tánh vốn có, gọi là “Diệu giác Phật tánh”. Chữ “diệu” nầy nào dễ luận đàm! Quý vị có thể nào dễ dàng hiểu rõ như thế? “Vậy nếu hiểu rõ một cách dễ dàng thì đã đâu gọi là “diệu”, phải không?” Không, không phải vậy! Nếu dễ dàng hiểu rõ thì lại càng diệu! Tại sao vậy? Vì quý vị không cần nhọc sức mà vẫn hiểu rõ, há chẳng phải là diệu sao? Mà quý vị có tốn rất nhiều công sức mới hiểu rõ, thì cũng càng diệu! Cho nên chữ “diệu” nầy nói như thế nào cũng là diệu, cũng “đầu đầu thị Đạo, tả hữu phùng nguyên”, (hướng nào cũng là  Đạo, phải trái đều gặp nguồn),  nói thế nào cũng hợp lý lẽ, cũng thông suốt cả.

Trước mắt chúng ta cái gì không kỳ diệu? Cây đèn, cái bàn, cái ghế, tất cả mọi thứ đều là biểu hiện của diệu pháp, tất cả đều kỳ diệu! Nếu chúng ta hiểu rõ diệu pháp nầy thì tất cả mọi pháp đều nhiệm mầu, đều là diệu pháp; nếu không hiểu rõ diệu pháp nầy thì thấy mọi pháp đều thô, bất diệu, và tưởng rằng mình hiểu rõ các pháp, nhưng thực sự chẳng hiểu gì. Nếu quý vị nghiên cứu tường tận bản thể của mọi sự, thì thấy mọi thứ đều từ cái “diệu” mà sanh ra.

Mùa nghỉ hè năm nay tôi giảng “Kinh Lăng Nghiêm” trong 96 ngày. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” có nói đến “50 loại ấm ma”. Ma này còn “siêu” hơn bọn thiên ma ngoại đạo hiện nay. Lúc nảy nói tới “Đại Đồng Giáo” tôi đặt cho họ cái tên “Ma Quỷ”, coi như đã đề cao họ rồi đó! Kỳ thực bọn họ không đáng vào hàng con cháu của ma quỷ nữa. Cho chúng làm con cháu của ma quỷ, sợ rằng ma quỷ cũng còn chê! Bất quá, bởi vì tôi quen biết một số người này, mà đã đề cao giá trị của họ, gọi họ là “ma quỷ”.

Quý vị xem, “50 loại ấm ma” đó thần thông diệu dụng, lợi hại vô cùng! Có loại có thể làm cho đầu nó phóng quang, lại di chuyển ánh hào quang đó đến đầu của quý vị, làm cho đầu của quý vị cũng phóng quang luôn. Quý vị nói xem, đó chẳng phải là thần thông sao? Thần thông như vậy đó, nhưng theo Phật giáo loại thần thông nầy là ma, huống chi bọn người kể trên đâu biết phóng quang là gì. Nếu như gán cho họ cái tên “Ma”, họ còn chưa đủ tư cách! Tại sao vậy? Tôi nói cho quý vị biết, vì họ giống như ruồi nhặng, bay vo ve, bay quanh bay quẩn, bay miết mà không tìm ra lối thoát, nên kỳ thực chỉ là bọn theo đuôi kẻ đui mù, bọn “manh tòng” là như vậy.

Sao gọi là “manh tòng”? Bởi vì chúng theo kẻ đui mù học đạo. Đã không hiểu rõ thì phải tìm đến một tôn giáo có thể dạy cho mình hiểu rõ, học pháp thì phải kiếm tôn giáo nào biết pháp để theo, đàng này bổn thân của chúng chẳng có luận lý gì, nói đến pháp cũng chẳng có pháp gì, chỉ có hô hào: “Đại đồng! thống nhất tất cả các tôn giáo lại!” Người Trung Hoa có câu nói: “Tát sưng má, giả làm người mập”; câu này chỉ trường hợp của kẻ ốm nhom, nhưng muốn người ta khen là phương phi, nên lấy tay tát cho sưng má của mình lên. Người khác thấy, lầm rằng: “Ô! người này mập đẹp”. Trường hợp trên cũng giống như thế!

Bởi không hiểu rõ, thế là kẻ mù dắt kẻ mù; trên thế gian người hiểu rõ thì ít, người không hiểu rõ thì đông; kẻ trí tuệ thì ít, ngu si thì nhiều. Người có trí tuệ thích nghe lẽ chân thật; người không có trí tuệ thì hay nghe đạo lý giả trá của hạng mê mờ, chuyên môn đưa người khác vào mê lộ.

Tuy tôi bảo những người của “Đại Đồng Giáo” là quỷ ma, nhưng tôi tuyệt đối không có ý chửi rủa họ. Có một số người lại thích loại ma quỷ nầy. Tại sao? Vì họ không muốn đoạn dâm dục, có thể tùy tiện, mà cho đấy là điều hay. Trong khi Phật Giáo lại muốn người ta đoạn dâm dục bởi vì nếu như không đoạn dâm dục, thì quý vị tu hành chẳng khác gì “nấu cát mà mong thành cơm”, không hề có được! Chẳng phải trong “Kinh Lăng Nghiêm” có nói: “Thí như nấu cát, muốn đặng thành cơm, sao có lẽ nầy?” Quý vị không thể nói cái dục lạc không cứu cánh của thế gian tôi cũng muốn, sự an lạc cứu cánh xuất thế gian tôi cũng muốn. Chẳng bao giờ có đạo lý nầy! Quý vị không thể cùng đạt được cả hai. Đó là ý kiến của tôi đối với Đại Đồng Giáo.

Lại có một số người nói đến để nghiên cứu Phật Pháp, tu tập Phật Pháp, nhưng chỉ toàn  làm việc bằng cửa miệng, thực tế không có thực hành, không chịu hành trì theo phương pháp Phật dạy; như vậy họ cũng đồng như ma vậy, không thể liệt họ vào hàng ngũ của “tín đồ Phật giáo”.

Cũng tương tự như vậy là số người nhìn thấy Phật mà không lạy —họ nói tin Phật nhưng không lễ Phật. Loại người nầy, quả báo trong tương lai không thể tưởng tượng nổi! Đời sau phải làm thân súc sanh, đọa địa ngục hay là quỷ đói? Không có gì bảo đảm cho họ cả. Tại sao vậy? Quý vị học Phật Pháp, y chiếu theo các phương pháp Phật dạy để hành trì, đâu có thể coi cái “ta” của mình  còn lớn hơn Phật được, quả là sai lầm! Sai lầm hết chỗ nói!

Người học Phật chẳng riêng gì  nhìn thấy Phật là phải cung kính, đối với Bồ Tát cũng phải lễ lạy, thấy các vị A-la-hán phải đảnh lễ, đối với các Đại thiện nhân, các bậc Tu hành giới đức phải sùng kính, chớ nên cống cao ngã mạn, cho mình là nhất. Trong tiếng Hoa có 2 chữ  “tự đại”—tự cho mình lớn lắm; nhưng nếu hiệp hai chữ nầy lại, đọc ra chữ gì? Đó là chữ “xú”. Xú có nghĩa là thúi quắt! Bởi vậy cho nên, chúng ta  bất cứ là ai, nhất là đã là Phật tử, tuyệt đối không được tự đại, tuyệt đối phải khiêm cung hòa nhã! Đối với ai cũng vậy, cũng khiêm nhường cung kính.

Nhân dịp giảng Kinh Pháp Hoa, tôi muốn giới thiệu trước với quý vị đôi nét về “Bồ Tát Thường Bất Khinh”. Bồ Tát Thường Bất Khinh là ai? Chính là tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong kiếp quá khứ khi còn đang tu hành Bồ Tát đạo. Trong một kiếp xa xưa nầy, Ngài chuyên tu Bồ Tát hạnh. Ngài tu hạnh gì? Hạnh cung kính, chuyên hành mười đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.

“Mười đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền” gồm những gì? Một là lễ kính chư Phật, hai là xưng tán Như Lai, ba là rộng tu cúng dường, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỷ công đức, sáu là thỉnh chuyển Pháp luân, bảy là thỉnh Phật ở đời, tám là thường theo Phật học, chín là luôn thuận chúng sanh, và mười là hồi hướng cùng khắp.

“Một là lễ kính chư Phật.” Đại nguyện thứ nhất là cung kính đảnh lễ hết thảy chư Phật. Chư Phật chính là Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật tương lai, mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều cung kính đảnh lễ.

“Hai là xưng tán Như Lai.”  Đại nguyện thứ hai của Bồ Tát Phổ Hiền là tán thán Như Lai. Tán thán Phật như thế nào mới đúng?

– “Phật cũng thích được người ta tán thán sao?”

– Đúng vậy! Phật thích được tán thán; nhưng tán thán ở đây không phải là tán thán Phật.

– “Vậy tán thán ai?”

– Quý vị tán thán Phật chính là tự tán thán mình!

– “Tôi không muốn tự tán thán mình!”

– Quý vị không muốn tự tán thán mình cũng đồng như không muốn tán thán Phật, vì Phật và chúng sanh là một.

– “Vậy nếu tôi là Phật thì tôi không cần lạy Phật nữa!”

– Cũng lại sai lầm!

Tự tánh quý vị là Phật, nhưng nếu không tu thì không chứng quả, làm sao giống như Phật được. Giả sử ai cũng là Phật cả thì hà tất gì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải đến Tuyết Sơn khổ hạnh 6 năm, ngồi tĩnh tọa dưới cội Bồ đề suốt 49 ngày mới khai ngộ thành Phật? Ngài đâu cần phải khổ nhọc như thế!

Trong quá khứ Đức Phật Thích Ca đã tu vô số khổ hạnh, tu vô số thiền định, tu vô số trí tuệ, tu vô số bố thí, tu vô số giới luật, tu vô số nhẫn nhục, tu vô số tinh tấn, tu vô số pháp môn; đến kiếp nầy còn chịu khổ hạnh sáu năm trên núi Tuyết, trãi qua bao nhiêu nỗi gian khổ, mới tới được giây phút nhìn thấy ánh sao mai mà khai ngộ dưới cội Bồ-đề. Quý vị bây giờ đừng nói đến 6 năm, hay 6 ngày núi Tuyết, chỉ có 6 giờ tĩnh tọa còn chưa có mà đã muốn làm Phật. Quý vị là Phật ư? Phật gì mà rẻ rúng quá vậy! Cho nên đối những ai tự cho mình là Phật, tôi chỉ có một câu phê phán, bảo rằng họ đúng là kẻ “vô tàm vô quý”, chẳng biết hổ thẹn, không biết cái xấu xa của mình, nói khoác lác không biết xấu hổ!

Đức Phật Thích Ca trong quá khứ là “Bồ Tát Thường Bất Khinh”. Vì sao gọi là Thường? “Thường” nghĩa là mãi mãi, luôn luôn. “Bất khinh” là không khinh thường tất cả chúng sanh. Ngài gặp Phật lễ Phật, gặp Bồ Tát lễ Bồ Tát, gặp A La Hán lễ A La Hán. Còn gặp người bình thường thì sao? Ngài cũng lễ. Gặp Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Bồ Tát cũng khấu đầu. Khi gặp mọi người Bồ Tát đã nói như thế nào? “Ngã bất cảm khinh thị nhữ đẳng, nhữ đẳng giai đương tác Phật!”  Ngài nói: “Tôi chẳng dám khinh thị các vị! Các vị tương lai đều sẽ thành Phật; nếu tôi khinh thường các vị, tức cũng giống như khinh thường Phật vậy!” Quý vị xem, phát tâm như thế thật là thành khẩn; cung kính tất cả chúng sanh không hề có một chút dối trá!

Gặp ai Ngài cũng đều khấu đầu đảnh lễ, rồi quý vị biết hậu quả sao không? Ngài rước lấy họa: bị những Tỳ kheo tăng thượng mạn mắng nhiếc: “A! giỏi cho tên Tỳ kheo nầy! Ngươi không hiểu Phật Pháp à? Dám ngông cuồng thọ ký cho mọi người!” và họ đánh đập Ngài. Trong lúc Ngài rập đầu đảnh lễ, họ đánh Ngài, đá vào mặt Ngài, đến nỗi gãy cả răng của Ngài. Nếu như người thường, lâm vào tình cảnh nầy, thì đã than trách: “Tôi đảnh lễ các ông mà các ông còn đánh tôi? Vậy thì thôi, tôi sẽ không lễ lạy ai nữa!” Mặc cho người ta đánh mình, Ngài vẫn cứ lễ lạy. Khi ấy, ngài lễ lạy như thế nào? Ngài chạy ra xa xa những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đó mà đảnh lễ, không để những người nầy đến gần, lễ xong, liền đứng dậy bỏ chạy. Vì sao như thế? Vì Bồ Tát tránh những người nầy đánh mình. Cứ thế Ngài vẫn kiên trì thực hành hạnh Bồ Tát, không khinh thường tất cả mọi người.

Trong một tiền thân đức Phật Thích Ca đã làm như thế; Ngài thực hành lục độ vạn hạnh, tu vô số bố thí, vô số nhẫn nhục, vô số giới luật, vô số tinh tấn, vô số thiền định, vô số trí tuệ; chứ chẳng phải một sớm một chiều mà có thể thành Phật. Bây giờ những ma con, ma cháu nầy, không tự biết thân phận mình là gì, không tự biết hổ thẹn với bản thân, còn nói: “Everybody is Buddha! (mọi người đều là Phật!)”. Thật là ăn nói quàng xiên! Đây gọi là “Tà thuyết”.

Loại người cho mình là Phật là không biết Phật! Đã cho mình là Phật, thì tại sao lại nói là không biết Phật? Vì tự tôn tự đại, tự phong mình là hoàng đế, tự phong mình là tổng thống, chứ chẳng được ai tuyển chọn, chẳng được ai ủng hộ. Họ chỉ làm hoàng đế cho một mình họ, làm tổng thống một mình, không ai thừa nhận. Giả tỷ có những loại người công khai tự nhận như vậy trong một quốc gia thì họ đã bị nhốt vào tù. Vì sao vậy? Bởi như vậy là phạm pháp, là hành vi của một kẻ nghịch đồ và có thể bị mang ra chém đầu không tha. Cũng theo lý đó, theo quan điểm Phật Giáo, nếu có hành động như vậy thì tương lai nhất định sẽ xuống địa ngục. Tại sao? Không tu mà tự nhận mình là Phật nên tạo nên nghiệp tội.

Tự nhận là “Phật”, lạm dụng danh nghĩa đó để lừa dối mọi người, như đại khái bảo rằng: “Tôi là Phật, quý vị cũng là Phật! Bởi mọi người đều là Phật với Phật, vậy chúng ta nên như thế nầy… như thế kia…”. Dùng phương cách đó lừa gạt người đời, tương lai nhất định sẽ đọa vào địa ngục. Không nên cho rằng đây là một trò đùa! Không nên tí nào! Thủ đoạn nầy vô cùng nguy hiểm, giống như hàng ngày quý vị ôm bom nguyên tử, bom kinh khí ngủ, nguy hiểm vô cùng! Vì sao vậy? Vì tương lai nhất định quý vị sẽ đọa vào địa ngục! Nên nói “Thiên đàng có lối, quý vị không đi; địa ngục không cửa mà cố chui vào.”

Lúc giảng “Kinh Lăng Nghiêm”, Tôi đã chẵng kể câu chuyện cho quý vị nghe sao?  Hôm nay tôi xin kể lại. Đó là câu chuyện:

Mộng đổng truyền mộng đổng,

Nhất truyền lưỡng bất đổng;

Sư phụ hạ địa ngục,

Đồ đệ hướng lý củng.

Mê mờ dạy kẻ mê mờ,

Cả hai cùng mê mờ;

Sư phụ xuống địa ngục,

Đệ tử chui theo vào.

Khi thấy đệ tử của mình cũng xuống địa ngục, sư phụ hỏi: “Ủa! Ngươi xuống đây làm gì?” Người đệ tử đáp: “Con theo sư phụ học đạo, sư phụ tới đây thì dĩ nhiên con cũng tới đây! Sư phụ đã tới đây, hẳn không sai rồi. Con nhất định theo sát sư phụ!” Ông sư phụ đó kêu lên: “Ây da! Hỏng rồi! Hỏng rồi! Đây là địa ngục mà!” Đệ tử than: “Ây da! Thế tại sao sư phụ lại dẫn con đến địa ngục vậy?” Sư phụ đáp: “Sư phụ cũng không biết! Chính cả sư phụ cũng không rõ tại sao sư phụ lại tới chỗ nầy? Bây giờ muốn ra cũng không ra được!” Quý vị nói xem có đáng thương hay không? Không chỉ sư phụ không ra được, mà những người đệ tử theo ông ta học cũng giống như cá bị mắc lưới, chỉ cần một lưới là tóm gọn tất, cả sư phụ và đệ tử đều rơi vào địa ngục. Đến khi nào mới được ra? Không ai biết được, không ai có thể trả lời được câu hỏi nầy. Đó là do tự cho mình là Phật, mà không biết Phật, không rõ Pháp, nên mới bị quả báo như thế.

Vừa rồi giảng đến  phải tu tập 10 đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Thứ nhất kính lễ chư Phật, thứ hai xưng tán Như Lai, thứ ba là gì?

Thứ ba là rộng tu cúng dường: Không thể nói hôm nay tôi cúng dường, ngày mai không cúng dường ; không thể nói tôi cúng dường vị Phật nầy, không cúng dường vị Phật kia. Phải cúng dường bình đẳng và khắp hết tất cả, đây gọi là “Rộng tu cúng dường”. Ngoài rộng tu cúng dường, còn phải là gì?

Thứ tư sám hối nghiệp chướng: Vì sao chúng ta lại đảnh lễ đức Phật? Lễ Phật để biểu hiện từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta đã tạo biết bao lầm lỗi, hôm nay phát lồ sám hối; tự mình làm sai, nên phải tự mình sám hối, tự mình cải đổi chừa bỏ.

Thứ năm tùy hỷ công đức: Tức là xem ở đâu có làm việc từ thiện, chúng ta nên theo làm; khả năng có thể  đóng góp được một hào thì  đóng góp một hào; có thể  đóng góp được một đồng thì  đóng góp một đồng; có thể  đóng góp được 100 đồng thì  đóng góp 100 đồng. Công đức nầy phải chính do quý vị tạo lấy! Hành đạo Bồ Tát là phải làm lợi ích cho mọi người, giúp đỡ mọi người, chứ không chỉ làm lợi ích cho riêng mình. Phàm làm những việc giúp đỡ người khác, không ích kỷ, tự lợi, đây gọi là tùy hỷ công đức.

Thứ sáu thỉnh chuyển Pháp luân: Chẳng hạn quý vị biết có vị Thầy đó giảng kinh được bèn cùng với mọi người thỉnh vị đó đến giảng kinh. Chủ nhật tuần trước, Quả Phổ và Quả Ninh hai người đến thỉnh ý tôi có thể giảng “Kinh Kim Cang” được không?” Giảng kinh không có vấn đề gì đối với tôi, tôi có thể giảng. Nếu thỉnh vị Thầy khác để giảng một bộ kinh nào đó, việc đầu tiên là người ta sẽ nói đến giá tiền,  đòi hỏi quý vị cúng dường  một số tiền để nghe một bộ kinh. Số là tôi thấy từ trước tới nay ở đất Mỹ này không có Phật Pháp, cũng không thấy có ai chính thức giảng kinh Phật, vốn thật là vì có ai biết giảng kinh đâu. Bảo rằng nơi này nói Pháp, nơi đó giảng Kinh, kỳ thực là giảng xằng xiên sai lạc! Hồi trước mà tôi nói như vậy, có thể quý vị sẽ phản đối tôi và nói tại sao tôi chê người khác không biết giảng kinh? Bây giờ quý vị đã học qua “Kinh Lăng Nghiêm” rồi thì câu vừa rồi tôi nói quý vị mới thấy đúng và không còn cho là tôi đã phê bình sai lầm người khác. Vì sao vậy? Vì bộ kinh đó vi diệu không thể nói bàn, nếu không có công phu mấy mươi năm tu tập, quý vị   thật sự không biết được diệu nghĩa của nó là gì.

Chẳng phải mấy ngày trước tôi có giảng qua câu chuyện con kiến gặm quả dưa hấu sao? Con kiến bò lòng vòng quanh vỏ quả dưa, nhưng chẳng nếm được mùi vị dưa. Đặc biệt ở nước Mỹ nầy đây, có rất nhiều người tự tuyên bố: “Tôi đã nghiên cứu Phật Pháp, tôi là tiến sĩ Phật học, tôi là cái gì đó…cái gì đó….của Phật giáo!” Quý vị chưa xả bỏ được cái “ta”, thì quý vị hoàn toàn chưa hiểu rõ Phật Pháp; nếu quý vị hiểu rõ Phật Pháp thì tại sao cái “Doctor” (Tiến sĩ) kia là cái gì đâu mà không buông bỏ được? Trước đây có cái ông đó, cho là tiến sĩ của quốc gia này, là tiến sĩ của quốc gia nọ, nhưng thực chất  chỉ là để lừa con nít! Chỉ có con nít mới bị mắc lừa. Nếu một khi quý vị thật sự nói lời chân thật, cũng như hôm nay Quả Tiền đến đó nói lời chân thật, mà chẳng có ai nghe ra được lời chân thật.

Bây giờ tôi đã giảng xong “Kinh Lăng Nghiêm”, mới dám nói một chút chân lý cho quý vị nghe, vì quý vị đã có đủ trình độ; nếu như không đủ trình độ, thì khi tôi nói lên những lời chân thật nầy chẳng khác nào nhát quý vị bỏ chạy, nghe một lần không dám quay lại nữa. Vì sao vậy? Vì  vốn là đứa trẻ vô tri vô thức. Nếu quý vị cho đứa trẻ một ít kẹo, nó biết là ngọt; nhưng nói đạo lý cho nó nghe, nó không hiểu gì cả, không có kẹo ăn, nó sẽ không lại! Như tối hôm qua người đó đến nghe kinh, nghe xong một buổi, đến hôm nay không tới nữa, có khác gì trẻ thơ chẳng hiểu ất giáp gì! Phật Pháp chân chánh thì không hiểu, đạo lý chân thật thì không nhận ra, điều này không có gì lạ! Vì đứa trẻ thật sự không hiểu việc, đại chúng ngày nay có thể nói là hiểu được rồi.

“Thỉnh” trong “thỉnh chuyển Pháp luân” là thỉnh những người biết Phật Pháp một cách chân chánh bởi vì họ mới đủ tư cách chỉ cho mọi người con đường đúng đắn trong Phật Giáo. Chẳng phải thấy ai cứ tự xưng biết Phật Pháp, hoặc thấy người đó là tiến sĩ hay cái gì đi nữa là ta chạy theo để học Phật Pháp; không khéo lại giống như trường hợp “mê mờ dạy kẻ mê mờ” như trong chuyện tôi vừa kể. Vậy phải làm sao đây? Như quý vị muốn học nghề thợ mộc, phải đến xưởng mộc học. Muốn học nghề thợ rèn, phải đến lò rèn đập sắt “beng, beng” mới học được phép luyện sắt, mới biết được tính chất của sắt . Bất cứ học thứ gì, chúng ta phải tìm đúng chỗ có nghề đó, hoặc giả học với người chuyên môn về ngành đó. Muốn thỉnh chuyển Pháp luân thì phải kiếm Pháp sư tới giảng kinh thuyết pháp.

Hiện tại, quý vị đây đều là những người vô cùng thông minh; đó là nhờ được ai giáo hóa vậy? Đó là nhờ tiên sinh Kensen. Tiên sinh Kensen là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Đức Bồ-tát đã hóa thân thành một vị giáo sư để dạy cho các học giả nghiên cứu Phật Pháp, rằng họ cần phải theo học Phật Pháp với các bậc Pháp sư một cách đàng hoàng, nghiêm túc. Nếu quý vị không theo học Phật Pháp từ các Pháp sư, quý vị hãy theo tiên sinh Kensen; chính tiên sinh Kensen đã nói: “Các ông nên tìm Thầy để học!” Đó là do tiên sinh hiểu Phật Pháp nên mới bảo những người này chân chánh đi theo con đường Phật giáo; còn đối với những kẻ thích tạo kiểu cách khác lạ, không coi ai ra gì, tự cho rằng mình là người am hiểu Phật Pháp, thì chắc chắn là không tin cậy được! “Thỉnh chuyển Pháp luân” có nghĩa là mời vị Pháp sư giảng Kinh thuyết pháp.

Bảy là thỉnh Phật ở đời: tức là thỉnh Phật thường ở nơi đời. Như bây giờ Phật đã diệt độ, thì phải thỉnh Phật Pháp trụ ở đời.

Tám là thường học theo Phật: Quý vị xem, đức Phật Thích Ca Mâu Ni hành đạo Bồ Tát, xem thân thể của mình như không có, không có thân nầy nữa, nên chúng ta phải học theo (hạnh) Phật.

Chín là luôn thuận chúng sanh: Phải luôn tùy thuận chúng sanh, mong muốn chúng sanh có thể hiểu rõ Phật Pháp.

Mười là hồi hướng cùng khắp: tức là đem tất cả công đức của mình hồi hướng cho hết thảy chúng sanh.

Nay giảng kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”, giảng đến mục “thích danh”, giải thích tên kinh, thì chữ đầu tiên là chữ “diệu”. Chữ “Diệu” nầy quả là rộng lớn, giảng theo chiều ngang cũng là diệu, giảng theo chiều dọc cũng là diệu, giảng nhỏ như hạt bụi cũng là diệu, giảng lớn như cõi nước cũng là diệu. Pháp của đức Phật nói đều là diệu pháp. Diệu pháp nầy bao hàm hết mọi pháp, cho nên toàn thể “Ba tạng, mười hai bộ” đều nằm gọn trong “diệu pháp”.

Tam tạng là gì? Người từng nghe giảng kinh đều biết Tam tạng là gì; người chưa nghe giảng thì không biết. Tam tạng chính là Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Kinh tạng giảng về Định học; Luật tạng giảng về Giới học; Luận tạng giảng về Tuệ học. Đạo lý trong Kinh, Luật, Luận thì bát ngát, không bờ bến, vô cùng vô tận; Công năng của Giới, Định, Tuệ cũng vậy, vô lượng vô biên, vô cùng vô tận. Kinh, Luật, Luận là diệu pháp; Giới, Định, Tuệ cũng là diệu pháp.

Giới, Định, Tuệ thì chúng ta nghe đã quá nhiều, nhưng thử hỏi chúng ta thực hành được bao nhiêu? Thiết yếu là ở chỗ này. Không nên nói “Tôi nghe rồi” để chứng tỏ “Mình đã hiểu Phật Pháp”; mà phải thật  sự dấn thân hành trì, y pháp tu hành, có vậy mới thật sự có chỗ sở đắc. Quý vị biết mà không hành, cũng đồng với người chưa biết. Vì sao vậy? Vì nếu như quý vị biết, sao không thực hành? Sao không chịu bắt tay làm? Giống như biết thức ăn đang ăn là ngon, nhưng quý vị  có ăn bữa ăn đó mới cảm nhận mùi vị của nó. Nếu biết là thức ăn ngon, mà không chịu thưởng thức liền lúc ấy, thì quý vị chỉ đơn thuần biết nó là ngon, trong khi bản thân không cảm được mùi vị thật của nó ngon như thế nào.

Đối với Phật Pháp cũng như thế. Quý vị biết bao nhiêu, thực hành bấy nhiêu, đó mới thật là tu. Nếu quý vị biết mà không hành, như vậy không có lợi ích gì cho Phật Pháp và cho bản thân mình. Giống như người đá, biết nói mà không biết đi. Vì sao không biết đi? Vì là người đá. Người đá tuy có hình người, nhưng bản thân là đá, mà đá thì rất nặng, nên chỉ có thể nói mà không thể đi. Chúng ta là người học Phật Pháp,  cần phải có thể nói và có thể làm, nên nói “Nói là pháp, hành là đạo”, “Nói lời tốt, nói lời diệu, không thực hành, là không  phải đạo”. Chúng ta nhất định phải thực hành một cách chân thật!

Nói đến cái “diệu”, thì có “Tâm pháp diệu, Chúng sanh pháp diệu, Phật Pháp diệu”. “Tâm pháp”, “Chúng sanh pháp”, và “Phật pháp” nầy, nếu chia ra có 3, hợp lại là một, bởi vì chia ra mà nói cũng là diệu pháp, hợp lại mà nói cũng là diệu pháp; ba cũng là diệu pháp, một cũng là diệu pháp.

Vừa rồi nói đến “Ba tạng mười hai bộ kinh”. Ba tạng Kinh, Luật, Luận bao gồm tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ. Còn mười hai bộ kinh, trong kỳ nghỉ hè rồi tôi cũng đã giảng qua. Tôi tin Quả Tiền còn nhớ tên gọi cũng như ý nghĩa đã giảng của “Mười hai bộ kinh”. Để tiết kiệm thời gian, bây giờ Quả Tiền sẽ giảng lại cho đại chúng nghe. (Quả Tiền: Mười hai bộ kinh là: Trường Hàng, Trùng Tụng, Phúng Tụng, Nhân Duyên, Bổn Sự, Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu, Thí Dụ, Luận Nghị, Vô Vấn Tự Thuyết, Phương Quảng, Thọ Ký.)

Vừa rồi, Quả Tiền đã có thể đọc tên mười hai bộ kinh bằng tiếng Hoa, rồi lại dịch ra tiếng Anh, đây cũng là trường hợp không thể nghĩ bàn, một trường hợp vi diệu! Đó cũng là một cái “diệu”! Lý do là Quả Tiền trước đây chưa từng học Trung văn, kỳ nghĩ hè năm nay mới bắt đầu học. Trong thời gian nghỉ hè, Quả Tiền tập viết chữ Hán, tập đọc tiếng Hoa, bây giờ vẫn đang tiếp tục học. Tuy tên của Mười hai bộ kinh nầy, chỉ vỏn vẹn có một số ít chữ, nhưng ý nghĩa rất sâu sắc. Quả Tiền đọc lên bằng tiếng Hoa rồi lại lược dịch ra tiếng Anh, tuy chỉ giảng chút ít, nhưng tôi tin rằng nếu Quả Tiền tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, tương lai nhất định sẽ giảng được nhiều hơn nữa.

Vì sao bây giờ Quả Tiền chỉ nói có chút ít? Vì trong tâm của Thầy có một sự lo sợ. Lo sợ điều gì? Vì có sư phụ ở đây, sợ mình giảng sai. Nếu như giảng  sai thì không chỉ mất mặt với đại chúng, mà sư phụ cũng sẽ có ấn tượng rất không tốt với mình. Vì có tâm lo sợ như vậy, nên quên hết tất cả các ý nghĩa. Sách nói: “hữu sở khủng cụ tắc bất đắc kỳ chánh”, nghĩa là có tâm sợ hãi thì không có được cái chân chánh. Đại chúng ở đây có một số người đã từng nghe Phật Pháp, Thầy sợ mình giảng không viên mãn, nên trong tâm có chút lo sợ. Vốn biết giảng, nhưng biến thành không biết giảng. Sự sợ hãi nầy gọi là gì? Gọi là “Đại chúng uy đức úy” (sợ uy đức của đại chúng). Chính vì trong tâm có sự hãi sợ nầy, nên khi giảng chắc chắn sẽ không viên mãn. Nhưng, đây cũng là một điều rất kỳ diệu; cũng là một trong những diệu pháp.

Vừa rồi Quả Địa nói Thầy chưa học qua đại học, thậm chí còn chưa hoàn tất bậc trung học, nhưng Thầy nói Thầy hiện tại có câu hỏi rất thiết yếu muốn hỏi. Phật Pháp không chú trọng lắm đến vấn đề có học vấn hay không có học vấn, mà chú trọng đến vấn đề có thật tâm hành trì, có công phu chân chánh hay không. Lục tổ Huệ Năng của thiền tông Trung Hoa, không những không học qua trung học, ngay cả tiểu học còn chưa học qua, ngay cả tên mình còn không biết viết, nhưng Ngài lại biết giảng kinh, biết thuyết pháp. Tổ không biết chữ thì làm sao giảng kinh được? Ngài nhờ người bên cạnh đọc dùm kinh văn, đọc từng chữ từng chữ, từng câu từng câu, đọc câu nào giảng câu nấy. Những lời Tổ giảng ra hoàn toàn phù hợp với pháp Phật thuyết, không có chỗ nào trái với lời Phật dạy. Vì sao lục tổ Huệ Năng không biết chữ lại có thể giảng kinh thuyết pháp? Vì Ngài được tâm ấn của Phật Tổ — diệu pháp “Dĩ tâm ấn tâm” (lấy tâm truyền tâm), vì có được diệu pháp ấn tâm nầy, nên pháp Tổ thuyết ra đều là diệu pháp. Những vấn đề Quả Địa vừa hỏi có liên quan trọng yếu đến công phu tu hành.

Lục Tổ Huệ Năng sau khi đắc tâm pháp từ Ngũ Tổ, Ngũ Tổ truyền y bát cho Ngài, Ngài đã sống chung với những người thợ săn suốt mười mấy năm, trong khoảng thời gian nầy Lục Tổ đã làm gì? Tổ dụng công tu hành trong suốt thời gian đó, cuối cũng đã bừng khai đại trí tuệ. Tổ phải trãi qua mười mấy năm công phu, mới có được trí tuệ thực sự. Tôi tin nếu như Quả Địa cũng thực sự hạ thủ công phu như thế, ắt sẽ khai mở trí tuệ. Bây giờ quý vị cảm thấy trong lòng mình có nhiều gút mắc phải không? Sau nầy khi đã khai mở trí tuệ, sẽ không còn vấn đề gì nữa, tất cả mọi gút mắc đều không còn, một chút xíu cũng không, bất kỳ việc gì cũng đều trôi chảy, nhưng với điều kiện phải dụng công tu hành, phải hạ thủ công phu mới được.

Việc tu đạo, thiết nghĩ không nên gấp gút. Người Trung Hoa có câu: “Vô dục tốc, dục tốc tắc bất đạt.” Quý vị làm việc gì đều không nên gấp gút, vì muốn nhanh, tất không đạt. Bất đạt là không đạt được mục đích. Nên nói “căng thì đứt, chùng thì lỏng lẻo, không căng không chùng mới thành công.” Giống như dây cung, căng thì đứt, chùng thì lỏng lẻo. Sợi dây cung nầy, nếu quý vị kéo căng quá, dây cung sẽ đứt, không sử dụng được nữa, bắn mũi tên không đi, đây gọi là “Căng thì đứt”. “Chùng thì lỏng lẻo”, quý vị bắn tên, đã kéo hết dây cung rồi mà mũi tên vẫn không chịu đi, đó là vì dây cung chùng rồi. Vậy phải làm thế nào? Phải chỉnh sao cho không căng, cũng không chùng mới có thể bắn được, mới có thể đạt được mục đích quý vị mong muốn.

Người Trung Hoa cũng có một câu nói như thế nầy: “Kỳ tiến nhuệ giả, kỳ thối tốc (Tiến nhanh thì thối mau).” Nhuệ là tiến lên phía trước rất nhanh; nhưng quý vị tiến nhanh thì thối cũng nhanh. Giống như con phù du, loại côn trùng nầy  sáng sanh, tối mất; sanh ra rất nhanh và chết đi cũng rất nhanh. Chúng ta tu đạo phải chân chánh dụng công, không được rẽ vào lối tắt; vì vào lối tắt là đi theo con đường nhỏ. Phải đi theo con đường lớn, nương theo con đường lớn mà dụng công tu hành. Con đường lớn chính là Lục độ vạn hạnh. Lối tắt chính là bàng môn tả đạo. Quý vị cho rằng men theo lối tắt sẽ đến nhanh, trên thực tế, quý vị không bao giờ đạt được mục đích của mình. Cho nên phải nhất định tu hành theo phương pháp Phật dạy, đây cũng là diệu pháp.

Trung đạo chính là diệu pháp. Xa rời Trung đạo, có còn là diệu pháp không? Cũng là diệu pháp, có điều không phải là Trung đạo. Nói đến đây, tôi nhớ ra một công án.

Vào triều nhà Hán ở Trung Hoa, có hai người, một tên Viên Áng, một tên Triệu Thố, hai người họ đều làm tướng quân trong triều. Viên Áng vì ganh ghét đã bày mưu giết chết Triệu Thố, giống như tình trạng tranh đoạt quyền hành hiện nay. Viên Áng giết chết Triệu Thố rồi, sau lại xuất gia làm tăng. Vì sao ông ta xuất gia làm tăng? Vì ông ta thường thấy ma. Thấy ma nào? Thường thấy Triệu Thố đến đòi lấy mạng ông ta. Ban ngày thấy ma, ban đêm cũng thấy ma. Lúc nầy Viên Áng mới biết mình  đã làm điều lầm lỗi, thế là ông xuất gia đầu Phật. Sau khi xuất gia, kỳ lạ thật? không còn thấy ma nữa! Thế là từ đó ông ra sức tu hành, tham thiền, tĩnh tọa, tu đạo, không lúc nào lơ là!

Lúc đó ông chỉ biết tu là tu! Không nghĩ gì khác. Đời nầy làm tăng không còn thấy ma nữa, nên ông phát nguyện: “Đời nầy tôi đã lầm lỗi giết oan một người, mong rằng đời sau tôi vẫn được làm tăng, không muốn làm quan nữa!” Quả nhiên đời sau ông ta vẫn làm tăng; không chỉ là tăng mà còn là một đại Pháp sư, giảng kinh thuyết pháp khắp nơi, chẳng ham nổi tiếng, chẳng màng lợi danh, cứ thế ra công tu đạo, không tham luyến bất cứ thứ gì. Dụng công tu hành như thế trãi qua 10 đời, đạo đức mỗi đời mỗi trau dồi và theo đó đạo hạnh mỗi kiếp một thăng hoa.

Tu đến kiếp thứ 10, ngài được phong làm Quốc sư—thầy của vua, vua ban cho Ngài một tòa trầm hương—ghế ngồi làm bằng trầm hương. Ở Trung Hoa, trầm hương vốn là thứ gỗ quý nhất, có giá trị nhất; chỉ có vua mới được ngồi ghế làm bằng trầm hương, những người khác, bất luận là quan to đến đâu cũng không được ngồi loại ghế nầy. Vua đã ban cho quốc sư một tòa ngồi như thế, những hoa văn điêu khắc trên thành ghế vô cùng tinh xảo, tuyệt mỹ.

Quốc sư ngồi trên chiếc ghế trầm hương, cảm giác vô cùng thoải mái, liền khởi sanh tâm kiêu mạn nghĩ: “Ôi! Trên thế gian nầy làm Pháp sư như ta phỏng được mấy ai? Mấy ai có được danh phận cao quý như ta vậy? Vua đem ghế trầm hương của mình ban cho ta ngồi. Chao ôi! Thật là tuyệt diệu!”. Nghĩ vậy trong lòng ông không khỏi có ý hãnh diện cống cao,  coi như trên thế gian chỉ có ông là độc tôn thôi! Làm như Phật nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.”

Vừa khởi lên niệm như vậy, oan hồn của Triệu Thố từ 10 kiếp trước liền tìm đến quốc sư! Quý vị nói xem, lần nầy oan hồn Triệu Thố trở về như thế nào? Trong thoáng chốc, một mụt ghẻ mặt người đã hình thành trên gối quốc sư; mụt ghẻ nầy có miệng, mũi, mắt, tai, lại còn biết nói chuyện. Quý vị nói xem, quý vị đã từng gặp qua loại bệnh kỳ quái nầy chưa? Bất kỳ chứng ung thư nào bây giờ cũng không có kỳ quái như vậy. Trên gối nổi lên một cái đầu người, có diện mạo của người, còn biết nói chuyện, thường cùng nói chuyện với quốc sư. Nói điều gì thế? Mụt ghẻ nói: “Bây giờ ngươi lại còn muốn tìm cách trốn thoát ta nữa sao? Không có cách nào đâu! Bây giờ ta đang ở cùng ngươi, nhất định phải lấy được mạng ngươi mới thôi!”

Vị Pháp sư nầy là Ngộ Đạt, Ngộ Đạt đã làm Quốc sư! Nhưng bây giờ lại bị một mụt ghẻ mặt người, suốt ngày đêm  đến đòi mạng ông, mà  ông không có cách nào chữa trị. Lúc bấy giờ, muốn niệm chú cũng không có chú để niệm. Đại để như niệm “Chú Lăng Nghiêm”, “Chú Đại Bi”, bất kỳ chú gì cũng đều không linh nghiệm, vì nghiệp chướng của quốc sư quá nặng! Xưa nay niệm chú vốn linh nghiệm, nhưng do khởi lên một niệm cống cao, oan gia liền đến đòi nợ; oan hồn đã tìm gặp Ngài,  và gá theo Ngài; cũng do khởi tâm ngã mạn, Hộ pháp bỏ mặc, không thèm đoái hoài, nên niệm bất kỳ chú gì cũng không hiệu nghiệm!

May thay, lúc ấy có tôn giả Ca Nặc Ca cứu Ngài. Nguyên là năm xưa tôn giả bị bệnh, ung nhọt đầy người, lở loét tươm mủ, chảy nước vàng, sinh dồi bọ, vừa dơ dáy, lại vừa hôi thối; Ngộ Đạt đã hết lòng chăm sóc, phục vụ thuốc thang cho đến khi tôn giả lành bệnh. Vị tôn giả Ca Nặc Ca nầy thật sự có bệnh hay không? Không có! Tôn giả chỉ cố ý hiện ra tướng như thế là muốn độ cho quốc sư Ngộ Đạt và Ngộ Đạt đã hết lòng đối với tôn giả.

Lành bệnh rồi, tôn giả Ca Nặc Ca dặn dò Ngộ Đạt: “Bất kể sau nầy có gặp đại nạn, hay vấn đề gì không thể giải quyết, Ngài nên đến đất Tứ Xuyên tìm tôi, nhất định tôi sẽ có cách giúp Ngài!” Lúc nầy, Ngộ Đạt mắc phải mụt ghẻ mặt người, không còn cách nào khác, liền đến Tứ Xuyên tìm tôn giả Ca Nặc Ca. Tôn giả dùng “Nước tam muội” rửa ghẻ cho quốc sư. Ô! Mụt ghẻ mặt người đã biến mất! Không còn việc gì nữa! Cho nên chúng ta là người tu đạo, bất luận như thế nào cũng không được sanh tâm cống cao ngã mạn.

Diệu pháp gồm Tâm pháp diệu, Chúng sanh pháp diệu và Phật Pháp diệu; Tâm pháp cũng là Chúng sanh pháp; Chúng sanh pháp cũng là Phật Pháp; Phật Pháp cũng là Tâm pháp. Ba pháp nầy cũng là một, một pháp nầy cũng là ba. Vì sao lại nói như thế? Bởi vì là diệu. Cho nên quý vị giảng nó là ba cũng được, giảng nó là một cũng được.

Ở trên, tôi đã giảng tổng quát về ý nghĩa của “Tâm diệu pháp”.

D2. Giải thích “Chúng Sanh Pháp Diệu”

Bây giờ giảng đến “Chúng sanh pháp diệu”. Tại sao gọi là ”chúng sanh”? Tất cả những loài có mạng sống gọi chung là chúng sanh. Có tất cả  bao nhiêu loại? Có thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, tổng cộng là 12 loại chúng sanh. Mười hai loại chúng sanh nầy, trong mỗi một loài lại có vô số khác biệt.

Như nói về noãn sanh. Trong những loài sanh ra từ trứng cũng có muôn vàn sai biệt, có loại nở ra biết bay, có loại không biết bay; trong loại biết bay lại có nhiều đến ngàn vạn, thậm chí không có người nào có thể nhận biết hết về một loại nầy, hoàn toàn không thể phân biệt ra rõ ràng. Quý vị nói xem, đây có phải là diệu hay không? Phân biệt như thế nào cũng không rõ được, đã là diệu; mà quý vị có thể phân biệt rõ được, đây há cũng chẳng phải là diệu ư? Chủng loại trong loài noãn sanh đã như thế, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, tất cả các chúng sanh cũng đều như thế.

Thai sanh, con người là thai sanh, tất cả súc sanh cũng từ thai sanh. Như vậy noãn sanh từ đâu mà có? Trong “Kinh Lăng Nghiêm” đề cập, noãn sanh có từ tưởng; “Noãn nhân tưởng thành”, vì có “tưởng” nầy nên mới có noãn sanh. Còn thai sanh? “Thai nhân tình hữu” (Thai sanh có từ tình), vì có “ái tình” nên mới có thai sanh. Ái tình nầy, mọi người đều cho là điều hạnh phúc nhất; trên thực tế, trong cái hạnh phúc nhất đó lại là cái khổ đau nhất.

Bây giờ ở nước Mỹ có rất nhiều người giác ngộ, hiểu được ái tình là mất tự do; tuy nhiên, vừa hiểu được một chút sự mất tự do này , thì lại hiểu sai về tự do, chỉ biết theo một phía. Vì sao nói như thế? Có một số thanh niên nam nữ chủ trương tùy tiện đối với việc tình cảm, tùy tiện kết hôn, tùy tiện ly hôn, nói đây là “Tự do”, kỳ thực chỉ là một thứ “Tự do lầm lạc”! Trai chẳng chịu kết hôn, gái cũng chẳng chịu kết hôn, tùy tiện đi lại, như vậy cho là tự do. Đây không chỉ là không tự do, mà còn là sai lầm trong sai lầm! Vì sao vậy? Vì nếu đã kết hôn, tuy có ràng buộc thật, nhưng đó là lẽ “Nam nữ cư thất, nhân chi đại luân”, nghĩa là nam nữ có gia thất là đạo thường của con người và cũng là nguyên lý của trời đất, là thiên kinh địa nghĩa. Nếu không kết hôn mà chủ trương tùy tiện chính là hiểu sai nghĩa tự do.

Sống tùy tiện như thế là muốn như thế nào? Chính là muốn kết liễu tính mạng sớm, muốn hủy hoại thân thể của mình nhanh hơn. Hủy hoại thân thể thì sẽ như thế nào? Sẽ chết nhanh một chút. Quý vị làm cho thân thể mình suy nhược, như hiện nay có một số thanh niên nam nữ, để tóc thật dài, tùy tiện làm hành vi đồi bại đó—không phải tôi chưởi họ, chứ họ thật không bằng loài heo chó! Heo chó còn có lúc, còn những người nầy, ban ngày, ban đêm gì cũng lôi nhau vào phòng tà dâm, thậm chí biểu diễn công khai. Quý vị nói xem, đây há chẳng phải là hiện tượng đạo đức xã hội ngày một suy đồi, càng sống càng sa đọa sao? Thật là lầm lạc! Phải nhanh chóng cứu vãn tình hình nầy, nếu như không cứu vãn kịp thời, sẽ di hại rất lớn!

“Thai sanh do tình mà có” (Thai nhân tình hữu) này, bất luận là người hay súc sanh có mặt trên đời đều vì có loại tình nầy. Vì sao súc sanh cũng có tình? Đó chính là do điên đảo từ vô lượng kiếp đến nay, tập khí nầy quá sâu nặng. Khi làm người, tâm nặng dục tình, nên đọa lạc vào loài súc sanh; làm súc sanh rồi, vẫn không biết giác ngộ, vẫn giữ tâm dục hẫy hừng. Vừa rồi tôi  chẳng nói sao? loại người không bằng heo chó nầy, thế thì hậu quả sau nầy không biết đi về đâu!

Thấp sanh, hóa sanh từ đâu sanh ra? Cũng đều từ tâm dâm dục; tâm dâm dục nầy quá nặng, cho nên bên trong bất kỳ chúng sanh nào cũng đều có “tình”. Do đó nói “Nghiệp tận tình không thị chân Phật, nghiệp trọng tình mê thị phàm phu” (nghiệp hết tình không chính là Phật, nghiệp nặng tình mê chính là phàm phu); bị tình mê hoặc, đó là chúng sanh; nếu như biết xem tình như rổng không, mới chính là bậc Thánh nhân.

Do đó trong chúng sanh, nhân loại có ngàn vạn sự khác nhau, mỗi một loài súc sanh cũng có ngàn vạn thứ khác biệt. Thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc v.v.. cũng đều như thế; song, tất cả đều không ngoài “diệu pháp”, đều từ “diệu pháp” nầy sanh ra, “diệu pháp” nầy bao hàm tất cả.

Cho nên “chúng sanh pháp” cũng vi diệu, cũng là một “diệu pháp”! Quý vị không nghiên cứu thì không cảm thấy gì cả; song, nếu nghiên cứu, quý vị sẽ thấy rằng mỗi một chủng loại đều có đạo lý riêng của nó. Do đâu mà sanh làm người? Bởi đâu mà làm chó? Vì sao mà làm heo? Vì sao lại phải làm ngựa, làm trâu? Bên trong những vấn đề nầy đều có một “diệu pháp.” Vì sao có một diệu pháp? Vì những đạo lý bên trong này thì đều không dễ gì hiểu thấu được. Không dễ dàng hiểu được, thì đó cũng chính là diệu pháp vậy! Còn như nói rằng: “Tôi hiểu thấu rồi!”; quý vị hiểu thấu được, thì đó cũng là diệu pháp!. Cho nên, “diệu pháp” nầy chính là một thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn. Loại cảnh giới không thể nghĩ bàn nầy, trên phương diện chúng sanh, thì cũng như thế.


D3. Thích “Phật pháp Diệu” (Giải thích về Phật pháp diệu)

 

Tiếp theo, giảng về “Phật pháp diệu”. Cái gì là Phật pháp? Cái gì không phải là Phật pháp? Hết thảy các pháp đều là Phật pháp!  không có  gì chẳng phải là Phật pháp. Vậy Phật pháp gồm có bao nhiêu? Tổng cộng có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn nầy, pháp môn nào vi diệu nhất? Quý vị thử chọn, thử nhìn, thử xét, thử thẩm tra xem pháp môn nào vi diệu nhất? Chọn được, hãy nói cho tôi biết! Nhưng tôi chắc quý vị không thể nói được, vậy để tôi nói cho quý vị: trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn nào cũng là vi diệu nhất!

Lúc trước từng có người hỏi: “Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn nào  hạng nhất, cao nhất?” Tôi trả lời người ấy rằng: “Nếu anh cho rằng pháp môn nào tốt nhất đối với mình, thì pháp môn đó là cao nhất; pháp môn nào không giúp ích gì được cho mình, thì pháp môn đó là thấp nhất.” Điều nầy còn phải tùy thuộc ở căn tánh của quý vị. Đức Phật lập ra tám vạn bốn ngàn pháp môn là để đối trị với tám vạn bốn ngàn tập khí xấu của chúng sanh. Nếu quý vị không có tập khí xấu thì không cần đến những pháp đối trị ấy; còn nếu có tập khí thì, pháp môn nào trị lành được tập khí của quý vị thì pháp môn ấy là hạng nhất. Nên có tám vạn bốn ngàn pháp môn thì có tám vạn bốn ngàn  pháp hạng nhất, thì cũng có tám vạn bốn ngàn  pháp trên nhất, cũng có tám vạn bốn ngàn  pháp cao nhất!

Bây giờ nói đến “Phật pháp diệu”, ta thấy có tám vạn bốn ngàn pháp môn  vi diệu tột bậc. Vì sao nói như thế? Bởi vì “Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp  đều bình đẳng, không có cao thấp _ Kinh Kim Cang). Mỗi pháp đều là phương thuốc, đều là thuốc. Quý vị bị bệnh gì, nên uống thuốc đó. Thuốc nầy là để trị bệnh nầy của quý vị, nếu trị lành bệnh, đó là thuốc tốt; còn như quý vị dùng sai thuốc,  thuốc tốt cũng trở thành thuốc độc.

Vừa rồi có một vị khách đến hỏi: “Ăn thịt có thể khai ngộ không?” Tôi trả lời rằng: “Nếu ông  há miệng một lần mà nuốt trọn con heo, há miệng một lần nuốt trọn một con dê,  há miệng một lần nuốt trọn một con bò, với cái miệng lớn như thế thì có thể; còn như với cái miệng không được lớn như vậy, phải ăn từ từ, thì không có ai dám bảo đảm. Ông có thể một lần nuốt trọn một con lợn, một con dê, một con bò, thì tôi có thể bảo đảm được khai ngộ!”

Nói đến “ăn thịt”, thì có sự tích về Lục Tổ ở chung với đám thợ săn trên mười mấy năm, Ngài cũng “ăn thịt”; nhưng ăn thịt gì? Ăn “rau ở bên thịt”. Nơi đó thợ săn tối ngày chỉ có ăn thịt, không có rau để ăn. Mọi người ăn thịt và nếu không ăn thịt thì chẳng còn đồ gì khác để ăn. Thế là Tổ phải trồng một ít rau, nhưng cũng không dám nấu riêng mà phải cho rau vào nồi thịt nấu chung và đến khi ăn, Ngài vớt rau ăn, nên gọi là “rau bên thịt”. Tuy Lục Tổ Đại Sư ăn rau luộc chung với thịt nhưng ngài là một vị Tổ sư, là người đã khai ngộ thành Tổ Sư, nên ngài ăn thịt hay ăn món gì khác cũng không sao. Chúng ta chưa có được trí tuệ như Lục Tổ, chưa khai ngộ thì chớ nên tham ăn tham uống; thức ăn ngon cách mấy, vào đến bụng rồi cũng trở thành phân thối, có gì hay ho đâu! Tóm lại, Phật pháp cũng chính là diệu pháp.

Nên nói “Tâm pháp là diệu, Chúng sanh pháp là diệu, Phật pháp là diệu!”. Tâm của chúng ta tạo ra đủ mười pháp giới, nhưng mười pháp giới không ở ngoài cái tâm niệm hiện tiền của chúng ta. Ví như chúng ta khởi lên một tâm niệm ác là đã gieo trồng nhân Địa ngục; sanh một tâm niệm ác nữa, lại gieo trồng nhân Ngạ quỷ; sanh thêm một ác niệm sân hận là gieo trồng nhân Tu la; sanh thêm một ác niệm ngu si, gieo trồng nhân Súc sanh. Quý vị khởi lên một tâm niệm thiện sẽ được tái sanh làm Người; khởi lên tâm thọ trì Ngũ giới, tu hành Thập thiện là đã tạo nhân sanh lên cõi Trời; phát tâm tu Pháp môn Tứ đế “Khổ, Tập, Diệt, Đạo” chính là nhân Thanh văn; phát tâm tu Pháp môn Thập Nhị Nhân Duyên chính là nhân Duyên giác; phát tâm tu Lục Độ Vạn Hạnh chính là nhân Bồ tát; phát tâm tu trì tất cả Phật Pháp, mong muốn được đắc quả Phật chính là tạo nhân thành Phật.

Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác thuộc bốn pháp giới của bậc Thánh (Tứ Thánh pháp giới); Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh gọi là sáu pháp giới của Phàm phu (Lục Phàm pháp giới); hợp chung lại thành mười pháp giới. Mười pháp giới bởi đâu mà tạo thành? Chính do từ một niệm hiện tiền của chúng ta tạo ra, cho nên nói “tâm pháp” là một diệu pháp. Tâm pháp mà không diệu, thì Chúng sanh pháp cũng không diệu; Chúng sanh pháp mà không diệu thì Phật pháp cũng không diệu. Vì Tâm pháp diệu nên Chúng sanh pháp cũng diệu, Phật pháp cũng diệu. Mười phương chư Phật không ra ngoài một cái tâm niệm hiện tiền của chúng ta; mười phương chư Bồ tát cũng chẳng vượt ra một tâm niệm hiện tiền của chúng ta; mười phương các Duyên giác cũng chẳng vượt ra một tâm niệm hiện tiền của chúng ta; mười phương các Thanh văn cũng chẳng vượt ra một tâm niệm hiện tiền của chúng ta. Thậm chí cho đến sáu pháp giới của phàm phu: Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh đều không ra ngoài một tâm niệm hiện tiền của chúng ta.

Bàn về chữ “Tâm”, người xưa đã mô tả như sau:

Tam điểm như tinh bố,

Loan câu tợ nguyệt tà,

Phi mao tùng thử khởi,

Tác Phật dã do tha.

Ba điểm như sao sáng,

Móc câu tợ trăng tà.

Mang lông từ đây khởi,

Làm Phật cũng chỗ nầy.

 

Làm Phật cũng từ một tâm niệm hiện tiền nầy. “Kinh Hoa Nghiêm” nói:

Nhược nhơn dục liễu tri,

Tam thế nhất thiết Phật;

Ưng quán Pháp giới tánh,

Nhất thiết duy tâm tạo.

Nếu ai muốn biết rõ,

Ba đời tất cả Phật;

Nên quán tánh pháp giới,

Tất cả do tâm tạo.

Giả như quý vị muốn biết rõ về ba đời tất cả Phật—ba đời tất cả Phật chính là các đức Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai—thì phải xem xét tánh của pháp giới. Diệu pháp nầy, cảnh giới không thể nghĩ bàn nầy thật là vi diệu! Nên mới nói “nhất thiết duy tâm tạo” (tất cả do tâm tạo). Ví như quý vị đến đây nghe kinh cũng là do tâm quý vị muốn đến: “Ở đó có một vị Pháp sư giảng kinh, không biết vị ấy giảng kinh gì? Mình phải đi nghe thử xem!” Trong tâm khởi lên một niệm như vậy, thân liền chạy đi theo tâm; nếu như không khởi lên một tâm niệm như vậy, thì sẽ không đến đây nghe kinh.

Chữ “Tâm” nầy, giảng theo văn tự Trung Hoa thì ba chấm điểm giống như sự  bố trí của những ngôi sao; bên dưới có một dấu móc câu giống như hình mặt trăng thượng tuần mới ló. “Mang lông đội sừng” chính là “súc sanh” có lông, có sừng; làm súc sanh cũng chính từ tâm mà ra. Tuy làm súc sanh là do một niệm tâm nầy, nhưng làm Phật cũng do một tâm niệm nầy, chứ không phải cái gì khác, đều do một tâm niệm nầy làm nên.

Có thể quý vị nghĩ rằng : Đừng nên nói điều gì quá huyền diệu, đạo lý vi diệu quá, mọi người không hiểu. Song, nếu giảng đạo lý không vi diệu lắm, thì mọi người lại lơ là. Cho nên, tôi sẽ giảng về cái không vi diệu lắm. Đó là giảng về cái gì vậy? Giảng về cái việc ăn cơm. Khi người bụng đói, liền muốn ăn cơm, trong lòng nghĩ rằng: “Đói quá! Đói quá! Đến giờ ăn rồi, phải đi ăn thôi, hôm nay ăn món ngon gì đây? Quyết định rồi, liền đi ăn món ấy!” Quý vị nói xem, điều nầy có diệu hay không? Tại sao lại khởi lên tư tưởng nầy? Tại sao lại muốn ăn? Tại bụng đói! Tại sao bụng lại đói? Đây đều là cảnh giới không thể nghĩ bàn!

Tóm lại, khi quý vị “không phân biệt, không suy lường”, đó chính là diệu pháp! Lúc trước tôi có giảng qua, nếu quý vị đến được cảnh giới “không suy lường, không phân biệt”, thì “trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, thoát khỏi mọi căn trần”. Thoát khỏi căn trần chính là lục căn đã không, lục trần đã tiêu. Đó chính là diệu! Quý vị đạt đến cảnh giới nầy, đó là diệu pháp. Không đạt đến cảnh giới nầy, cũng không ra ngoài diệu pháp. Mỗi cử động, mỗi lời nói hành vi của chúng ta hiện tại không gì không phải là diệu pháp; cho nên, giảng sâu cũng là diệu pháp, giảng cạn cũng vẫn là diệu pháp. Diệu pháp đó, pháp pháp đều diệu, chỉ là quý vị hiểu rõ hay không; nếu hiểu rõ thì bất kỳ pháp nào cũng đều là diệu pháp. Nếu không hiểu rõ ư? Thì vẫn có thể nói là diệu pháp, nhưng là phần thô của diệu pháp, là một  phần thô, không phải là  phần vi tế.

Diệu pháp nầy đã giảng suốt mấy ngày rồi, giảng đi giảng lại bao nhiêu lần cũng vẫn chưa giảng xong. Vì diệu pháp nầy không có cách gì có thể giảng hết, nếu có thể giảng hết thì đã không phải là diệu pháp. Nếu như tôi muốn giảng tiếp, chỉ giảng hai chữ “diệu pháp” nầy thôi cũng có thể giảng suốt mấy năm. Nên bây giờ tôi lại đưa ra một ví dụ để hình dung về “diệu pháp”; sự hình dung nầy vốn cũng không xác đáng lắm, nhưng nhờ đây có thể khiến chúng ta hiểu rõ một chút về diệu pháp.

Trước kia có một vị quan, vị quan nầy rất kỳ lạ. Ông ta tin Phật và thuộc lòng “Kinh Pháp Hoa”,. Bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” nầy gồm có hai quyển, với quyển thượng ông vừa xem đã thuộc, thâm nhập kinh tạng, hiểu rõ đạo lý trong đó. Nhưng đối với quyển hạ thì sao? Không  thâm nhập được! Ông không có cách gì hiểu được, và cũng không có cách gì học thuộc.

Câu chuyện này giống như chuyện của Quả Ninh mới xuất gia của chúng ta. Anh ta bảo: “Ây da! ‘Chú Lăng Nghiêm’ nầy là một chướng ngại lớn cho tôi, tôi học như thế nào cũng không nhớ được.” Quý vị không nên “vọng dương hưng thán” trông đại dương mà thở dài ngao ngán cho mình không đủ sức, chớ nên: “Chao ôi! Nhiều như thế! Phải làm sao đây?” Để tôi chỉ cho quý vị một phương pháp, quý vị đừng đọc hết một lượt, mà nên học từng câu từng câu, từng hàng từng hàng; thuộc câu nầy rồi hãy học câu khác, nhớ câu khác rồi hãy học câu kia. Nếu nhớ còn mập mờ thì không nên học tiếp câu kế, chỉ học một câu ấy. Ví dụ như “Nam mô tát đát tha. Tô già đa da. A ra ha đế. Tam miệu tam bồ đà tỏa”, quý vị nhắm mắt lại, đọc nhiều lần, “Ô! Nhớ được rồi!” Đọc lại lần thứ hai và tiếp thêm câu kế: “Nam mô tát đát tha. Tô già đa da. A ra ha đế. Tam miệu tam bồ đà tỏa. Nam mô tát đát tha. Phật đà câu chi sắt ni sam.” Cứ như thế học cho đến hết, more, more, more (càng lúc càng nhiều), có thể học thuộc được. Quý vị chớ tham nhiều, nếu tham nhiều, sẽ nhai không nhuyễn.

Hôm qua tôi nói với ông lão thích ăn thịt mà lại muốn khai ngộ kia rằng: “Nếu như cụ có thể nuốt một lần được cả con bò thì cụ có thể khai ngộ; còn nếu không thể ăn như thế thì cụ sẽ mãi mãi không khai ngộ.” Ông ta vẫn chưa hiểu lời tôi nói, than rằng: “Con thật hết cách!” Ông không có cách, thì làm sao có thể khai ngộ đây?

Ăn thịt mà khai ngộ, quý vị đã thấy có vị Phật nào ăn thịt mà được khai ngộ chưa? Quý vị có thấy vị Tổ sư nào ăn thịt mà được khai ngộ không? Quý vị có thấy vị Bồ tát nào ăn thịt mà được khai ngộ không? Không có! Tại sao quý vị lại muốn làm trường hợp cá biệt như thế? Vừa muốn ăn thịt, lại vừa muốn được khai ngộ. Khai ngộ cái gì đây? Khai ngộ cái việc ăn thịt, nên khoái ăn thịt! Khoái ăn thịt là một loại tâm tham. Ăn thịt của chúng sanh, tương lai sẽ bị quả báo không lành! Quý vị nhìn xem, ông lão thích ăn thịt chúng sanh, tương lai sẽ bị chúng sanh thích ăn thịt ông ta lại; chúng sanh cũng muốn ăn thịt để khai ngộ giống như ông. Ông lão không biết được cái sự nguy hiểm đó, lại còn cho rằng… Tối nay ông lão rút lui không đến, vì ở đây không có thịt để ăn, vì ông cần có thịt mới có thể khai ngộ, không có thịt không thể khai ngộ, do vậy mà tối nay ông vắng mặt. Ông lão nầy đầy mùi rượu. Ôi! Tôi cách ông một khoảng xa, vậy mà hơi rượu vẫn cứ xông đến nồng nặc. Ây! cứ thế nầy thật là nguy hiểm!

Quý vị học “Chú Lăng Nghiêm”, không nên tham nhiều, tham nhiều sẽ nhai không nhuyễn. Quý vị muốn nuốt một lần trọn cả con bò, sẽ không có cách nào nhai được, xương của nó cũng không thể nhai nát. Học “Chú Lăng Nghiêm”, phải học từ từ, không nên thấy nhiều mà ngán, không nên cho rằng: “Biển lớn như thế, nước biển nhiều như thế, làm sao có thể uống hết được?” “Chú Lăng Nghiêm” tuy rất dài, nhưng nếu quý vị chuyên tâm, ắt sẽ học thuộc.

Bây giờ quý vị đã xuất gia với tôi, đệ tử tôi thâu nhận, nhất định phải thuộc “Chú Lăng Nghiêm” và “Chú Đại Bi”; học không thuộc, tôi không nhận cho người đó xuất gia. Hè năm nay, mọi người đều phải thi; thi “Chú Lăng Nghiêm”, chính là lý do nầy vậy. Nếu quý vị học thuộc “Chú Lăng Nghiêm”, tôi cho là quý vị có chút thành tâm; nếu không có chút thành tâm thì gọi là “Lăng bán niên” (ngơ ngẩn nửa năm).  một khi “Lăng (楞)” đã phải “Lăng (愣)” (ngơ ngẩn) mất nửa năm, nửa năm mới thạo.
Bây giờ tôi hạn định cho quý vị trong thời gian ba ngày, bất luận như thế nào cũng phải đọc thuộc được “Chú Lăng Nghiêm”, nếu không thuộc được thì việc quý vị muốn xuất gia có thực hiện được hay không, tôi không bảo đảm. Cho nên bây giờ quý vị thậm chí không ăn cơm, không ngủ nghỉ, mà phải tranh thủ thời gian học “Chú Lăng Nghiêm”. Hồi đó Quả Tuân đã từng bỏ ăn trong mấy ngày luôn, sau thuộc lòng hết chú Lăng Nghiêm. Tại sao Quả Tuân làm vậy? Điều đó biểu hiện sự thành tâm–không ăn gì hết, để bụng rỗng đặng chứa “Chú Lăng Nghiêm”. Đùa vậy thôi, không đến nước quý vị phải bỏ cơm đâu, thân của quý vị to thế nầy, nếu không có cơm vào sẽ khiến nó đói teo tóp lại, sao có thể làm “Cao” tăng được chứ!

“Diệu pháp” nầy, pháp pháp đều diệu, không có pháp nào là không diệu. Tôi giảng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” đã được bao nhiêu ngày mà hai chữ “diệu pháp” cũng chưa giảng xong; nhưng so với Trí Giả đại sư thì không thấm vào đâu! Trí Giả đại sư giảng một chữ “Diệu” suốt 90 ngày tại Nam Kinh. Bây giờ tôi nói cho quý vị biết cái gì gọi là “diệu pháp” ? Cái quý vị biết, cũng là diệu pháp; nhưng cái quý vị không biết, thì đây mới chính là diệu pháp. Diệu pháp nầy chính là sự “không biết”! Quý vị bảo: “Cái ‘diệu pháp’ của tôi là sự ‘không biết’ vậy tôi có thể học được chăng?” Hiện tại chúng ta đương học chính là học cái “không biết”. Không biết cái gì? Không biết khởi vọng tưởng, không biết khởi tâm sân hận, không biết sanh tâm tham, không biết sanh lòng si; phải học cái “không biết” nầy, quăng bỏ tham, sân, si, không cần nó nữa, đây chính là diệu! Nếu như quý vị không buông bỏ được tham, sân, si của mình, đó là “diệu mà không diệu”; còn như có thể buông bỏ được thì “không diệu mà diệu” vậy!

Công án vừa rồi, nói về một vị quan, ông ta cảm thấy rất  quen thuộc với nữa quyển đầu của “Kinh Pháp Hoa”, đã có thể đọc tụng, lại có thể thuộc lòng; trong khi nữa quyển sau thì ông ta không thể nào thâm nhập được, đọc một lần không nhớ, đọc hai lần cũng không nhớ, đọc đến mấy ngàn lần, mấy vạn lần cũng không nhớ. Quý vị nói xem, điều nầy có diệu hay không? Nữa quyển đầu có thể đọc một lần liền nhớ, còn nữa quyển sau thì không, chính bản thân ông ta cũng cảm thấy việc nầy thật kỳ diệu: “Tại sao tôi vừa đọc quyển thượng liền nhớ hết, còn quyển hạ dù có đọc như thế nào cũng không nhớ? Thật là “kỳ diệu” quá đi!” Thế là ông ta bèn đến một ngôi chùa gần đó, trong chùa có một vị Hòa thượng đã khai ngộ, ông ta đến vị Hòa thượng trụ trì nầy cầu xin khai thị. Do ông ta làm chức rất lớn, rất có thế lực, nên khi đến chùa, hòa thượng trụ trì đón tiếp ông rất mực.

Ông ta thưa với hòa thượng: “Con rất tin Phật Pháp, đặc biệt là rất ưa thích “Kinh Pháp Hoa”, nhưng không hiểu vì sao đối với nửa phần đầu “Kinh Pháp Hoa” con vừa đọc liền thuộc, mãi mãi không bao giờ quên; còn nửa phần sau ư? Con đọc như thế nào cũng không nhớ nổi.  thật sự đây là lẽ gì vậy? Xin Hòa thượng trụ trì khai thị cho con!”

Vị Hòa thượng trụ trì nầy đã chứng được ngũ nhãn, lục thông. Có đầy đủ Phật nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, thiên nhãn và nhục nhãn, nghe cầu thỉnh như thế, Ngài bảo với ông ta rằng: “Tôi có thể nói cho ông biết, có điều ông không được nổi nóng! Vì những lời tôi nói với ông đều là thật, chứ không hề có ý chê bai.” Vị quan kia liền nói : “Đương nhiên rồi, Hòa thượng khai rõ nguồn cơn nhân quả cho con, con làm sao mà nổi nóng được chứ!”

Hòa thượng trụ trì bèn nói: “Kiếp trước ông là một con trâu cày ruộng trong một ngôi chùa, giúp chùa làm việc; vì cày ruộng cho chùa, có công lao rất lớn, công đức rất nhiều. Mỗi năm vào ngày mồng sáu tháng sáu là ngày chùa phơi kinh, chuyển tất cả kinh ra bên ngoài phơi, kinh sau khi phơi xong sẽ không dễ sanh mối mọt. Lần ấy vào ngày phơi kinh, ông mon men đến chỗ phơi kinh, lấy mũi đánh hơi, ngửi vào bộ ‘Kinh Pháp Hoa’. Vì ông lập công giúp chùa canh tác, cho nên đời nầy sanh ra được làm quan.” Quý vị đừng tưởng rằng cứ làm nên quan thì đều là người cả; mà có thể kiếp trước họ là ngựa, trâu, dê, gà, chó, heo, loại gì cũng đều có. Chẳng qua ông ta kiếp trước lập được một chút công, cho nên kiếp nầy được  làm quan quản lý hành chính.

Vị quan nầy vừa nghe xong, liền hỏi: “Thế tại sao con đối với phần đầu bộ “Kinh Pháp Hoa” lại có sự quen thuộc như vậy?” Hòa thượng liền bảo: “Vì ông chỉ dùng mũi ngửi nửa phần đầu, nửa phần sau ông không ngửi đến; cho nên bây giờ ông đối với nửa phần đầu bộ “Kinh Pháp Hoa” cảm thấy rất quen thuộc, nửa phần sau không hiểu gì cả, dù có đọc cũng không nhớ, chính là do nguyên nhân nầy vậy.” Vị quan chức nghe xong, về sau càng thêm tinh tấn, ủng hộ Phật Pháp, ủng hộ đạo tràng.

Tin chắc rằng vị quan này kiếp sau sẽ không làm trâu nữa, điều này cũng là một diệu pháp. Quý vị xem, con trâu nầy chỉ dùng mũi ngửi nửa phần đầu bộ kinh, về sau được làm người, nhớ mãi không quên. Có người hỏi: “Đó là đạo lý gì?” Tôi cũng chẳng biết. “Diệu pháp” chính là ở chỗ đó! Nếu như quý vị khăng khăng muốn biết vì sao, bảo: “Để tôi thử nghiệm xem nguyên lý nầy rốt cuộc là như thế nào.” Việc nầy không giống như một hiện tượng hóa học, quý vị không có cách nào thử nghiệm được. Nếu quý vị muốn biết nguyên lý ấy, phải chuyên nhất tâm ý, dụng công tu hành; đến khi đạt được ngũ nhãn, lục thông, quý vị sẽ hiểu được nguyên lý nầy, hiểu được diệu pháp nầy.


D4. Dùng “Lục Tức Phật” giải thích “Diệu Pháp” 

Về vấn đề “cái diệu của tâm pháp, cái diệu của chúng sanh pháp và cái diệu của Phật pháp”, nay chúng ta sẽ y chiếu theo “Lục tức Phật” của tông Thiên Thai để giải thích về diệu pháp. Lục tức Phật chính là: (1) Lý tức Phật, (2) Danh tự tức Phật, (3) Quán hạnh tức Phật, (4) Tương tợ tức Phật, (5) Phần chứng tức Phật, (6) Cứu cánh tức Phật.

Thế nào gọi là “diệu pháp”? “Diệu pháp” chính là quý vị không có cách nào dùng tâm của quý vị để suy lường nó được, không có cách nào dùng lời nói hay ngôn từ để diễn bày nó được; dù có nói cũng không nói hết, có nghĩ cũng không nghĩ thấu. Đây là cái “không thể dùng tâm nghĩ tới, không thể dùng lời bàn đặng”, không thể dùng ngôn ngữ để nghị bàn về nó được. Cái gọi là “Diệu pháp”, ở địa vị Phật không tăng thêm chút nào, ở địa vị phàm phu cũng không giảm tí nào; ở địa vị Phật cũng không tịnh, ở địa vị phàm phu cũng không cấu; ở vào địa vị Phật cũng không diệt, ở vào hàng chúng sanh cũng không sanh. Cái “bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm” là bản thể của diệu pháp. Diệu pháp này ai ai cũng có đủ, chẳng ai thiếu, có điều chúng ta không biết đó mà thôi. Cái đó cũng gọi là “Phật”, là “Lý tức là Phật”. Lý là đạo lý, vì dùng lý để nói, nên chúng sanh chính là Phật. Theo lý nầy thì tất cả chúng sanh vốn có đầy đủ Phật tánh, nhưng không phải nói hiện tại chúng ta chính là Phật. Cái “lý” nầy chính là lý tánh không thể nghĩ bàn. Như Lai Tạng thì “bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng bất biến”; tùy theo từng pháp, nhưng pháp nào cũng không rời Pháp giới. “Tâm, Phật và chúng sanh”, cả ba   không sai khác; ở vào hạng phàm phu không giảm, vào hàng Thánh không tăng.

Có thể nói “mọi người đều là Phật”, nhưng chỉ có thể nói là “Lý tức Phật” (về Lý là Phật), chứ không thể nói là Phật. Mọi người chúng ta đến nghe kinh, hiểu rõ lý kinh, hiểu rõ pháp Phật nói, hiểu rõ “tâm mình chính là Phật, Phật cũng chính là tâm”. Sở dĩ Phật nói pháp là vì biết chúng sanh có tâm nầy; nếu chúng sanh không có tâm nầy, Phật sẽ không nói pháp. Quý vị biết tâm tức là Phật, có một tên gọi là Phật, đây chính là “Danh tự tức Phật”.

Quý vị biết rằng tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, nhưng phải dụng công tu hành; nếu như quý vị không dụng công tu hành, chỉ biết suông về “Lý tức là Phật, Danh tự tức là Phật” mà cho rằng mình chính là Phật, thì cũng chẳng có lợi ích gì, nên quý vị vẫn phải tu. Tu nghĩa là gì? Nghĩa là tự tánh chúng ta có Phật tánh, Phật tánh nầy giống như vàng trong quặng mỏ, quý vị phải lấy nó ra, phải dùng lửa trui luyện nó; sau khi được tôi luyện, nó mới thật sự là vàng ròng, mới trở thành vàng thật sự.

Người người là Phật! Không sai! Vàng trong quặng là ví cho “Lý tức Phật”; lấy vàng trong quặng ra gọi là “Danh tự tức Phật”. Tiếp đến quý vị phải gia công trui luyện bằng sự tu hành; dùng lửa luyện vàng, là chỉ cho quá trình tu hành của một người. Thêm một tên gọi mới nữa là “Quán hành tức Phật”. Hành ở đây là phải niệm tiếng “hèng” (橫 ㄏㄥˋ). Quý vị tu hành cũng giống như việc luyện vàng, đang trong quá trình trui luyện, chứ chưa trở thành vàng thật sự, đây gọi là “Quán hành tức Phật”. Quý vị vẫn tiếp tục dụng công tu hành, hoặc ngồi tham thiền, hoặc niệm Phật, tụng kinh. Tuy nhiên, bất luận quý vị tu theo pháp môn nào, đều phải có sự chuyên nhất.

Phải chuyên nhất đến mức độ nào mới được? Tu chuyên nhất đến mức “trong không sáu căn, ngoài không sáu trần”; cảnh giới sáu căn bên trong không có, cảnh giới sáu trần bên ngoài cũng không. Lúc nầy, trong không thân tâm, ngoài không thế giới, vượt thoát căn trần, căn trần rơi rụng, cả căn và trần đều không còn! Đã không có nhân tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng; cũng không có tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai. Ba tâm không có được, bốn tướng cũng toàn không; tu đến mức độ nầy xem như đã đạt được một chút hương vị của “diệu pháp”, nhưng vẫn chưa thực sự biết được mùi vị thật của nó. Đến đây lại có thêm một tên gọi mới nữa là “Tương tợ tức Phật.”

Đến đây vẫn chưa thể dừng lại, vẫn còn phải dụng công tu hành, đến lúc có thể nhìn thấy được “diện mục xưa nay”—trong Thiền tông gọi là “bổn lai diện mục”. Diện mục xưa nay của quý vị có hình dáng ra sao? Nói theo tông Thiên Thai là đạt đến cảnh giới “nhất tâm tam đế”. Tam đế chính là “Chân đế, Tục đế, Trung đế” còn gọi là “Lý chân đế, Lý tục đế, Lý trung đế”. Nói theo pháp môn Tịnh Độ thì các bậc Đại đức đời sau lấy việc niệm Phật đến nhất tâm bất loạn chia làm “sự nhất tâm bất loạn” và “lý nhất tâm bất loạn”; đạt được Tam đế chính là “lý nhất tâm bất loạn”.

Cảnh giới của nhất tâm bất loạn nầy chính là quý vị niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật, âm thanh của câu niệm trở thành nhất thể đến độ gió thổi không qua, mưa rơi không lọt, vang khắp đến ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả đều bao hàm trong một niệm niệm Phật nầy.

Lúc nầy không có núi sông đất đá, phòng xá nhà cửa, không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, chẳng có gì cả; niệm Phật niệm đến mức muốn dừng niệm lại cũng không được, muốn không niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật” cũng không xong, giống như dòng thác từ trên cao đổ xuống, muốn dừng cũng không thể dừng, đây gọi là “nhất tâm bất loạn”, đạt đến “niệm Phật tam muội”; niệm đến mức không niệm cũng tự niệm, cho nên không thể dừng lại được. Quý vị có nói lên: tôi không muốn niệm Phật nữa! Nhưng trong tâm vẫn tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật…”, giống như thác nước chảy ào ào ào… không bao giờ dừng lại. Lúc nầy đây mới thật là diệu! diệu đến mức độ nào? Diệu đến mức quý vị nghe mọi người nói chuyện cũng là âm thanh của câu “Nam Mô A Di Đà Phật”; nghe tiếng gió thổi, nước chảy cũng là tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Nên nói “Thủy lưu phong động diễn ma-ha”, nước chảy, gió thổi đều là diễn bày đại pháp ma-ha. Ô! Quý vị nói xem cảnh giới nầy có mầu diệu hay không? Quá mầu diệu! Đây gọi là “lý nhất tâm bất loạn.”

Quý vị niệm đến LÝ nhất tâm bất loạn, sẽ thấy được Phật A Di Đà, thấy được bốn sắc liên hoa của ao sen bảy báu—hoa sen màu xanh, ánh sáng xanh; màu trắng, ánh sáng trắng; màu vàng, ánh sáng vàng; màu hồng, ánh sáng hồng. Ô! Hoa sen bốn màu, phát ra bốn loại ánh sáng, quý vị đều có thể nhìn thấy. Bấy giờ có thể “bách giới thành Phật” (thành Phật ở trăm thế giới ), chứ không chỉ thành Phật trong một thế giới, muốn đi đến nơi nào khác thành Phật đều có thể. Theo pháp môn Tịnh độ, gọi đây là “Lý nhất tâm bất loạn”. Người không hiểu rõ Phật Pháp, nếu nghe được âm thanh thì cho rằng đó là đạt được một cảnh giới (không tệ), kỳ thật điều nầy rất bình thường.

Giống như có một lão cư sĩ đến đây, ông nói ông nghe được âm thanh “boang…” của tiếng chuông và hỏi mọi người xung quanh có nghe thấy không? Vì ông cho rằng đây là một loại cảnh giới, thật ra việc nầy rất bình thường. Nếu như quý vị là người dụng công tu hành, sẽ thấy rất nhiều những cảnh giới kỳ lạ như vậy, nhưng quý vị không nên trụ chấp vào đó. Trong Thiền tông có câu “Phật lai Phật trảm, ma lai ma trảm” (gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma), nghĩa là dầu có Phật đến, quý vị cũng đừng động tâm. Quý vị phải tu cho có định lực, không nên nói: “Ôi! Phật đến rồi, tôi vui quá!” mà khởi lên một loại tâm hân hoan.

Phàm sở hữu tướng,

Giai thị hư vọng,

Nhược kiến chư tướng phi tướng,

Tức kiến Như Lai.

            Phàm tất cả tướng,

            Đều là hư vọng;

            Nếu thấy các tướng không phải là tướng,

            Tức thấy Như Lai.

(Kinh Kim Cang)

Quý vị khởi tâm vui mừng vì điều gì? Khởi tâm vui mừng để làm chi? Trong khi tất cả những gì có hình tướng đều là hư dối. Ngay nơi cái hữu tướng quý vị nhìn ra được cái không tướng, đây gọi là “chân không”; Lại ngay nơi cái không nầy nhận ra được cái có, gọi là “diệu hữu”. Ồ! “Chân Không vốn chẳng phải không, Diệu Hữu cũng chẳng phải có”; quý vị nói, đó là diệu hay không diệu? Đạt đến đây được gọi là “Phần chứng tức Phật”. Phần là “một phần”; chứng là “chứng đắc”. Tuy gọi là Phần chứng tức Phật, nhưng vẫn chưa đạt đến cứu cánh, cần phải giống như gì nữa? Giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni dưới cội bồ đề, đêm nhìn sao sáng trên trời mà ngộ đạo, thấu triệt căn nguyên các pháp, chứng đắc rốt ráo; đến đây có thêm một tên gọi nữa là “Cứu cánh tức Phật”. Lúc nầy mới thực sự chứng được bản thể của diệu pháp.

Trên là dùng luận lý “Lục tức Phật” để giải thích diệu pháp.

Diệu pháp chính là không suy lường; cảnh giới không phân biệt, ấy chính là diệu pháp. Hiện giờ Quả Ninh học “Chú Lăng Nghiêm”, chú rơi vào trạng thái suy lường phân biệt, càng suy lường càng học không thuộc, càng phân biệt càng không hiểu rõ. Quý vị không cần phải băn khoăn tự hỏi tại sao tôi không nhớ được “Chú Lăng Nghiêm”. Đừng có nghĩ gì cả, chỉ một lòng đọc và đọc! Học thuộc Chú Lăng Nghiêm, mình coi đó là bổn phận của mình, nên mình không nên học với lòng suy lường phân biệt. Lòng “phân biệt” nầy chính là thức thứ sáu, “suy lường, tính toán” là thức thứ bảy; thức thứ bảy chuyên về suy lường, thức thứ sáu chuyên về phân biệt, đây chính là lỗi lầm mà A Nan đã phạm phải. Vì sao A Nan phạm phải sai lầm này? Vì A Nan luôn chuyên về đa văn, chưa kiêm toàn đạo lực. Nếu quý vị muốn nhớ được “Chú Lăng Nghiêm”, phải dẹp bỏ cái tâm suy lường phân biệt đi, không nên giữ chúng lại. Chớ dùng thức tâm học Phật Pháp, mà phải dùng chân tâm để học. Chân tâm, chính là không được suy lường, tính toán vậy!

Nói đến diệu pháp, diệu thì diệu, nhưng rất ít người biết áp dụng. Xưa có cư sĩ họ Bàng, sau khi được khai ngộ, Bàng cư sĩ liền khởi lên suy nghĩ: Ôi! Từ vô thỉ kiếp đến nay, trôi lăn sanh tử, nay mới được tỏ ngộ, thật là một việc chẳng dễ dàng! Nên ông thốt lên: “Muốn hiểu rõ pháp môn diệu pháp nầy thật là khó! Khó! Khó! Khó hơn cả việc rải 10  gánh mè lên cây.” Muốn hiểu rõ diệu pháp thật là khó, ông thốt đến ba lần “khó”. Khó như thế nào? Vì hạt mè rất nhỏ, vác  mè  rải lên cây, quý vị nói có khó hay không? Trên cây vốn là nơi không bằng phẳng, quý vị  rải một hạt mè, nó cũng sẽ lăn xuống đất; trong khi ở đây đến  mè, quý vị nói xem phải mất bao nhiêu thời gian mới  rải xong? Chà! Thật chẳng dễ chút nào.

Vì quý vị muốn tu hành, muốn sửa đổi lỗi lầm, nhưng cứ phạm sai lầm mãi; quý vị không muốn nổi nóng, sao cứ có việc xảy ra, giống như trắc nghiệm quý vị, xem quý vị có sân hận hay không? Thí như muốn không uống rượu, phải cữ rượu thôi! Thế nhưng có vài người bạn đến rủ quý vị đi uống rượu, “Ây da! Đây là lần cuối cùng, uống lần nầy thôi, không uống nữa!” Vốn không muốn uống, nhưng lại muốn uống thêm một lần. Hôm sau có một người bạn đến trách: “Nó mời anh, anh đi uống ngay; tôi mời anh, anh lại không nể mặt, thế là không được!” lại kéo nhau đi làm một chầu. Muốn bỏ rượu cũng không dễ, huống hồ chi quý vị vốn có biết bao nhiêu là thói hư tật xấu, muốn dứt bỏ nó, không dễ tí nào! Khó như “rải mười  gánh mè lên cây” vậy.

Bàng cư sĩ tự nhủ với mình như thế, tự mình nghiền ngẫm về vấn đề nầy. Cư sĩ có một người vợ, cũng khai ngộ như ông; không chỉ Bàng ông, Bàng bà đã khai ngộ, mà cả cậu con trai, cô con gái cũng đều khai ngộ đấy! Người vợ khai ngộ của Bàng cư sĩ bảo chồng rằng:

–         “Mình nói khó phải không? tôi thấy không khó!”

–         “Vì sao không khó?”, Bàng cư sĩ hỏi.

–         Người vợ trả lời “Theo tôi, đạt được diệu pháp, dễ! dễ! dễ! Trên trăm đầu ngọn cỏ đều là ý Tổ sư.”

Quá dễ, dễ quá, dễ vô cùng! Dễ  như thế nào? Tất cả mọi cây cỏ đều là pháp môn tâm ấn của Phật, đều là diệu ý của Tổ Đạt Ma từ Tây Vực đến; tâm của Tổ sư đều ở trên trăm đầu ngọn cỏ kia. Bà lại bảo: “Thúy trúc hoàng hoa, vô phi bát nhã” (Trúc biếc hoa vàng, không gì chẳng phải là bát nhã). Nói đến trúc và hoa đều là biểu hiện của trí tuệ bát nhã. Tô Đông Pha cũng nói: “Khê thanh tận thị quảng trường thiệt, sơn sắc vô phi thanh tịnh thân” (tiếng suối reo đều là tướng lưỡi rộng dài, sắc màu núi không gì không phải thân thanh tịnh). Màu sắc của núi chính là Pháp thân thanh tịnh, âm thanh suối chảy chính là tướng lưỡi rộng dài của Phật. Trong “Kinh A Di Đà” không phải đã nói sáu phương chư Phật đều xuất “tướng lưỡi rộng dài” đó sao? Đều là tướng lưỡi rộng dài (tướng lưỡi rộng dài là biểu thị luôn nói lời chân thật). Sắc màu của núi đều là thân thanh tịnh. Quý vị nói xem có pháp nào chẳng phải là diệu pháp? “Một cái cây, một ngọn cỏ đều là diệu pháp đó! Có gì khó đâu?” Bàng bà đã nói như thế.

Hai vợ chồng già , một nói “khó”, một nói “dễ”. Còn cô con gái là Linh Chiếu thì lại nói như sau: “Cũng chẳng khó, cũng chẳng dễ! Đói thì ăn cơm, mệt thì ngủ.” Như bảo rằng: Khó ư? Tôi cho là chẳng khó; nói dễ ư? Tôi cho là chẳng dễ. Vì sao ư? Tôi đói thì ăn cơm, mệt mỏi thì ngủ nghỉ, quý vị nói xem có cái gì khó, có cái gì dễ?

Những lời nói trên  nói đến điều gì?  nói đến diệu pháp, mọi cử động trong sinh hoạt hằng ngày, tất cả đều là diệu pháp; cho nên ăn cơm, mặc áo, ngủ nghĩ v.v.. cũng đều là diệu pháp. Thế nào ăn cơm, mặc  áo là diệu pháp? Đối với người tu đạo “Suốt ngày ăn cơm, chưa ăn một hạt gạo; suốt ngày mặc áo, chưa mặc một sợi tơ.” Cả ngày từ sáng đến tối mặc quần áo, nhưng một sợi vải cũng chưa mặc qua, nói như vậy có vọng ngữ không? Không vọng ngữ! Việc nầy là thế nào? Đây là “tâm không màng đến gì cả, nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe, ăn mà không đắm vào mùi vị của thức ăn”. Người như vậy là đạt đến cảnh giới “vô tâm”, ăn cũng như chưa ăn, mặc cũng như chưa mặc, ngủ cũng như chưa ngủ; tuy họ ngủ nhưng giống như tỉnh. Tại sao ngủ lại giống như tỉnh? Vì họ không mê mờ. Chúng ta là những người mê mờ, một khi chìm vào giấc ngủ là nằm mộng, lại còn khởi lên vọng tưởng. Người tu đạo ngủ chỉ là ngủ, lúc ngủ cũng như khi tỉnh đều như nhau, đều sáng suốt.

Vào triều đại nhà Thanh Trung Hoa, có quốc sư Ngọc Lâm, là người rất thông minh. Một hôm, sư phụ bảo Ngọc Lâm trong một ngày một đêm phải học thuộc “Kinh Pháp Hoa”; vì Ngọc Lâm có một sư huynh tên Ngọc Lam, nếu trong hai người, ai học thuộc “Kinh Pháp Hoa” trước, sư phụ sẽ truyền pháp cho người đó. Vị sư huynh nầy của Ngọc Lâm suốt ngày chỉ biết nằm ngủ. Quốc sư Ngọc Lâm nghĩ: “Mình nhất định sẽ học thuộc “Kinh Pháp Hoa” trước, mình nhất định sẽ đứng nhất.” Nào ngờ, khi Ngài học thuộc xong, đi trình với sư phụ: “Thưa sư phụ, con đã học thuộc, sư huynh con sao rồi?” Sư phụ bảo: “Sư huynh con à? Đã học thuộc từ tối hôm qua!”

Sư huynh Ngọc Lam của quốc sư Ngọc Lâm vì sao được như thế? Cảnh giới của Ngài giống hệt như đạo lý Bàng Linh Chiếu nói, tuy ngủ nhưng không phải ngủ, mà là nhập định, ngủ chính là nhập định. Người biết dụng công thì đi, đứng, nằm, ngồi đều là nhập định; ngồi ở đâu, đi trên đường, đứng nơi nào cũng đều đang nhập định, đó là người biết dụng công. Người không biết dụng công, ở đâu cũng chê ồn, ở đâu cũng chê không thanh tịnh. Nếu tâm của quý vị thanh tịnh thì đến đâu cũng thanh tịnh, cho nên Bàng Linh Chiếu nói: “Cũng chẳng khó, cũng chẳng dễ, đói thì ăn, mệt thì ngủ.” Đây đều là biểu hiện của diệu pháp.

Phần trước giảng đến thức thứ sáu và thức thứ bảy. Thức thứ bảy là “tư lượng”; thức thứ sáu là “phân biệt”. Trong “Kinh Lăng Nghiêm”, Phật bảo A Nan: “A Nan , ông thành Phật là do sáu căn, mà đọa lạc cũng do sáu căn”. Sáu căn, sáu trần, sáu thức hợp lại gọi là “ mười tám giới.”

Mười tám giới nầy đều là diệu pháp, đều là biểu hiện của Tánh Như Lai Tạng; nhưng quý vị phải không suy lường (tư lượng), không phân biệt; nếu còn suy lường, còn phân biệt sẽ rơi vào sào huyệt của ý thức. Có một số người khi bảo họ đừng suy lường, họ càng suy lường nhiều hơn; bảo họ đừng phân biệt, họ càng phân biệt nhiều hơn. Không thể chuyên tâm nhất ý thì không thể chuyển thức thành trí được. “Trí” là “thức” được chuyển hóa, là do “thức” mà biến thành; “trí” nầy cũng là một diệu pháp. Ở nơi chúng sanh thì cái trí tuệ sẵn có đã biến thành thức, gọi là “chuyển trí thành thức”, chuyển cái vi diệu thành cái thô thiển.  Chư Phật  thì “chuyển thức thành trí”, chuyển cái thô thiển thành cái vi diệu; thô thì không diệu, diệu thì không thô. Chư Phật chuyển thức thành trí, nên mới có thể từ trong sào huyệt của ý thức đạt được trí tuệ chân chánh, chứng đắc được diệu pháp nầy.

Diệu pháp nầy, nói ra thì vô cùng vô tận; căn cứ vào “Bổn môn”* của đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì diệu có mười loại, “Tích môn” cũng có mười loại diệu. Thế nào gọi là “Bổn môn”? Bổn là “bổn giác”; Tích là “thùy tích”, là dấu vết. Diệu nầy, nếu nói ra thì rất nhiều rất dài, cho nên Đại sư Trí Giả của tông Thiên Thai mới “cửu tuần đàm diệu”, suốt 90 ngày chỉ nói một chữ “diệu”–“tương đãi cũng diệu, tuyệt  đãi cũng diệu, sự cũng diệu, lý cũng diệu”. Chữ “diệu” nầy, nói ra vô cùng! Giảng cho tận chữ “diệu” này, nói tới nói lui cũng chỉ là nói “diệu” nầy thì không thể dùng tâm nghĩ, không thể dùng lời bàn; có giảng tới đâu cũng vẫn không biết, cũng vẫn không hiểu. Tuy nó là “diệu” pháp , nhưng chúng ta vẫn chưa minh bạch, nên bây giờ tôi lại kể thêm một công án, để chứng minh cho đại chúng thấy được cái diệu của diệu pháp.

Trước kia có một hòa thượng, ngày ngày tụng “Kinh Pháp Hoa”, mỗi ngày tụng một bộ. “Kinh Pháp Hoa” có bảy quyển, tôi cũng đã từng thử qua, mỗi ngày chỉ có thể tụng xong một bộ. Hòa thượng tụng “Kinh Pháp Hoa”, thấy trong kinh nói: “Công đức viết ‘Kinh Pháp Hoa’ không thể nghĩ bàn.” Thế là Hòa thượng bắt tay vào việc viết “Kinh Pháp Hoa”, cung kính từng chữ từng nét, không chút cẩu thả, cứ thế viết trọn cả bộ “Kinh Pháp Hoa”, hoàn tất công việc viết kinh.

Khi Hòa thượng hoàn tất công việc viết kinh thì trời đã lập đông, thời tiết ở phương Bắc rất lạnh, Ngài ngâm bút lông vào nước, trong nước liền xuất hiện một đóa hoa sen bằng băng, đóa sen băng nầy mỗi ngày càng lớn càng cao, càng lớn càng to, từ đấy Ngài tự đặt tên cho mình là “Băng Liên hòa thượng”. Quý vị nói xem sự việc nầy có phải là diệu pháp hay không? Ngài dùng bút viết “Kinh Pháp Hoa” xong, sau đó ngâm bút vào nước, trong nước liền xuất hiện một đóa sen băng. Ai bảo hoa sen mọc ra? Làm sao lại có thể mọc ra một đóa sen băng chứ? Đóa sen nầy lại còn lớn dần lên, lúc ấy có rất nhiều người chứng kiến sự việc nầy. Đây là một sự việc có thật hoàn toàn. Quý vị nói xem có phải là diệu pháp hay không?

Lại có một công án khác, cũng liên quan tới cái diệu của diệu pháp, và cũng là một vị Hòa thượng tụng “Kinh Pháp Hoa”. Vị Hòa thượng nầy là một người rất có địa vị ở Trung Hoa trước kia, ông được triệu vào triều tham chánh, nghiên cứu chính sách quốc gia. Hòa thượng không ngồi kiệu, chỉ cỡi ngựa, mỗi lần ngồi lên lưng ngựa khởi hành từ chùa đến hoàng cung, Ngài bắt đầu tụng “Kinh Pháp Hoa”, khi đến triều đình cũng vừa lúc tụng thuộc xong quyển nhất, mỗi ngày Hòa thượng đều tụng như thế.

Vào ngày kia, con ngựa bỗng nhiên lăn đùng ra chết. Trong nhà của một cư sĩ đối diện với chùa vừa cho ra đời một đứa bé trai; trước khi sanh đứa bé nầy, người mẹ mơ thấy một giấc mơ không thể nghĩ bàn. Mơ thấy gì thế? Mơ thấy con ngựa của Hòa thượng cỡi mỗi ngày đi vào nhà và chui vào trong bụng của mình, thế là cô sanh ra đứa bé. Người mẹ nghĩ: “Ồ! Tại sao mình lại mơ thấy con ngựa nầy vào nhà, liền đó hạ sanh đứa bé?” Cô liền bảo người nhà đến ngôi chùa đối diện xem xem con ngựa Hòa thượng thường cỡi còn hay không? Người nhà đi xem mới biết con ngựa của Hòa thượng vừa mới chết. Người mẹ biết đứa trẻ nầy nhất định là con ngựa thác sanh trở lại; thế là sau khi đứa bé chào đời, cô liền mang đứa bé đến chùa cho xuất gia đi tu.

Nhưng đứa trẻ nầy tối dạ vô cùng, ngu si tột bực, dạy nó viết chữ, nó không biết viết; dạy nó nhận mặt chữ, nó không biết nhận; dù dạy như thế nào, nó cũng vô phương biết chữ. Nhưng khi vị Hòa thượng dạy cho “Kinh Pháp Hoa”, không bắt nhìn chữ, Ngài cứ dạy từng câu từng câu như thế, nó lại ghi nhận rất nhanh, nhớ hết cả quyển một. Song, tiếp theo những quyển sau, nó hoàn toàn không thể nhớ được, cũng không thể đọc được, chỉ có thể nhớ được quyển một mà thôi. Vì sao vậy? Vì trong kiếp làm ngựa, vị Hòa thượng nầy ở trên lưng nó đọc thuộc lòng quyển thứ nhất, ngày nào cũng đọc như vậy, cho nên nó có thể nhớ được cả quyển thứ nhất. Điều nầy đủ để chứng minh đứa trẻ chính là con ngựa  tái sanh lại làm người—con ngựa của vị Hòa thượng cỡi, nhờ nghe “Kinh Pháp Hoa”, mà được tái sanh làm người, từ đó suy ra công đức của “Kinh Pháp Hoa” nầy thật không thể nghĩ bàn.

Lại có một câu chuyện tương tự như vậy, chuyện ấy như thế nào? Vào thời nhà Tấn, ở Vân Nam Trung Hoa có một người mang họ Trần, gọi là Trần Đông Uyên, ông rất sùng tín Bồ tát Quán Thế Âm, nên ra tận Phổ Đà Sơn ở Nam Hải triều bái Bồ tát. Triều bái xong, ông gặp được một vị Hòa thượng đang tụng “Kinh Pháp Hoa” tại đó, Đông Uyên liền thỉnh vị Hòa thượng nầy tụng “Kinh Pháp Hoa” để siêu độ cho người mẹ đã quá vãng của mình, cầu cho mẹ xa lìa khổ não, hưởng cảnh an vui; Hòa thượng bằng lòng tụng kinh cho Đông Uyên.

Nhà Đông Uyên có một con trâu, con trâu nầy rất mạnh khỏe, đột nhiên lăn đùng ra chết. Trâu chết, vốn là việc bình thường, nhưng đêm đó trâu báo mộng cho Đông Uyên: “Ta vốn là mẹ của con, vì khẩu nghiệp của mẹ quá nặng, tạo tội ác sâu dầy, nên bị đầu thai làm trâu. Ngày nay nhờ con thỉnh được Pháp sư tụng “Kinh Pháp Hoa” cho mẹ, nên mẹ mới thoát khỏi kiếp trâu, nhưng vẫn còn phải chịu khổ, vẫn còn phải đọa vào địa ngục, con hãy thỉnh Hòa thượng tụng kinh cho mẹ nữa đi!”

Trần Đông Uyên tỉnh mộng, cảm thấy vô cùng kỳ lạ, liền đến núi Phổ Đà, thỉnh Hòa thượng tụng “Kinh Pháp Hoa” tiếp cho mẹ. Có điều, vị Hòa thượng nầy tụng kinh thì tụng rất thành tâm, nhưng chứng nghiện rượu vẫn chưa bỏ được, thỉnh thoảng hớp một vài hớp, rất là tùy tiện. Hòa thượng nghe Trần Đông Uyên nói người mẹ sau khi chết đầu thai làm trâu, trâu chết rồi, thỉnh Ngài tụng kinh siêu độ. Hòa thượng vẫn rất mực thành tâm giúp bà siêu độ; Ngài quỳ trước tượng Phật tụng ‘Kinh Pháp Hoa” cho bà. Hòa thượng dậy thật sớm tụng kinh, khi tụng đến quyển bốn, cổ họng khô rát đến không chịu nổi, muốn tìm nước trà uống, nhưng không có nước; nhìn thấy trong ly rượu mình uống hằng ngày đặt ở đấy vẫn còn một ít rượu, liền cầm lấy uống hết. Uống xong, Ngài tụng tiếp những quyển còn lại. Sau đó, báo với Trần Đông Uyên là đã tụng xong bộ “Kinh Pháp Hoa”.

Thật kỳ lạ, Trần Đông Uyên lại nằm mộng, ông mộng thấy người mẹ làm kiếp trâu đến báo: “Khi Pháp sư tụng ‘Kinh Pháp Hoa’ đến quyển bốn, khắp địa ngục bỗng chói lòa ánh sáng màu vàng kim, khắp nơi đều xuất hiện hoa sen vàng, liền đó mẹ được thoát khổ địa ngục, đang sắp đi đầu thai; bỗng đâu có mùi rượu xông khắp địa ngục, cho nên tiếp theo quyển năm, quyển sáu, quyển bảy đều không có hiệu nghiệm như trước. Con hãy đến thưa với vị Pháp sư ấy, thỉnh Ngài tụng lại cho mẹ một lần nữa!” Đông Uyên tỉnh dậy, liền thuật lại giấc mộng cho pháp sư nghe.

Trước đây vị Pháp sư đó vốn cho rằng uống một hai cốc rượu không có gì nghiêm trọng, nhưng sau khi nghe thuật lại giấc mộng, Ngài biết rằng: Nguyên do là lúc chưa uống rượu, tụng kinh, cảm phát ra ánh sáng vàng kim; sau khi uống rượu, ngay cả ánh sáng bạc cũng không có. Từ đó về sau, vị Pháp sư nầy dốc lòng tu niệm, nghiêm cẩn giữ giới không uống rượu nữa.

Quý vị nói xem sự mầu diệu của “Kinh Pháp Hoa” từ hai câu chuyện trên có thể nghĩ bàn được không? Diệu pháp nầy thật là diệu không thể nói bàn.

Chúng ta là người học Phật Pháp, nghe thấy được sự mầu diệu của “Kinh Pháp Hoa”; súc sanh nghe kinh nghe pháp đều có thể  tái sanh làm người; ngạ quỷ trong địa ngục nghe kinh nghe pháp có thể sanh lên cõi trời. Vì có lợi ích như vậy, cho nên có người y theo cách thức trong kinh, lấy việc niệm tụng kinh điển làm công phu tu hành. Tu thì tu, nhưng không được sanh tâm tự mãn, không nên cho rằng mình tụng kinh có công đức, đến đâu cũng tỏ ra ta đây. Nếu quý vị sanh tâm tự mãn thì không những không có công đức, trái lại còn phí công vô ích, chỉ là gieo trồng được một chút thiện căn mà thôi. Chúng ta là người tu đạo, luôn phải nhớ là không được sanh tâm tự mãn, không được sanh tâm kiêu ngạo, đến đâu cũng phải khiêm cung hòa nhã, không được tự cho mình là nhất, không được cống cao ngã mạn.

Một đoạn trong “Lục Tổ Đàn Kinh” ghi: Có một hòa thượng, pháp danh là Pháp Đạt, tụng “Kinh Pháp Hoa” được hơn ba ngàn bộ, lòng thầm kiêu hãnh. Hòa thượng đến chùa Nam Hoa tham kiến Lục Tổ Huệ Năng, xưa nay tất cả khách Tăng đến gặp trụ trì—Hòa thượng phương trượng, đều phải đắp y, trải tọa cụ, cung kính khấu đầu đảnh lễ. Vị Hòa thượng Pháp Đạt nầy do tự cho mình tụng nhiều “Kinh Pháp Hoa” như thế, bị tâm ngã mạn ngăn che: “Mình tụng hơn ba ngàn bộ ‘Kinh Pháp Hoa’, công đức không phải nhỏ!”. Đến gặp Lục Tổ với tâm kiêu mạn như thế, nên khi khấu đầu, chỉ cúi người, đầu cũng không khấu sát đất.

Lục Tổ hỏi Hòa thượng: “Lễ bất đầu địa, hà như bất lễ? Nhữ tâm trung tất hữu nhất vật, uẩn tập hà sự da?” Tổ nói: Lễ mà năm vóc không sát đất, thì đừng lễ có hay hơn không? Trong tâm ông hẳn có cái gì đó? Bình thường ông làm việc gì? Vị Hòa thượng Pháp Đạt nầy cũng trả lời Lục Tổ một cách rất thẳng thắn là: “Ồ! Bình thường tôi tụng ‘Kinh Pháp Hoa’, tụng được hơn ba ngàn bộ.” Lục Tổ liền nói:

Lễ bổn chiết mạn tràng,

Đầu hề bất chí địa,

Hữu ngã tội tức sanh,

Vong công phước vô tỷ.

Lễ vốn chặt cờ mạn,

Sao đầu không sát đất,

Có ngã, tội tất sanh,

Quên công, phước vô lường.

Đảnh lễ chính là để trừ bỏ đi lòng kiêu ngạo, cống cao ngã mạn của mình; khi khấu đầu, tại sao đầu ông không sát đất? Do ông có “ngã tướng”, nên tội “ngã mạn” liền sanh. Nếu như ông không có tâm chấp vào công đức mình làm, dầu có cũng xem như không có, thì phước đức của ông sẽ vô lượng vô biên. Lục Tổ lại bảo:

Tâm mê Pháp Hoa chuyển,

Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,

Tụng kinh cửu bất giải,

Dữ nghĩa tác cừu gia.

Tâm mê Pháp Hoa chuyển,

Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,

Tụng lâu không rõ nghĩa,

Cùng nghĩa kết thành thù.

Lục Tổ bảo khi tâm ông mê thì ông bị “Kinh Pháp Hoa” chuyển; nếu tâm ông ngộ thì ông chuyển được Pháp Hoa. Chuyển được Pháp Hoa, đây mới là diệu pháp, chẳng diệu mà diệu; bị Pháp Hoa chuyển, đó là diệu mà chẳng diệu. Ông tụng kinh điển rất lâu, đã tụng hơn ba ngàn lần, ông cũng không hiểu rõ, cũng không tỏ ngộ được đạo lý trong đó, như vậy có khác gì với nghĩa lý của kinh mà sinh ra một sự oan cừu? Kinh nầy cùng với tâm ông xưa nay vốn là một, nay ông lại tách thành hai: “A! Tôi có công đức rồi! tôi tụng được nhiều như thế, hơn ba ngàn lần Kinh Pháp Hoa còn gì!” Ngay đây đã có sự chướng ngại. Đó chính là do không hiểu rõ được đạo lý của “Kinh Pháp Hoa”, nên không trừ bỏ được tâm cống cao ngã mạn của ông.

Chúng ta sau nầy, bất luận ai có được công đức gì, không nên sanh tâm kiêu ngạo, tự mãn. Người học Phật Pháp phải luôn có thái độ khiêm cung hòa nhã, không được kiêu ngạo đối với bất kỳ ai, đây là điểm rất quan trọng trong việc học Phật. Hy vọng mọi người không xem lời nói của tôi như gió thoảng ngoài tai, nghe qua rồi quên mất!

* Tích Môn có chữ “tích” là vết tích, liên hệ đến những sự kiện thuộc về lịch sử – có mấu chốt trong thời gian và không gian, còn Bổn Môn thì thuộc về bản thể muôn đời, vượt khỏi thời gian và không gian. Các phẩm trong Kinh Pháp Hoa có chỗ thuộc về Bổn Môn, có chỗ thuộc về Tích Môn.

C2. Thích “Liên Hoa” (Giải thích từ “Liên hoa”)

“Diệu pháp” nầy rất rộng, nếu vẫn cứ giảng về hai chữ “diệu Pháp”, thì không biết đến bao giờ mới giảng tới kinh văn? Cho nên bây giờ tạm thời gác hai chữ “diệu pháp” lại, tiếp đến giảng về “Liên hoa”. Nói đến “Liên hoa” là nói đến một loại hoa hy hữu nhất. Loại hoa nầy là loại hoa nhân quả đồng thời“Hoa khai liên hiện, hoa lạc liên thành” (Hoa nở sen hiện, hoa rụng sen thành). Rễ sen ở trong bùn; cọng sen ở trong nước; còn hoa sen không ở trong nước, cũng không ở trong bùn, mà  vươn lên trên mặt nước. Điều nầy nói lên ý nghĩa gì? Rễ của hoa trong bùn, biểu thị cho “hạng phàm phu thường tình”; cọng hoa trong nước, biểu thị cho “hàng nhị thừa”. Rễ trong bùn, dụ cho “”, phàm phu chấp “có”; cọng trong nước, dụ cho “không”, nhị thừa chấp “không”. Hoa sen thì vượt ra khỏi “không và có”, biểu thị cho lý “trung đạo liễu nghĩa”, không rơi vào “không”, cũng không thiên về “có”. “Không và có”, gọi là “lưỡng biên” (hai bên); không chấp hai bên, đây chính là trung đạo liễu nghĩa.

Tại sao nói “Liên hoa” biểu thị cho “trung đạo liễu nghĩa, đại giáo viên đốn?” chữ “liên” nầy chính là “liên tử” (hạt sen), “hoa” chính là “liên hoa” (hoa sen). Vì hoa sen vừa nở, liền có hạt sen nên gọi là “nhân quả đồng thời”. Hoa nở liền kết thành hạt, biểu thị cho “nhân quả không hai”; nhân cũng chính là quả, quả cũng chính là nhân, nhân như vậy, quả như vậy. “Nhân” là gieo trồng nhân Phật, “quả” là thành tựu quả Phật. Hoa quả đồng thời, cũng biểu thị cho “khai quyền hiển thật” (triển khai phương tiện để hiển bày lý chân thật). Hoa sen nở là “khai quyền”; quyền, chính là phương tiện quyền xảo. Kết thành hạt là “hiển thật”, đại diện cho pháp chân thật; thật, là pháp chân thật không hư dối, đó chính là bản thể lý tánh của thật tướng.

Phật xuất hiện ra nơi đời là vì lẽ gì? Chính là vì giáo hóa cho tất cả chúng sanh được khai ngộ, liễu thoát sanh tử; Phật chính vì vấn đề sanh tử của chúng sanh mà xuất hiện ra nơi đời. Nên trong “Kinh Pháp Hoa” nói: “Phật dĩ nhất đại sự nhân duyên xuất hiện ư thế” (Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra nơi đời).

Thế nào gọi là “đại sự nhân duyên” ? Chính là “vấn đề sanh tử của chúng sanh”, đây là một việc lớn. Có người nói: “Sanh và tử là hai việc mà mọi người đều phải trải qua, lại được xem là một việc lớn hay sao?” Đúng vậy! Mọi người đều phải bị sanh tử, con người có sanh ra, thì phải có chết đi, có sanh ắt có tử, đây là một sự thật rất công bình, rõ ràng và hiển nhiên. Công bình thì công bình, nhưng sanh ra rồi chết, chết rồi lại sanh, sanh ra rồi chết, chết rồi lại sanh, cứ như thế rốt cuộc để làm gì? có lợi ích gì?

Tại Trung Hoa, Trang Tử có một câu nói vô cùng chí lý:

Ngô sanh dã hữu nhai,

Nhi tri dã vô nhai.

Dĩ hữu nhai tùy vô nhai, đãi dĩ;

dĩ nhi vi tri giả, đãi nhi dĩ hỷ.

 

Đời người chúng ta có giới hạn,

Mà tri thức thì không bờ bến.

Dùng cái hữu hạn chạy theo cái vô cùng là nguy thay!

Đã biết thế lại không dừng, càng nguy hơn nữa.

Thế nào gọi là “Ngô sanh dã hữu nhai”? Chính là nói, mạng sống ta có giới hạn, có lúc phải kết thúc, phải đến điểm cuối cùng; trong khi tri thức thì không có điểm dừng. Cái gì gọi là điểm cuối cùng của tri thức? Không có! Dùng sinh mạng có “điểm chung cuộc” nầy để học tập loại tri thức vô cùng đó, thì không có cách nào theo kịp. Nhưng Trang Tử chẳng qua chỉ biết một nửa, mà không biết được cái toàn diện.

Vì sao nói chỉ biết một nửa? Trang Tử chỉ biết sanh mạng có chung cuộc, mà không biết rằng sau cái chung cuộc đó lại có cái bắt đầu. Đó chẳng phải chỉ biết một nửa hay sao? Sinh mạng nầy của chúng ta kết thúc, một sinh mạng mới lại bắt đầu; nhưng con người chỉ biết có kết thúc mà không biết có bắt đầu. Việc nầy cũng giống với cầu Kim Môn (Golden Gate tại San Francisco, Cali  ) trước kia, xe qua lại đều phải nộp phí, nhưng người có trách nhiệm thâu phí lại không biết rằng chỉ thâu một đầu là được, có thể giảm bớt được rất nhiều nhân công, họ chỉ biết điểm cuối cùng mà không biết điểm bắt đầu; chỉ biết con đường nầy mà không biết con đường khác. Bây giờ xe qua lại trên cầu Kim Môn chỉ nộp phí một lần, vừa giảm được người làm, vừa tiết kiệm được thời gian, thật là tiện lợi.

Mạng sống của chúng ta chẳng phải ra đi rồi đi luôn mà không trở lại, cho nên ta có thể lợi dụng sự kiện này để tìm hiểu. Tìm hiểu bằng cách nào? Nếu quý vị biết được mình sanh ra như thế nào, thì cũng có thể hiểu rõ khi chết sẽ ra sao; còn như không biết mình sanh ra thế nào, thì đối với cái chết cũng sẽ mịt mờ. Nên nói: “Đến cũng mê mờ, đi cũng mê mờ”; khi đến không minh bạch thì ra đi cũng không minh bạch. Trong “Luận Ngữ” có đề cập đến: “Quý Lộ vấn sự quỷ thần”, Tử Lộ hỏi Khổng Tử rằng: “Thưa Thầy, con phải dùng cách thức nào để phụng sự quỷ thần?” Khổng Tử bảo: “Vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ?” Chưa phụng sự tốt cho người, làm sao có thể phụng sự quỷ thần? Phải phụng sự con người như thế nào, ông còn chưa hiểu rõ, tại sao lại muốn đi phụng sự quỷ thần chứ? Tử Lộ lại hỏi: “Cảm vấn tử?”, con xin được mạo muội thỉnh giáo Thầy một việc: Chết, mùi vị nó như thế nào? Sự thể ra sao?

Kỳ thực lúc nầy có thể  nói Tử Lộ “hỏi những câu ngớ ngẩn” Khổng Tử vẫn chưa chết, tại sao Tử Lộ dám hỏi Thầy chết như thế nào? Tôi tin rằng tuổi của Khổng Tử lúc nầy cũng không còn nhỏ và cũng chắc chắn rằng ông cũng sợ chết nên mới nói: “Vị tri sanh, yên tri tử?” Con còn chưa biết sống như thế nào, làm sao biết chết ra sao? Câu này chứng minh Khổng Tử cũng không muốn chết, Khổng Tử có tướng trường thọ, nên sống đến 73 tuổi. Khổng tử nói “chưa biết sanh, làm sao biết chết”, “sanh” quý vị hoàn toàn mơ hồ, làm sao biết được chết thế nào? Điều nầy chứng tỏ quý vị sanh như thế nào thì sẽ chết như thế ấy. “Sanh như thế nào?” A! Đây là nói tới cội rễ của vấn đề rồi! Quý vị nên lưu ý điểm này!

Cội rễ của vấn đề là gì? Con người do  ái dục sanh ra, nên cũng do ái dục mà chết đi. Nếu không có ái dục, quý vị sẽ không sanh ra; nếu không có ái dục, quý vị sẽ không chết đi. Sở dĩ chúng sanh có sanh tử, đều do có tâm ái dâm dục nầy; tâm ái nếu được đoạn trừ , sanh tử cũng sẽ chấm dứt. Nhưng Tử Lộ không hề biết vấn đề nầy, Khổng Tử cũng không đề cập đến, chỉ nói một cách chung chung là “chưa biết sanh, làm sao biết tử?” Sanh, quý vị hoàn toàn không biết vì đâu sanh, thì làm sao biết được vì đâu chết? Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị biết đây là một vấn đề vô cùng thiết yếu, đây là vấn đề sanh tử. Chư Phật chính vì vấn đề sanh tử của chúng sanh, nên mới đến thế gian nầy.

Giảng đến vấn đề sanh tử nầy, tôi sẽ kể lại cho quý vị nghe một công án. Công án nầy, lúc trước tôi đã có giảng qua; giảng rồi, bây giờ giảng lại, giống như ăn thức ăn, phải nhai đi nhai lại, mới thưởng thức được hết mùi vị của nó.

Có một phú ông giàu có vô cùng, đại khái  nếu không phải là một trong mười người giàu nhất thế giới  thì cũng là một trong trăm người giàu nhất. Phú ông nầy không chỉ có nhiều tiền, lại còn cưới được một cô vợ rất đẹp, sinh ra hai đứa con trai rất thông minh. Vì là người có tiền, nên một đời ông không biết đến ai cả, không biết đến cha mẹ, không màng đến anh chị em; vậy ông biết đến cái gì? Chỉ biết có “tiền”. Ông ta đối với tiền rất mực thân thiết, tiền là bạn thân nhất của ông, giống như cốt nhục chí thân vậy, nên chỉ biết có nó. Phú ông nầy nói gì, quý vị biết không? Ông nói: “Thiên mệnh chi vị tiền, suất tánh chi vị tiền, tiền dã giả, bất khả tu du ly dã.” Ông nói cái gì gọi là “mệnh trời?” Mệnh trời là tiền; cái gì gọi là “tánh mệnh?” Tánh mệnh cũng là tiền, cho nên đối với tiền, không thể xa rời dù trong giây phút. “Tu du” là khoảng thời gian rất ngắn.

Thật ra, nguyên văn của câu nói trên trong sách “Trung Dung” như sau:

Thiên mệnh chi vị tánh, suất tánh chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo.

Đạo dã giả, bất khả tu du ly dã, khả ly phi đạo dã.

Mệnh trời gọi là tánh, noi theo tánh gọi là đạo, tu đạo gọi là giáo.

Đạo là cái không thể xa rời phút chốc nào; có thể xa rời được, tức không phải là đạo!

Phú ông đã sửa lại điều Thánh nhân nói trong sách “Trung Dung” và đặt cho hai người con trai cái tên có liên quan đến tiền, gọi là gì? Người con trai lớn gọi là Kim Tử (vàng), người con trai kế gọi là Ngân Tử (bạc). Vàng và bạc đều làm con của ông. Người vợ lại sanh tiếp đứa con trai thứ ba, ông suy nghĩ: vàng có rồi, bạc cũng có rồi, mình sẽ đặt cho nó một cái tên thật là quái lạ, gọi là gì đây? A! gọi là “Nghiệt Chướng”.

Đến khi ba đứa con trai ông trưởng thành, thì tuổi ông cũng đã lớn, ông lâm bệnh. Bệnh gì? Bị bệnh tê liệt, không thể đi lại, chỉ nằm một chỗ trên giường. Bệnh lâu ngày, trong nhà tuy có tiền, nhưng không ai đến chăm sóc ông, người vợ xinh đẹp tuyệt trần cũng lánh xa ông, những đứa con trai rất mực thông minh cũng không thèm ngó ngàng gì đến cha. Bấy giờ ông đành ngậm miệng, tủi hờn: “Ây! Chết nhanh một chút sẽ tốt hơn!” Lại nghĩ: “Chết rồi, một mình đến âm phủ thật là buồn tẻ!” nên bàn bạc với vợ, “Tiền phu nhân”—ông gọi vợ của mình là Tiền phu nhân: “Tôi bị bệnh đã lâu, xem ra không thể khỏe lại được, chi bằng chết sớm một chút sẽ đỡ khổ hơn. Bà có bằng lòng đi theo tôi không?” Người vợ xinh đẹp của ông vừa nghe xong liền cự tuyệt: “Ông chết, làm sao tôi có thể chết theo ông được chứ? Cái chết, không ai có thể thay thế cho ai được. Tôi làm sao có thể chết theo ông? Ông bị bệnh đến phát điên rồi phải không?”

Người vợ không chịu chết theo ông, ông liền đổi mục tiêu, nhắm đến những đứa con trai; liền gọi đứa con trai lớn đến bảo: “Kim Tử à! Từ khi con sinh ra đến nay, cha yêu thương con nhất, con có biết không?” Người con trai lớn trả lời: “Con biết, đương nhiên là con biết cha yêu thương con nhất!” Người cha tiếp: “Cha yêu con nhất, bây giờ cha sắp chết, con có chịu đi theo cha không?” người con trai vừa nghe xong: Hả! cha, sao tự nhiên lại kêu con chết theo cha. Con trai tiếp: “Cha à! Cha thật quá hồ đồ! Cha già như thế, đương nhiên là phải chết; con còn trẻ như vầy, làm sao có thể chết được chứ? Cha như thế nầy là yêu thương con sao? Nếu như cha thật sự thương yêu con, thì không nên bảo con chết theo mới phải!” Nói xong, bỏ chạy, trốn đi thật xa.

Đứa con trai lớn Kim Tử không chịu đi theo, ông lại gọi đứa con  trai thứ hai đến bảo: “Ngân Tử à! Cha yêu thương con nhất, nhưng bây giờ cha sắp chết rồi, con có chịu chết theo cha không?” Đứa con thứ hai vừa nghe cha nói thế, liền xỉ vả: “Cha! Ông thật là lão già lẩn thẩn! Ông sắp chết rồi, sao còn bảo tôi chết theo chứ?”

Nghe vợ con từ chối thẳng thừng như thế, ông thật hết cách! Đứa con trai đầu, đứa con trai kế và cả người vợ đều không chịu đi theo ông, thế là ông gọi đứa con trai út, Nghiệt Chướng, lại bảo: “Tuổi con nhỏ nhất, nên cha cũng yêu thương con nhất. Cha sắp chết rồi, cha chết thì không sao, nhưng cha không nỡ xa con, phải làm sao đây?” Lần nầy ông không dám bảo con trai chết theo mình, nhưng đứa con nhỏ nầy của ông rất mực thông minh, rất hiểu ý người khác, nó liền trả lời cha rằng: “Cha, cha sắp chết, cha cứ yên tâm, không sao đâu! Cha yêu thương con nhất, con sẽ đi với cha, sẽ chết theo cha!” Người cha già nghe xong, vô cùng vui mừng: “Cha thật không uổng công thương yêu con, con tuy nhỏ, nhưng vẫn là Nghiệt Chướng tốt nhất!  Xưa nay cha đã hết lòng thương yêu con, bây giờ cha mới biết, con thật hiếu thảo với cha, chịu cùng chết theo cha.”

Quý vị xem! Người vợ xinh đẹp không chịu chết theo chồng, đứa con trai lớn Kim Tử, con trai kế Ngân Tử cũng không chịu chết theo cha, chỉ có đứa con trai nhỏ nhất, quỷ Nghiệt Chướng muốn cùng chết với cha, theo cha đi vào địa ngục. Nên mới nói:

Vạn ban tương bất khứ,

Chỉ hữu nghiệp tùy thân;

Đản niệm A Di Đà,

Vãng sanh Cực Lạc quốc.

 

Mọi thứ chẳng mang theo được,

Chỉ có nghiệp theo mình,

Duy niệm A Di Đà,

Sanh về cõi Cực Lạc.

“Vạn ban”, là tất cả vàng bạc châu báu; “tương bất khứ” là không mang theo được. Bất cứ Cái gì cũng không mang theo được, duy chỉ có nghiệp chướng quý vị tạo—nghiệt chướng; những nghiệp thiện, ác quý vị tạo sẽ theo sát quý vị như hình với bóng. Nếu nghiệp theo mình như thế, quý vị phải nên như thế nào? Chỉ cần nhất tâm niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” sẽ được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, không còn phải chịu khổ luân hồi trong sáu nẻo. A! Đặc biệt, nếu quý vị là người muốn phát tài, đến thế giới Cực Lạc rồi,  đất là vàng ròng, muốn dùng bao nhiêu cũng có. Quý vị xem! Đến đó rồi không còn người nghèo nữa, vàng ròng nhiều như đất, đó chẳng phải giàu sang tột bậc sao? Nếu như phú ông kia giác ngộ, chỉ cần niệm “A Di Đà Phật”, sẽ được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, thì đứa con trai vàng, con trai bạc cũng đi theo ông, ông sẽ  không còn đau buồn cô đơn nữa.

Tại sao tôi lại nói công án nầy? Con người chúng ta sanh ra ở đời, phải kịp thời làm việc tốt. Còn được hơi thở, còn được sức khỏe, nên làm việc tốt; đừng đợi không còn hơi sức mới muốn làm, e không kịp nữa. Chúng ta nhờ căn lành gieo trồng từ kiếp trước, nên kiếp nầy phải gắng vun bồi phước huệ.

Hãy nói  về công án của chúng ta. Đó là công án gì? Đó là về việc xây chùa. Xây chùa không phải là ở bất kỳ địa điểm nào cũng có thể xây được, mà nhất định phải là nơi có “chân sơn, chân thủy.” Thế thì, hiện giờ ở Montana ,  Quả Chương vừa gặp tôi thì liền nảy ra ý định muốn tặng một phần đất đai trong khu nông trại của cha mình để xây chùa, và nay  đến lúc thực hiện việc đó. “Tùng địa dũng xuất Đa Bảo Phật tháp” (tháp của Phật Đa Bảo nổi vọt lên từ mặt đất), bất cứ thứ gì cũng đều “tùng địa dũng xuất” cả!

Trước kia, Phật giáo Nhật Bản cũng đã truyền đến nước Mỹ nầy rất lâu, Phật giáo của các nước khác cũng có mặt tại đây, duy chỉ có pháp môn “dĩ tâm ấn tâm” chánh tông của Tổ sư Đạt Ma, đến nay mới chính thức truyền đến nước Mỹ. Phật giáo của một số nước truyền đến Mỹ trước kia, thật có, giả có, nửa thật nửa giả có. Vì sao lại có những trường hợp nầy? Nói chung, tất cả đều là lót đường cho Phật giáo chân chánh. Nên bây giờ hạt giống Phật giáo cần phải được gieo trồng! Gieo xong, tương lai sẽ cho ra đời một số Phật tử mới của Phật giáo mới, những Phật tử mới nầy cũng cần có chỗ để ở, cho nên bây giờ chúng ta phải xây chùa cho họ. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói: “Phật tử trụ trì, thiện siêu chư hữu, năng ư quốc độ, thành tựu oai nghi; tùng Phật chuyển luân, diệu kham di chúc” (Con Phật  trụ trì, khéo vượt các cõi, , có thể đến các quốc độ,  thành tựu oai nghi; chuyển bánh xe Pháp, kham nhận thực hành di chúc của Phật)

Hiện giờ trong chúng ta đây có hai người muốn xuất gia, bất luận người nào muốn xuất gia, đầu tiên đều phải học thuộc “Chú Lăng Nghiêm” và “Chú Đại Bi”. Tôi dùng “Chú Lăng Nghiêm” và “Chú Đại Bi” làm đề mục khảo nghiệm hàng đầu. Nên ai muốn xuất gia, đầu tiên phải học thuộc “Chú Lăng Nghiêm”; sau khi học xong, tôi khảo nghiệm, thấy đạt tiêu chuẩn, mới cho xuất gia.

Hôm nay xây dựng chùa nầy, cốt để làm cơ sở đạo tràng căn bản nhất cho Phật giáo tại Mỹ; hiện nay những vị phát tâm ủng hộ đạo tràng đều là những người nhận lời phó chúc của Phật trước kia,  cho nên nay lại phát tâm ủng hộ xây dựng thành tựu đạo tràng nầy. Công đức giúp xây dựng thành tựu đạo tràng rất lớn, đặc biệt giúp người đạt thành chí nguyện xuất gia làm sa môn, công đức cũng vô cùng lớn .

Tại Miến Điện và Thái Lan, mọi người đều nhận biết xuất gia là một sự kiện vô cùng trọng đại; nếu ai xuất gia, sẽ có rất nhiều người tặng tiền người đó, xem như mua lấy sự xuất gia của người nầy. Lễ xuất gia long trọng hơn lễ kết hôn của người đời, người có tiền sẽ mời cả mấy ngàn người đến dùng cơm; chi phí buổi tiệc ai trả? Nếu không phải họ hàng, thì là bạn bè của người đó trả, bằng không nữa  người nầy  là  hộ pháp của Phật giáo. Họ nói: “  Ông đó xuất gia, tôi xuất tiền nầy ra đãi khách, tạo lập công đức, ủng hộ người đó được thành tựu chí nguyện xuất gia.” Có người không thể tự mình xuất gia, do quyến luyến vợ con, hoặc không xả bỏ được gia sản, nhưng người đó sẽ giúp đỡ cho người khác muốn xuất gia; ai muốn xuất gia, người đó sẽ ủng hộ tiền bạc, người đó chuyên làm công đức nầy với tâm nguyện giúp người muốn xuất gia được thành tựu chí nguyện.

Bây giờ chúng ta muốn xây chùa, mọi người đều phát tâm, trưa nầy tôi có nói: “chúng ta ai có tiền xuất tiền, nhanh chóng đem tiền ra làm công đức, thành lập đạo tràng cơ sở của Phật giáo; ai có sức nên ra công, ai cũng không muốn mất phần công đức, tất cả đều nên tranh thủ mà làm. Với một khí thế như vậy, ngôi chùa nhất định sẽ xây dựng thành công”. Xây dựng xong rồi, ngôi chùa dùng để làm gì? Dùng làm đạo tràng của Phật, đây chính là một điều kiện căn bản để thành Phật; nếu quý vị không xây chùa, sau nầy quý vị thành Phật rồi sẽ không có chùa để ở.

Cho nên nếu như chúng ta muốn khi thành Phật có chùa để ở, thì bây giờ chúng ta phải xây dựng nhiều chùa vào; đến khi thành Phật rồi sẽ có rất nhiều chùa để ở, chúng ta muốn đến đâu, ở đâu tùy ý. Quý vị thấy đấy! Như vậy sẽ tự do biết bao. Con người ai cũng muốn tiến về phía trước, không ai muốn lùi lại phía sau! Bây giờ có một cư sĩ phát tâm, dự định xuất ra hai vạn đồng, người này đề xướng  xây dựng chùa. Chúng ta đã có trong tay hai vạn tiền, mỗi người chúng ta phải thành tựu chí nguyện, cần phải cùng nhau nổ lực hơn nữa, quyết tâm hoàn thành Phật sự nầy. Đây là việc làm mà mười phương chư Phật, Bồ tát vô cùng hoan hỷ, tán thán! Cũng là việc mà người làm sư phụ như tôi rất hoan hỷ, rất tán thán! Cho nên chúng ta phải hợp sức đồng lòng, cùng nhau phát tâm xây dựng ngôi chùa, mọi người cùng tranh thủ, chớ để mình lạc hậu bị lọt lại phía sau, nên nhanh chóng tham gia vào hàng ngũ những người sáng lập nên nền tảng Phật giáo tại Mỹ.

Trở lại với đề tài “Liên hoa”, chúng ta thấy rằng hoa cũng có nhiều loại khác nhau. Có loại “cuống hoa vô quả”. Cuống hoa còn gọi là “hoang hoa” (hoa lừa dối), sao gọi là “hoang hoa”? Vì có hoa mà không có quả, khai hoa nhưng không kết quả. Làm sao lại có loại hoa nầy? Vì con người toàn tung ra những điều không thật, toàn nói suông, chỉ nói mà không làm. Ví như nói: “Tôi muốn phát tâm tạo tượng Phật!” chỉ nói như thế, nhưng không làm, đây gọi là “khai hoang hoa bất kết quả” (chỉ khai hoa nhưng không kết quả). “Cuồng hoa vô quả” nầy ví cho cái gì? Ví cho ngoại đạo. Quý vị thấy đấy, bàng môn ngoại đạo rất thịnh hành, rất nhiều người chạy theo họ như vịt trời, rầm rộ, mạnh mẽ; họ cũng dụng công tu hành—tu phạm hạnh, tu vô số khổ hạnh, nhưng không có kết quả, không có mảy may thành tựu.  Đây tức là “cuống hoa vô quả”, chỉ có hoa mà không có quả.

Có loại “nhất hoa đa quả”, chỉ một hoa nhưng có nhiều quả, đây dụ cho điều gì? Tỷ dụ cho phàm phu. Phàm phu phụng dưỡng cha mẹ, sư trưởng, dùng hạnh hiếu thuận để làm những công việc đó. Vì liên quan đến việc phụng dưỡng cha mẹ, tạo ra rất nhiều công đức, tương lai sẽ kết thành rất nhiều quả, họ sẽ được sanh lên cõi trời, hoặc đầu thai làm người giàu có ở nhân gian, đây gọi là “nhất hoa đa quả”.

Có loại “đa hoa nhất quả”, kết nhiều hoa, rất nhiều rất nhiều hoa, nhưng chỉ đậu được một quả; đây ví cho điều gì? Ví cho Thanh Văn thừa. Người tu hạnh Thanh văn, tu vô số khổ hạnh, nhưng chỉ đạt đến được Hữu dư Niết-bàn, nên gọi là “đa hoa nhất quả”.

Có loại “nhất hoa nhất quả”, đây đại diện cho Duyên giác. Người tu theo Duyên giác, tu hạnh viễn ly, vui thích ở nơi thâm sơn cùng cốc (hang thẩm núi sâu). Người tu theo môn hạnh nầy, cũng chỉ đạt được quả vị Duyên giác.

Có loại “tiên quả hậu hoa” hoa trước quả sau, đây biểu thị cho điều gì? Biểu thị cho sơ quả Tu đà hoàn; trước mắt tuy đạt được quả vị, nhưng sau đó vẫn phải tiếp tục tu hành.

Có loại “tiên hoa hậu quả” trước hoa sau quả, đây biểu thị cho điều gì? Biểu thị cho Bồ tát thừa; Bồ tát đầu tiên tu hành, sau đó mới đạt được quả vị Bồ tát.

Nhưng vô số loại hoa nói trên “cuồng hoa vô quả”, “đa hoa nhất quả”, “nhất hoa đa quả”, “nhất hoa nhất quả”, “tiên quả hậu hoa”, “tiên hoa hậu quả” đều không thể dụ cho diệu pháp, không thể sánh với diệu pháp được; duy có liên hoa mới có thể thật sự sánh được với diệu pháp. Vì liên hoa là loại hoa “Hoa quả đồng thời”, có hoa liền có quả; không phải là tiên quả hậu hoa, cũng không phải là tiên hoa hậu quả, mà là hoa quả đồng thời. Điều nầy biểu thị cho “tức thật tức quyền”; “quyền” chính là “hoa”, “thật” chính là “quả”. Tuy liên hoa có đủ hoa và quả, nhưng (liên) hoa nầy vì sao có hoa vậy? Hoa sanh ra là vì quả. Điều nầy dụ cho “quyền chính là thật”, đây chính là  “vị thật thí quyền” (vì thật mà bày ra quyền).

Khi Phật nói những bộ kinh như A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã và Hoa Nghiêm đều là những bước chuẩn bị để nói “Kinh Pháp Hoa”, vì Pháp Hoa, nên mới nói đến những bộ kinh trên. Những pháp Phật nói ở trước đều là quyền pháp, không phải thật pháp; đến hội Pháp Hoa, mới nói thật pháp, thật giáo. Hội Pháp Hoa nầy gọi là “khai quyền hiển thật”, tất cả quyền pháp  phương tiện được triển khai trước, giờ không cần nữa, giờ chỉ hiển bày một thật pháp. Đây chính là “hoa khai liên hiện”, hoa vừa hé nở, hạt sen liền xuất hiện, để ví cho “khai quyền hiển thật”. Nên đầu tiên phải “vị thật thi quyền”, tiếp đến mới “khai quyền hiển thật”;  kế tiếp là “hoa lạc liên thành” hoa rụng sen thành, cũng chính là “phế quyền lập thật”, xả bỏ hết tất cả quyền pháp phương tiện, chỉ giữ lại một thật pháp nầy.

Pháp của Phật nói gồm có “Tích môn, Bổn môn”. “Tích môn” là gì? “Bổn môn” là gì? Bổn là gốc rễ; tích là ngọn ngành. Cái gì gọi là “bổn”? Bây giờ tôi đưa ra một ví dụ: Trăng trên trời là “bổn”; bóng trăng dưới nước là “tích”. ‘Bổn” chỉ có một, nhưng “tích” thì có nhiều vô số. “Vị bổn thùy tích, Khai tích hiển bổn”, vì Bổn mới hiển bày Tích, khai Tích để hiển bày Bổn. Tích nghĩa là “tông tích”, cái gì để lại “bóng dáng”, “vết tích”, “sự tích”. “Tích” nầy chính là “khai tích hiển bổn” khai mở cái Tích để hiển bày cái Bổn, có ý nghĩa giống như “vị thật thi quyền”, “khai quyền hiển thật”, “phế quyền lập thật” vậy.

Hiện tại trong pháp này Phật nói có bổn, có tích. “Bổn” là ở khoảng thời gian nào? Trong kinh văn thì chỗ nói tới “Mười Sáu Vị Vương Tử Phát Tâm Xuất Gia Tu Đạo” thuộc về “Bổn Môn”. Kỳ thực lúc “mười sáu vị vương tử phát tâm xuất gia tu đạo” cũng chưa được xem là bổn, mà phải tính từ thời gian rất lâu xa trước đó.

Hiện tại đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến thế giới nầy, gọi là “thùy tích thị hiện”, thị hiện thân Phật để thuyết pháp cho chúng sanh, đây là “tích”. Kỳ thực đức Phật Thích Ca Mâu Ni không phải mới thành Phật tại thế giới Ta bà nầy, mà Ngài đã thành Phật từ vô số kiếp lâu xa về trước. Cho nên trong “Kinh Phạm Võng” đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói: “Ngô kim lai thử thế giới bát thiên phản”, ta đến thế giới Ta bà nầy đã hơn tám ngàn lần rồi!

“Thế giới Ta bà” hiện giờ của chúng ta chỉ là một thế giới Ta bà  mới, một thế giới Ta bà non trẻ, vẫn còn có một “thế giới Ta bà xưa cũ”, một “thế giới Ta bà bổn lai”; thế giới đó gọi là “bổn”, thế giới hiện giờ của chúng ta, gọi là “tích”. Nên nói đến Phật pháp là nói đến cái vô cùng vô tận, vô lượng vô biên. Tri kiến của con người chúng ta—sự thấy biết của chúng sanh không thể suy lường được việc nầy như thế nào, cho nên đây cũng là một trong những diệu pháp, thuộc về diệu pháp.

Tóm lại, “liên hoa” là biểu thị cho cái gì? Biểu thị cho diệu pháp, liên hoa chính là diệu pháp, diệu pháp cũng chính là liên hoa. Liên hoa là dụ cho bộ kinh nầy.

“Diệu Pháp Liên Hoa” là biệt danh của bộ kinh nầy. Biệt nghĩa là “đặc biệt” bởi vì nó khác biệt, nó không cùng tên với các kinh điển khác của Phật. Tên có tên “chung”, tên “riêng”. Chữ “Kinh” là tên chung, tất cả pháp Phật nói đều gọi là “kinh”.

Tên chung, giống như con người chúng ta đều được gọi chung là “người”, quý vị là người, tôi cũng là người, họ cũng là người, tất cả đều gọi là “người”. Nhưng mỗi người còn có một tên riêng của mình, ví như có người tên “Dịch Tượng Kiền” (易象乾: Epstein), nếu quý vị không gọi đích danh Dịch Tượng Kiền, thì người đó sẽ không biết quý vị đang gọi anh ta; hay như nghe quý vị gọi “Bao Quả Dật”, tôi liền biết đây là Quả Dật. Ví dụ nầy cũng giống như nói đến kinh, kinh gì? Ồ!… “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. “Diệu Pháp Liên Hoa” là tên riêng, “Kinh” là tên chung; đây gọi là có chung, có riêng; chúng ta dùng cả thông (chung) lẫn biệt (riêng) để xem xét bộ kinh nầy.

Để giải thích bộ Kinh này, chúng ta  giải thích theo cách Ngũ Trùng Huyền Nghĩa, là đủ năm tầng ý nghĩa thâm diệu  đó là “thích danh, hiển thể, minh tông, luận dụng, và phán giáo tướng”.


C3. Thích “Kinh” (Giải thích chữ “Kinh”)

Bây giờ giảng đến chữ “kinh”. Mỗi người chúng ta đều rất quen thuộc với chữ “Kinh”, quen thì quen đó, nhưng rốt cuộc quý vị có nhận biết được nó hay không?  Như tối hôm qua, tôi dạy một chữ mới, tối nay hỏi lại “đây là chữ gì”, không ai nhớ cả. Giờ dạy đến chữ ‘kinh”, tôi e rằng cũng sẽ lập lại tình trạng như vậy; đã giảng qua rất nhiều lần, nhưng quý vị thử bảo ai đó giảng lại chữ ‘kinh” nầy? Người đó sẽ ấm ớ, không biết giảng ra sao.

Ý nghĩa của chữ “kinh” như thế nào?

(1).           Kinh có nghĩa của chữ “Kính” () trong “kính lộ” (徑 路), tức là “con đường thẳng”, là con đường mà ta đi từ địa vị phàm phu đến quả vị Phật.

(2).           “Pháp bổn”—là “căn bổn của các pháp”.

(3).           “Hiển diệu”—cũng có thể nói là “hiển thị”, tức là giải bày một cách minh bạch, sáng tỏ.

(4).           “Dũng tuyền (suối tuôn)—giống như dòng nước từ lòng đất vọt lên, trào ra thao thao bất tuyệt.

(5).           “Thằng mặc” (dây mực của người thợ)—ý nói “kinh” là một loại khuôn thước, mẫu mực. Nên nói: “bất dĩ quy củ, bất thành phương viên” (không dùng compa và thước kẻ, không thể thành hình vuông và hình tròn—ngụ ý “không có mẫu mực, không thể thành tựu”), như quý vị vẽ họa đồ, nhất định phải có cây compa và cây thước kẻ, mới có thể vẽ nên hình nên dáng được.

(6).           Kết man—kết là buộc lại với nhau; man là vòng hoa.

Đây đều là ý nghĩa của “Kinh”, kinh lại có bốn nghĩa khác là “quán, nhiếp, thường, pháp”.

(1).           Quán—là “xâu kết những đạo lý đã nói”, giống như dùng sợi chỉ, xỏ xuyên qua các ý nghĩa trong kinh, khiến cho đầu, giữa, cuối đều nhất quán. Như khi chúng ta viết văn chương phải có “khai, hợp, chuyển, chiết” (mở đầu, kết hợp, chuyển ý và tóm yếu lại chủ đề).

(2).           Nhiếp—nghĩa là “nhiếp trì sở hóa cơ” thâu nhiếp hết mọi căn cơ để hóa độ. Tất cả chúng sanh đều được hóa độ, người nào thích dùng vị chua, ngọt, đắng, cay, mặn, trong kinh đều có đủ; ai thích tu theo pháp môn nào, trong kinh cũng không thiếu.

Quý vị thích tham thiền , trong kinh có dạy về đạo lý tham thiền, cách thức tĩnh tọa. Quý vị thích học về giáo, để giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh thì học về pháp môn giảng kinh thuyết pháp. Đầu tiên phải học tất cả những vấn đề cần nói trước khi đi vào giảng một bộ kinh như “thất chủng lập đề”, “ngũ trùng huyền nghĩa”, quý vị phải nhận biết được đề mục của kinh. Nếu quý vị thích tu theo Luật tông, chuyên về hành trì  giới luật, trong kinh đây đều có. Như quý vị thích trì chú, tu Mật tông, học Mật pháp của Tây Tạng, trong Hiển tông đây cũng có, có điều không chuyên biệt một tông nào, không chuyên tu một pháp nào như trong Mật tông. Quý vị thích niệm Phật, thì tu theo pháp môn Tịnh Độ, trong đây cũng có pháp môn Tịnh Độ. Có vô số pháp môn dành sẵn cho quý vị, đầy đủ tất cả. “Nhiếp trì sở hóa cơ”, nhiếp trì những căn cơ được giáo hóa, tức quý vị thích pháp môn nào, liền có pháp môn đó cho quý vị học.

(3).       Thường—là vĩnh viễn không đổi. Những kinh điển từ khi Phật nói cho đến nay, không ai có thể sửa đổi, một chữ cũng không được bớt, một chữ cũng không được thêm; không tăng không giảm, nên gọi là “Kinh”.

(4).       Pháp—chính là “phương pháp”. Phương pháp trong kinh nói là phương pháp mà chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều nói. Tất cả chúng sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều phải y chiếu theo những phương pháp đó mà tu học, nên gọi là “pháp”.

Chữ “Kinh” còn có rất nhiều nghĩa. “Kinh,” theo tiếng Phạn là “tu-đa-la” (Sutra); Trung Hoa dịch là “khế kinh.” “Khế” tức là “khế hợp”—trên thì khế hợp với tâm Phật,  dưới thì khế hợp với tâm chúng sanh. Cho nên,  “Phật, chúng sanh, tâm” —cả ba đều không khác biệt nhau; đây cũng chính là chữ “kinh” này—ba loại pháp môn “tâm pháp, chúng sanh pháp, Phật pháp” hoàn toàn chẳng có sự khác biệt.

Giờ đã giảng xong phần “thích danh”, tên gọi của bộ Kinh chỉ giải thích đến ngang đây. Đại sư Trí Giả “cửu tuần đàm diệu”, chín mươi ngày chỉ giảng một chữ ‘diệu”, nếu nói rộng ra thì không chỉ chín mươi ngày, mà ngay cả chín trăm ngày, chín ngàn ngày, chín vạn ngày cũng không giảng xong. Vì sao vậy? Vì nó là diệu. “Diệu” nầy nói không hết, giảng không cùng, nên nói “cùng kiếp nan tận”, có giảng đến mấy đại kiếp cũng không giảng xong. Cho nên đến đây tạm gác lại  đề mục “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.

B2. Hiển Thể

Kế đến, chúng ta phải nhận cho ra thể của bộ kinh. Bộ kinh nầy lấy cái gì làm thể? Nếu như chúng ta không biết thể của bộ kinh, thì làm sao hiểu rõ được ý nghĩa của kinh, cho nên nhất định phải nhận diện được thể. Bộ kinh nầy lấy gì làm thể? Để tôi nói cho quý vị nghe, quý vị không nên sốt ruột, vì sao vậy? Vì bây giờ tôi muốn giảng bộ kinh nầy, tôi đã muốn giảng, thì nhất định sẽ giảng, quý vị không cần gấp gáp. Nếu quý vị gấp gáp như thế, khi tôi giảng ra có thể quý vị sẽ không nghe rõ, sẽ không nhận thức được. Giống như có người đi ngang qua mặt quý vị, quý vị không chú ý, người đó đi qua luôn; nếu như quý vị có để tâm thì: “Ô! Người nầy đến rồi, nhận biết được người nầy”. Đạo lý nghe kinh cũng thế. Bây giờ tôi giảng cho quý vị nghe, Quý vị nên hết sức chú tâm!

Bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” nầy lấy “Thật Tướng” làm thể. Nên nói: “Thật Tướng vô tướng, vô sở bất tướng” (Thật Tướng là không có tướng, nhưng hết thảy mọi tướng đều từ Thật Tướng mà sanh ra). Tất cả các tướng đều do “Thật Tướng” sanh ra. Không chỉ tất cả tướng, mà tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát, tất cả Thanh văn, Duyên giác cũng đều từ “Thật Tướng” sanh ra. Vậy “Thật Tướng” do ai tạo ra? Không ai tạo ra cả, bổn lai vốn đã có! Có như thế nào? “Thật Tướng” có trước tất cả chư Phật, chư Bồ tát, tất cả vạn vật; là Mẹ (mẫu thể) của tất cả; có thể nói tất cả vạn sự vạn vật đều từ “thật tướng” sanh ra.

Thể của bộ Kinh nầy, chính là “thật tướng”; cho nên tất cả chư Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, cho đến tất cả chúng sanh đều từ bộ kinh nầy sanh ra. Có điều vì thời gian quá lâu, chúng ta đã quên mất nhà mình, quên mất Mẹ mình, nên trở thành xa lạ với kinh; bây giờ chúng ta nghe giảng bộ kinh nầy, có thể nói là đang tìm đường về nhà! Bộ kinh nầy lấy thật tướng làm thể.


B3. Minh Tông

Tên kinh đã biết, thể cũng đã nhận rõ, vậy rốt cuộc bộ kinh nầy lấy cái gì làm tông chỉ? Bộ kinh nầy lấy “Nhất Thừa nhân quả” làm tông chỉ.

Vốn có ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, thêm vào Nhân thừa và Thiên thừa thành ra năm thừa. Bộ kinh nầy không thuộc thừa nào trong năm thừa cả, chỉ có “hướng thượng nhất thừa” (hướng đến một thừa); đó là thừa gì? Chính là Phật Thừa. Trong kinh nói: “Duy nhất Phật Thừa, cánh vô dư thừa” (chỉ một Phật Thừa, không hề có thừa nào khác). Không thuộc Thiên, không thuộc Nhân, không thuộc Thanh văn, Duyên giác, cũng không thuộc Bồ tát; cho nên “Nhất Thừa” nầy chính là “Phật Thừa”. Tại sao dùng liên hoa làm ví dụ? Để nói lên ý nghĩa nhân quả cùng một lúc, nhân đó quả đó, quả đó nhân đó, bởi đối với loại hoa sen thì khi hoa sen nở là có hạt sen, hoa quả đồng thời.

Bộ kinh nầy lấy “Nhất Thừa nhân quả” làm tông; nhân là “nhân Phật”, quả là “quả Phật”, nên gọi là “nhất thừa nhân quả”.


B4. Luận Dụng

Tông chỉ đã biết rồi, còn  dụng là gì?  dụng của bộ kinh nầy chính là “đoạn nghi sanh tín”, có thể làm cho quý vị đoạn dứt nghi ngờ, phát khởi tín tâm.

Bàn đến sự vi diệu của kinh, Trung Hoa có Đại sư Trí Giả nhờ đọc tụng “Kinh Pháp Hoa” mà được khai ngộ, chứng được “Nhất Toàn Đà-la-ni”* (một trong ba Đà-la-ni của Pháp Hoa). Vì Đại sư nhờ nghiên cứu “Kinh Pháp Hoa” mà được khai ngộ, cho nên lấy “Pháp Hoa Huyền Chỉ” làm tông, sáng lập ra giáo phái Thiên Thai, nay là tông Thiên Thai. Quý vị chớ nên xem thường bộ kinh nầy, chẳng phải vừa rồi tôi đã nói tất cả chư Phật, chư Tổ sư, chư Bồ tát đều từ bộ “Kinh Pháp Hoa” nầy sanh ra sao?


D5. Phán Giáo Tướng

Minh tông”, “luận dụng” đều biết rồi, vậy còn giáo tướng của bộ kinh nầy là gì? “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” lấy “đề hồ” làm giáo tướng. Sữa lấy từ bò, rồi từ sữa làm ra lạc, từ lạc làm ra sanh tô, từ sanh tô làm ra thục tô, thục tô tinh luyện làm đề hồ. Đề hồ nầy ăn rất ngon, lại có mùi vị rất mực thơm ngọt. Tôi giảng đến đây, có người nghĩ: “Thức ăn ngon như thế, mình chưa từng ăn qua!” liền chảy nước bọt. Quý vị không cần lo không được ăn, bây giờ tôi giảng “Kinh Pháp Hoa”, giống như vị đề hồ đi vào miệng của quý vị; lúc đó, quý vị sẽ thưởng thức được mùi vị đề hồ ngon vô cùng tận! Không lời nào kể cho xiết.

Sơ lược về ý nghĩa của Ngũ Trùng Huyền Nghĩa là như thế.

* Phẩm Khuyến Phát trong Kinh Pháp Hoa có nói tới Ba Toàn Đà-la-ni. Toàn là toàn chuyển, ý nói thần lực của Chú có uy lực chuyển đổi. Đây là Nhất Toàn Đà-la-ni, chuyển đổi sực chấp trước của phàm phu – chấp “Có” chứng được lý “Không”.

  1. THUẬT DỊCH TRUYỆN     (Kể chuyện dịch giả)

Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch

Bây giờ nói đến vị Pháp sư phiên dịch bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”—Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, người nước Diêu Tần.

Diêu Tần”: “Diêu Tần” khác với “Phù Tần, Doanh Tần”, là tên gọi của một triều đại, do Diêu Hưng xưng vương lập ra 當政的時代. Nước Diêu Tần, xét theo hệ thống triều chánh Trung Hoa là triều đình của  nước “Tần”, dựng tại Trường An vào thời Đông Tấn; Tần nầy không phải là triều Tần của Tần Thủy Hoàng. Lúc đầu, nước Tần nầy do Phù Kiên cai trị, vì trong lịch sử trước đó đã có triều Tần, nên để phân biệt gọi là “Phù Tần”.

Trước triều Tần là thời đại Chiến Quốc Thất Hùng, trong cục diện bảy nước tranh hùng tranh bá. Đến đời Doanh Chính, ông diệt sáu nước kia, lập ra nhà Tần, nên lịch sử gọi triều Tần của Tần Thủy Hoàng lúc đó là “Doanh Tần”. Về sau Hán Cao Tổ Lưu Bang tiêu diệt nhà Tần. Đến những năm cuối triều đại Đông Hán, nước Hán phân làm ba nước (Tam Quốc). Sau Tam Quốc thì đến triều Tấn; lòng người lúc bấy giờ có một số còn luyến tiếc triều Tần, thế là Phù Kiên tổ chức một đảng phái tại Trường An, lập ra một nước, cũng gọi là “Tần”, tự cho mình là hậu duệ của Tần Thủy Hoàng, nước nầy chính là nước “Phù Tần”.

Bấy giờ, có một vị quan Khâm Thiên Giám, chuyên coi về thiên văn nhìn thấy trên vùng trời Ấn Độ xuất hiện một vì sao trí—ngôi sao nầy chỉ cho người có trí tuệ, liền thưa với Phù Kiên: “Hiện nay ở Ấn Độ có một bậc đại trí tuệ, sau nầy sẽ đến Trung Hoa, đến để ủng hộ Trung Hoa.” Phù Kiên vui mừng: “Ồ! Ta biết người nầy là ai rồi, người nầy chắc chắn là Pháp sư Cưu Ma La Thập. Chúng ta mau phát binh đi cướp Ngài về!” Thế là Phù Kiên phái đại tướng quân Lữ Quang, dẫn theo bảy vạn người ngựa, đi chinh phạt nước Quy Tư, cướp Pháp sư Cưu Ma La Thập. Nước Quy Tư (thuộc huyện Khố Hiệt, tỉnh Tân Cương (vùng Kucha) Trung Hoa ngày nay), là một nước nhỏ đương thời. Hai chữ “Quy Tư” (龜茲), vốn đọc đúng âm là “Quy Tư” (歸資), nhưng trong kinh văn có vẽ một khoen tròn, nên phải đọc là “Thu Từ” (秋慈).

Trước khi Lữ Quang chưa đến nước Quy Tư, Pháp sư Cưu Ma La Thập có nói với quốc vương nước Quy Tư rằng: “Hiện nay Trung Hoa đang xuất binh chinh phạt nước Quy Tư chúng ta, quốc vương không nên đối địch với họ, vì mục đích của họ không phải muốn tranh dành lãnh thổ, muốn chiếm lĩnh đất nước chúng ta. Nếu họ có yêu cầu gì, quốc vương nên thể theo đó giảng hòa với họ; họ cần điều gì, quốc vương nên đáp ứng điều đó!” Tiếc là quốc vương Quy Tư không nghe lời khuyên của Pháp sư Cưu Ma La Thập, đợi Lữ Quang đến, liền khởi binh nghinh chiến.

Lúc bấy giờ, quân đội Trung Hoa rất mạnh, Quy Tư chỉ là một nước nhỏ, vừa giáp chiến đã bại trận, quốc vương Quy Tư bị quân sĩ Lữ Quang giết chết, họ bắt Pháp sư Cưu Ma La Thập mang đi. Quốc vương Quy Tư vốn là người rất tin Phật, cớ sao lại bị quân đội Trung Hoa thảm sát? Vì nghiệp sát kiếp trước của quốc vương quá nặng, định nghiệp khó chuyển, nên không có cách nào tránh khỏi nghiệp báo.

Lữ Quang diệt nước Quy Tư, bắt Pháp sư Cưu Ma La Thập mang đi đến Tây Lương Trung Hoa, thuộc vùng đất ở huyện Đôn Hoàng – tỉnh Cam Túc ngày nay thì nghe tin trong nước có loạn đảo chính, Diêu Trường giết chết Phù Kiên, đoạt lấy ngai vàng, lên ngôi làm hoàng đế nước Tần. Vì vị vua mới họ Diêu, nên mọi người đổi “Phù Tần”, gọi là “Diêu Tần”, nước Diêu Tần ra đời từ đó.

Lữ Quang nghe tin trong nước có loạn đảo chánh, Diêu Trường lên làm hoàng đế, nên bấy giờ ông không quay về trường An nữa. Lữ Quang ở lại Lương Châu, lập dinh hạ trại—đó là một vùng trũng trong núi, địa thế vô cùng trũng thấp. Pháp sư Cưu Ma La Thập khuyên Lữ Quang: “Nơi nầy vô cùng nguy hiểm, không nên lập dinh ở đây! Lập dinh ở đây “rất bất lợi”. Nếu có nước lớn dâng lên, rất có thể sẽ dìm chết tất cả binh sĩ chúng ta!” Lữ Quang vốn không có niềm tin với Pháp sư La Thập, ông tỏ vẻ bất cần nói: “Pháp sư biết gì? Pháp sư là người xuất gia, hiểu gì về việc bày binh bố trận? Pháp sư không cần lo! Dìm chết ư? Làm sao có thể dìm chết được chứ?”, và không nghe theo lời khuyên của Ngài.

– Đến nửa đêm hôm nay, tướng quân sẽ thấy lời tôi nói có ứng nghiệm hay không?

Quả nhiên  nửa đêm hôm ấy, trong núi phát ra tiếng hú gào! Núi hú gào là sắp có nước lũ. Nước lũ tràn dâng mãnh liệt, nước trong núi tuôn trào cuồn cuộn, không biết nước lớn đến cỡ nào mà đã nhận chết năm- sáu ngàn người trong quân đội của Lữ Quang. Lữ Quang dẫn  bảy vạn người ngựa đến gây chiến với nước Quy Tư, chết trận khoảng vài ngàn; trên đường về đến đây bị nước nhấn chìm chết thêm một số nữa. Từ đấy, Lữ Quang mới biết được đôi chút về lai lịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập, Ngài có thần thông, là một người phi thường; từ đấy Lữ Quang không dám khinh mạn nữa, và rất tin tưởng vào Pháp sư Cưu Ma La Thập.

Lữ Quang nghe nói trong nước có loạn đảo chính, Diêu Trường giết chết Phù Kiên, thế là ông liền án binh bất động tại Lương Châu, cho đến khi Diêu Trường làm hoàng đế được vài năm, chết đi, con trai Diêu Hưng lên kế vị.

Diêu Hưng biết được việc trước kia Phù Kiên sai Lữ Quang đi bắt Pháp sư Cưu Ma La Thập, nên đòi Lữ Quang giao trả Cưu Ma La Thập, Lữ Quang không chịu; Diêu Hưng lại phát binh đi đánh Lữ Quang. Bấy giờ Lữ Quang đã chết, con trai Lữ Long thay cha làm vua ở đó. Vừa ra nghinh chiến, Lữ Long đã bại trận; Diêu Hưng thỉnh Pháp sư Cưu Ma La Thập đến Trường An, bắt đầu công việc phiên dịch kinh điển. Công việc nầy vô cùng vất vả.

Vì sao Lữ Quang đi bắt Pháp sư Cưu Ma La Thập? Vì sao Diêu Hưng lại phái binh đi đón Ngài? Vì Pháp sư Cưu Ma La Thập là một bậc đức cao vọng trọng đương thời, mọi người đều sùng bái, tín ngưỡng. Từ khi Diêu Hưng đón Ngài về Trung Hoa, kinh điển mới được phiên dịch rất nhiều. Đây là nhân duyên Pháp sư Cưu Ma La Thập đến Trung Hoa.

Đón Pháp sư Cưu Ma La Thập về đến Trung Hoa, Diêu Hưng nghĩ: “Trí tuệ của vị Pháp sư nầy rất lớn, không ai có thể sánh kịp. Người có trí tuệ lớn như thế, mà không lưu lại hậu duệ, thật là đáng tiếc!”, thế là bức ép Pháp sư kết hôn,  ban cho hai mỹ nhân trong cung, làm phu nhân của Ngài. Mục đích của vua là muốn Pháp sư Cưu Ma La Thập sinh ra một người con trai trí tuệ, tiếp nối học vấn của Ngài.

Lúc bấy giờ, do bị  áp bức bởi thế lực của hoàng đế, Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập không có cách gì khước từ, đành phải chấp nhận điều kiện này. Thế nhưng, chấp nhận điều kiện này rồi thì sau đó thế nào?

Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập không được thông thạo Trung văn cho lắm, song về Phạn văn lại rất tinh thông, cho nên đương thời có hơn tám trăm người xuất gia tụ hội lại và cùng làm trợ thủ cho Ngài, giúp đỡ Ngài trong công việc phiên dịch kinh điển.

Pháp sư Cưu Ma La Thập chủ trương người xuất gia không có vợ, nhưng bây giờ chính Ngài lại có vợ, hơn tám trăm người phụ tá lúc bấy giờ đều không phục, lên tiếng: “Pháp sư xem! Pháp sư bảo chúng tôi không nên tiếp cận người nữ, bảo chúng tôi không được có vợ!”. Pháp sư Cưu Ma La Thập chủ trương người xuất gia không có vợ, nhưng bản thân Ngài lại có vợ, nên số người phụ tá nầy rất không phục, vô cùng bất mãn nói: “Hừm! Pháp sư chỉ việc nói, Pháp sư lừa dối chúng tôi! Trong khi hiện tại bản thân Ngài lại như thế!”.  những người này không biết do hoàn cảnh bức bách, bất đắc dĩ Pháp sư Cưu Ma La Thập mới làm như thế.

Một hôm, vào giờ quá đường buổi sáng—khi người xuất gia thọ trai gọi là “quá đường”. Khi  các Pháp Sư vào trai đường ngồi xuống ăn thì trước mặt chẳng thấy gì để ăn cả, trừ một bao bằng giấy trong có các cây kim may (kim khâu quần áo), mỗi người một bao như vậy. Để làm gì vậy? Pháp sư Cưu Ma La Thập bảo với mọi người: “Hôm nay chúng ta không dùng cơm, chỉ dùng bọc kim nầy thôi!”, ăn kim thay thế cơm, Pháp sư nói như thế, quý vị thấy như thế nào? Quý thầy, người nầy nhìn người kia, người kia nhìn người nọ; người nầy trông người kia, người kia trông người nọ, không một ai dám ăn. “Làm sao mà ăn kim được? Pháp sư thật biết giở trò! Thật điên mất rồi! Tại sao lại bảo chúng ta ăn kim?” Có thầy bực tức: “Kim nầy làm sao có thể ăn được mà Ngài bảo chúng tôi ăn? A! Hay là Ngài dùng trước thử xem!”

Pháp sư Cưu Ma La Thập thản nhiên: “Ồ! Quý vị không thể ăn được à? Được, đem đến đây tôi ăn!” Mọi người nhanh chóng mang đến trước mặt Ngài hơn tám trăm bọc kim của hơn tám trăm người; Ngài mở bao giấy ra, ăn ngon lành hết tất cả kim trong bọc giống như ăn mì. Mọi người đều trố mắt: “Ái chà! Pháp sư đang làm gì vậy? Có phải đang chơi trò ảo thuật? Những bọc kim nầy thật có thể ăn được sao?”

Ăn kim xong, Pháp sư hỏi họ: “Không một ai trong các vị có thể ăn kim được à? Bây giờ tôi tuyên bố với quý vị: ‘Ai có khả năng ăn được kim, thì có thể kết hôn; ai không có khả năng, không được kết hôn.’ Ai muốn kết hôn, trước tiên phải ăn một bọc kim!” Hơn tám trăm vị trợ lý nhìn nhau: Ây! Bản thân chúng ta không có đạo lực lớn như thế, không thể ăn được. Từ đó, những vị nầy không còn xem thường Cưu Ma La Thập, cũng như không dám phản đối Ngài nữa.

Cưu Ma La Thập rời khỏi trai đường, trở về đến phòng mình; có hai thị giả đi theo. Pháp sư bảo với hai thị giả: “Hai vị giúp tôi một việc!” Hai thị giả hỏi: “Việc gì thưa Pháp sư?” “Hai vị giúp tôi nhổ tất cả số kim nầy ra dùm!” Kim từ các lỗ chân lông phún ào ào ra bên ngoài, giống như đang chơi trò ảo thuật vậy.

Trong lịch sử Trung Hoa, Pháp sư Cưu Ma La Thập có hai người con trai; nhưng thần thông diệu dụng của Ngài thì không thể nghĩ bàn. Chúng ta không vì chuyện Pháp sư Cưu Ma La Thập có con và có vợ mà khinh thường Ngài. Pháp sư Cưu Ma La Thập quả thật là Bồ tát thị hiện.

Đề cập đến thân thế của Pháp sư Cưu Ma La Thập cũng rất dài. Cha Ngài tên Cưu Ma La Viêm, là con trai của Thừa Tướng của một nước thuộc miền trung Thiên Trúc Ấn Độ. Theo chế độ đương thời, Cưu Ma La Viêm được quyền thừa kế chức vụ thừa tướng của cha, nhưng ông lại không muốn làm quan. Vậy muốn làm gì? Muốn học đạo, muốn xuất gia tu hành; thế là ông vân du khắp nơi, tìm kiếm minh sư học đạo.

Vì phụ thân của Cưu Ma La Viêm là một quan lớn, nên Cưu Ma La Viêm đến đâu cũng được mọi người nghinh đón; khi Cưu Ma La Viêm đi đến nước Quy Tư. Quốc vương Quy Tư ra ngoài thành nghinh tiếp, mời  ngài về cung dự yến tiệc . Quốc vương có một người em gái tên Kỳ Bà, khi dùng cơm, vừa nhìn thấy Cưu Ma La Viêm, quận chúa liền đem lòng thương yêu. Quận chúa là người rất thông minh, bao nhiêu nam nhân trong nước đều không lọt được vào mắt xanh của nàng, nàng không chấm được ai. Lần nầy nhìn thấy Cưu Ma La Viêm, vừa thấy  tâm liền xao động, đem lòng yêu mến. Tuy quận chúa không nói gì với anh mình, nhưng quốc vương Quy Tư là người thông minh, nhìn qua đã biết em gái có cảm tình với Cưu Ma La Viêm, muốn được cùng Cưu Ma La Viêm nên duyên cầm sắt; thế là quốc vương liền đem em gái mình gả cho Cưu Ma La Viêm.

Quận chúa gả cho Cưu Ma La Viêm không bao lâu thì mang thai. Quý vị đoán xem việc gì xảy ra? A! Đã phát sanh chuyện lạ rồi đây! Chuyện lạ gì vậy? Kỳ Bà vốn không biết tiếng Ấn Độ, nhưng từ sau khi mang thai Pháp sư Cưu Ma La Thập, quận chúa tự nhiên có thể nói và nghe hiểu được tiếng Ấn Độ, biết được tất cả tiếng Phạn; không chỉ thế, quận chúa còn được biện tài vô ngại, trí tuệ ngày một sắc bén thêm lên.

Đương thời có một vị La hán, vị ấy bảo với mọi người: “Đứa bé trong bụng của quận chúa không phải là người bình thường, chắc chắn là một bậc đại trí…” Vị La hán nầy nhắc lại câu chuyện của tôn giả Xá Lợi Phất, đệ tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài nói: “Ngài Xá Lợi Phất trước kia, khi đang còn ở trong bụng mẹ, cũng đã khiến cho người mẹ có được trí tuệ sắc bén; nói chung, đứa trẻ nầy cũng giống như Ngài Xá Lợi Phất.” Pháp sư Cưu Ma La Thập ở trong bụng của mẹ mình, đã giúp cho người mẹ có được trí tuệ vượt bậc.

Kỳ Bà sinh ra Cưu Ma La Thập, ba năm sau cô lại cho ra đời đứa con trai thứ hai. Lúc nầy, quận chúa thường đến chùa Xảo Lê Đại Tự nghe giảng kinh thuyết pháp. Vì có căn tánh rất linh lợi, nên khi nghe pháp của pháp sư giảng, quận chúa liền ngộ ra rằng con người sống trên đời đều là “khổ, không, vô thường, vô ngã”, và liền phát tâm muốn xuất gia; lúc nầy, Pháp sư Cưu Ma La Thập mới được bảy tuổi.

Cưu Ma La Viêm trước kia vốn muốn xuất gia, nhưng sau khi kết hôn với quận chúa Quy Tư thì không còn muốn xuất gia nữa; ông lưu luyến người vợ rất mực xinh đẹp, tham tiếc tiền tài, địa vị, cái gọi là vinh hoa phú quý tột đỉnh. Trong “Kinh Tứ Thập Nhị Chương” nói: “Bần cùng bố thí nan, phú quý học đạo nan” (nghèo cùng khó bố thí, giàu sang khó học đạo). Cưu Ma La Viêm vì bị phú quý mê hoặc, nên không chỉ ông không muốn xuất gia, mà ngay cả vợ muốn xuất gia, ông cũng không đồng ý.

Kỳ Bà đã hạ quyết tâm. Quyết tâm gì? Cô phát lời nguyện: “Nếu như không được xuất gia, tôi thà chết cũng không muốn ở trong cung, chỉ muốn chết mà thôi.”

Ban đầu quận chúa không ăn cơm, Cưu Ma La Viêm cũng không lấy làm lạ, một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, đến ngày thứ sáu cũng nhất định không ăn; không chỉ không ăn, đến nước cũng không uống, không đưa bất kỳ thứ gì vào miệng. Cưu Ma La Viêm thấy thế, biết không ổn! Nếu như không cho vợ xuất gia, cô ấy sẽ đói chết; tuy không muốn cho vợ đi, nhưng giờ cũng đành phải cho, bèn nhượng bộ bảo vợ rằng: “Được rồi! Bà muốn xuất gia, tôi cho bà xuất gia! Nhưng trước hết phải ăn chút gì đã!”

Kỳ Bà khôn ngoan: “Ông cho tôi xuất gia thật sao? Vậy trước tiên ông mời Pháp sư đến xuống tóc cho tôi, sau đó tôi mới ăn; nếu như không xuống tóc, đợi tôi ăn xong, ông lại không cho, thì tôi biết phải làm sao?” Trong tình thế bắt buộc, Cưu Ma La Viêm không còn cách nào khác, không còn lựa chọn nào khác, đành phải đến chùa Xảo Lê, thỉnh hòa thượng trụ trì đến xuống tóc cho vợ. Xuống tóc xong, quận chúa mới chịu ăn uống trở lại.

Kỳ Bà ăn xong, vì đã xuống tóc, trở thành người xuất gia rồi! Nên từ đó chuyên tâm tu học Phật pháp. Sau khi xuất gia không bao lâu, quận chúa liền chứng quả. Tại sao chưa bao lâu lại được chứng quả? Vì quận chúa học Phật pháp với tâm thành khẩn tha thiết! Chúng ta nhất định phải thật sự có tâm thành khẩn đối với Phật pháp, nếu như không có, dầu tu học bao lâu cũng không có sở đắc. Vì tâm thành của quận chúa đã đạt đến cực điểm: “Nếu không cho phép xuất gia, tôi thà chết!” Chỉ có chết! Vì quận chúa đã xem thường sống chết, nên nói: “Tịnh cực quang thông đạt”, sự thanh tịnh đạt đến cực điểm, buông bỏ tất cả; ngay lúc nầy, linh quang (giác tánh) hiển hiện, chứng đắc được Sơ quả.

Sau khi chứng Sơ quả, có một hôm, Kỳ Bà dẫn Cưu Ma La Thập vào chùa lễ Phật. Pháp sư Cưu Ma La Thập lúc đó chỉ là một đứa trẻ mới lên bảy, đến chùa, nhìn thấy người ta lạy Phật, Ngài cũng lạy theo; nhìn thấy người ta đốt hương, Ngài cũng đốt theo. La Thập lại nhìn thấy trước tượng Phật có đặt một cái đỉnh rất lớn, cái đỉnh  nhẹ lắm cũng nặng khoảng một trăm pounds (50kg); đứa trẻ mới bảy tuổi nầy nhìn thấy cái đỉnh, rất muốn chơi đùa. Cái đỉnh lớn quá, Cưu Ma La Thập không thèm suy nghĩ gì, nhẹ nhàng nhấc đỉnh lên, đội trên đầu. Sau khi đội lên đầu, Ngài nghĩ: “Ủa! Mình là đứa trẻ bảy tuổi, làm sao có thể đội nổi một cái đỉnh nặng như thế? Trong lòng  Ngài vừa nghĩ như thế, tức vừa sanh ra tâm suy lường phân biệt, lạ thay! Cái đỉnh liền nặng trở lại, Ngài hoảng hốt thốt thành tiếng: “Ây da!” không  nhấc nổi nữa, cái đỉnh liền rơi xuống đất.

Cái đỉnh rơi xuống đất, Cưu Ma La Thập lập tức liễu ngộ. Liễu ngộ cái gì? Ngộ rằng tất cả sự vật trên thế gian vốn là như thế! Đều do tâm tạo (nhất thiết duy tâm tạo). Thì ra, lúc Ngài chưa khởi tâm suy lường (tư lượng) phân biệt thì “nặng mà không nặng”, vốn là vật nặng, Ngài cũng nhắc nổi; vừa khởi ra tâm tư lượng phân biệt, vốn không nặng cũng trở thành nặng. Do đây mà Ngài ngộ được rằng: Tất cả sự vật đều do tâm tạo, vạn pháp đều do tâm! Khi Ngài khởi sanh lên tâm (suy lường phân biệt) như thế thì đó không phải là chân tâm.

Sau khi Cưu Ma La Thập liễu ngộ “tất cả do tâm tạo”, liền phát tâm muốn xuất gia theo mẹ. Quý vị nghĩ xem, lúc đó Ngài muốn xuất gia, cha của Ngài như thế nào? Trong lòng cha Ngài nhất định không nỡ; đã lưu luyến vợ, nay lại không nỡ rời con. Vợ đã xuất gia, con trai cũng muốn xuất gia, tình cảnh lúc nầy thật là dứt không nỡ, bỏ không rời; nhất định có xảy ra cảnh nầy, hay không chừng cha Ngài sẽ đau lòng rơi nước mắt. Nhưng lòng mẹ Ngài rất cứng rắn, “Dù ông có khóc, tôi vẫn muốn xuất gia!”  Tuy tuổi đời còn nhỏ, nhưng Ngài  thấy rõ được đạo lý của việc xuất gia, Ngài muốn xuất gia theo mẹ.

Vì cha không nỡ để Cưu Ma La Thập xuất gia; tuy tuổi Ngài còn nhỏ,  nhưng đã làm theo cách của mẹ, cũng không ăn cơm, không uống nước, nhất định đòi xuất gia: “Con muốn xuất gia theo mẹ, nếu không được, con quyết nhịn đói đến chết!” Cứ thế, nhịn đói được khoảng bốn năm ngày, cha nhìn thấy cũng đành bó tay, bèn cho phép Ngài xuất gia. Đây là nhân duyên xuất gia của Pháp sư Cưu Ma La Thập và mẹ của Ngài.

Sau khi xuất gia, Cưu Ma La Thập học theo giáo pháp Tiểu thừa; Ngài bái một vị sư phụ làm thầy, người đó là ai? Chính là Bàn Đà Đạt Đa (Bandhudatta), còn gọi là Bàn Đà Bồ Đạt Đa. Mỗi ngày Pháp sư Cưu Ma La Thập đọc tụng một ngàn bài kệ; mỗi một bài kệ có ba mươi sáu chữ, một ngàn bài kệ có tổng cộng là ba vạn sáu ngàn chữ. Quý vị xem, một ngày Cưu Ma La Thập La Thập học thuộc nhiều chữ như thế đấy. A! Ba vạn sáu ngàn chữ, nhiều gấp ba mươi mấy lần “Chú Lăng Nghiêm”, “Chú Lăng Nghiêm” có một ngàn hai trăm ba mươi mấy chữ. Pháp sư Cưu Ma La Thập mới bảy tuổi mà một ngày học thuộc tụng ba vạn sáu ngàn chữ; quý vị nghĩ xem, với tài trí nầy, nếu đem mỗi người chúng ta ra so sánh thì như thế nào? Bây giờ mỗi ngày chúng ta đọc, học hai mươi bốn chữ Hán; hôm sau hỏi đến lại không nhớ đó là chữ gì. Pháp sư Cưu Ma La Thập một ngày học thuộc ba vạn sáu ngàn chữ, quý vị nói xem, nếu so với Ngài, làm sao chúng ta có thể bì được?

Với sức học mỗi ngày ba vạn sáu ngàn chữ như thế, Pháp sư Cưu Ma La Thập nhanh chóng học hết tất cả Phật nói kinh điển Tiểu thừa. Sau đó Ngài lại học tất cả các kiến thức thế gian như y thuật, bói toán, chiêm tinh, tướng số (y, bói, tinh, tướng). Y, chính là sách y dược, y học. Bói, là bói quẻ. Tinh, là y theo phương vị vì sao người đó sanh ra để xem vận mệnh của người đó thế nào? Cuộc đời của người đó ra sao? Tướng, chính là “tướng mạo”, xem xem  phần tướng nào của diện mạo là tướng sang quý? phần tướng nào  là tướng không sang quý? Tướng mạo người giàu sang ra sao? Tướng mạo người nghèo hèn như thế nào? Đó là xem tướng. Cưu Ma La Thập học hết y, bói, tinh, tướng và tất cả học vấn thế gian.

Sau khi học xong kinh giáo Tiểu thừa và tất cả tri thức thế gian, Cưu Ma La Thập theo mẹ đến Ấn Độ học tập kinh điển Đại thừa. Vì mẹ Ngài hiểu rằng vốn là em gái của quốc vương, nên sau khi xuất gia, quận chúa  sẽ được cúng dường vô số, chỗ nầy cúng dường tiền, chỗ kia cúng dường thực phẩm. Suốt ngày được cung phụng đầy đủ, bản thân quận chúa không muốn được hưởng thụ như thế, nên phát nguyện đến Ấn Độ–nơi Phật ra đời để học tập Phật pháp và chiêm bái các nơi, thế là quận chúa dẫn Cưu Ma La Thập cùng đi Ấn Độ.

Sau khi Pháp sư Cưu Ma La Thập đến Ấn Độ, liền theo Phật giáo Đại thừa học tập Phật pháp Đại thừa. Trước kia Ngài học Tiểu thừa, cảm thấy kinh điển Tiểu thừa rất vi diệu; về sau tiếp xúc với pháp môn Đại thừa, mới biết đây là vi diệu trong vi diệu, cảnh giới trong Phật giáo Đại thừa là cảnh giới không thể nghĩ bàn.

Do sau khi mới vừa xuất gia, Pháp sư Cưu Ma La Thập đã thông minh, lại không lười biếng—vì thông minh nên học tập kinh điển rất nhanh; vì không lười biếng nên học vấn rất rộng. Nếu như chỉ thông minh mà lười biếng thì không thể học rộng như thế; nếu như chỉ siêng năng mà không thông minh, cũng không học được nhiều. Vì Ngài đã thông minh lại thêm cần mẫn, nên học tập kinh điển rất nhanh, nhanh vô cùng. Đây là quá trình học Phật pháp của Pháp sư Cưu Ma La Thập.

Khi học xong kinh giáo Đại thừa, La Thập bèn trở về nước Quy Tư hoằng pháp, giáo hóa chúng sanh. Vì Pháp sư thông minh như vậy, cần mẫn như vậy, nên mọi người đều biết tiếng. Số là ở một nước kia có một vị luận sư—là một người chuyên môn dùng lời nói, lý lẽ tranh luận đạo lý với người khác; vị luận sư nầy tự cho rằng trên thế gian nầy không ai có thể thắng nổi mình, liền gióng trống lệnh; khi ông đánh trống lệnh (vương cổ) nầy, rất nhiều người biết rằng chắc chắn có việc, đều đến nghe ngóng. Vị luận sư tuyên bố với mọi người rằng: “Bất kể người nào, luận sư nào, pháp sư biện luận nào, ở nước nào tới, nếu như có thể biện thắng được tôi, tôi sẽ tự chặt đầu mình dâng lên, tôi sẽ dùng đầu mình dâng làm lễ vật cảm tạ người đó.” Quý vị xem, trường hợp nầy cũng giống như tôn giả Ma Ha Câu Hy La, cậu của tôn giả Xá Lợi Phất, đã cam kết với Đức Phật—bất luận ai nói đạo lý gì, nếu có thể làm cho ông không còn gì để nói, ông sẽ tự cắt đầu mình.

Bấy giờ, nhằm lúc Cưu Ma La Thập đi qua đất nước nầy, liền hỏi vị luận sư kia hai điều; luận sư cứng họng không nói được lời nào. Không còn gì để nói, mà chặt đầu thì không dám, nên luận sư bái Pháp sư Cưu Ma La Thập làm thầy, theo Ngài học đạo.

La Thập về đến nước Quy Tư, quốc vương Quy Tư cậu của Ngài cũng tin Phật pháp, rất mực cung kính Pháp sư, dùng vàng ròng làm tòa sư tử, thỉnh Pháp sư Cưu Ma La Thập đăng đàn thuyết pháp. Nhưng bấy giờ Pháp sư có một mục đích khác, Ngài muốn đi độ vị thầy Tiểu thừa của mình, vì có rất nhiều người tin theo vị thầy nầy. Nếu như độ được thầy mình, cũng đồng với việc độ được rất nhiều người học tập Phật giáo Đại thừa.

Cho nên khi quốc vương xây tòa cho pháp sư, ngài đã có hoạch định sẽ đi đến các quốc gia khác; nhưng nếu đi như thế sẽ khiến cho quốc vương có ấn tượng không tốt. Ấn tượng không tốt như thế nào? “Cậu đối xử với  cháu tốt như thế, tạo tòa sư tử cho cháu, cũng không thể giữ được  cháu ở lại đất nước nầy. À! thì ra cháu không có chút cảm tình nào đối với cậu cả!”

Vừa đúng lúc Cưu Ma La Thập muốn đi gặp vị thầy Tiểu thừa của mình thì thầy của Ngài lại đến nước Quy Tư. Giống như hải quan bây giờ, có người đến báo: “Có vị Pháp sư Ấn Độ tên Bồ Đạt Đa, là thầy của Pháp sư Cưu Ma La Thập, Ngài hiện đang đến nước của chúng ta.” Thế là quốc vương Quy Tư và Pháp sư Cưu Ma La Thập ra ngoài thành nghinh tiếp vị thầy Tiểu thừa nầy.

Khi nghinh tiếp, quốc vương hỏi tôn giả Bồ Đạt Đa: “Ngài có việc gì mà từ xa đến đất nước chúng tôi?” Tôn giả Bồ Đạt Đa trả lời: “Thứ nhất, tôi nghe nói quốc vương tin tưởng Phật pháp, cung kính Tam Bảo, cho nên tôi đến để gặp mặt quốc vương. Thứ hai, tôi nghe nói Pháp sư Cưu Ma La Thập bây giờ Phật pháp cao thâm, nên tôi đến thăm.” Quốc vương thỉnh tôn giả vào nội thành nước Quy Tư, ở chung với Pháp sư Cưu Ma La Thập.

Pháp sư Cưu Ma La Thập vốn muốn đi độ sư phụ, bây giờ sư phụ đến rồi, Ngài liền giảng cho sư phụ nghe “Kinh Đức Nữ Sở Vấn”, “Kinh Đức Nữ Sở Vấn” là  giáo lý của Phật giáo Đại thừa.

Giảng xong, sư phụ liền hỏi Ngài: “Con cảm thấy giáo pháp Đại thừa có lợi ích gì? Có chỗ nào đặc biệt? Con bỏ Tiểu thừa, học theo Đại thừa, giáo pháp Đại thừa chỉ giảng về “không”, không là không có gì cả, vậy con học giáo pháp đó có lợi ích gì? “Không”, vốn tất cả đều không, hà cớ gì phải học?

Pháp sư Cưu Ma La Thập nói: “Nhờ trong cái “không” nầy mới có cái “hữu”, bên trong chân không mới có diệu hữu, diệu hữu cũng chính là chân không. Giáo pháp Đại thừa mới là giáo pháp rốt ráo triệt để, không nhiều danh tướng như Tiểu thừa, không câu nệ, kềm kẹp, làm cho không được giải thoát, quá cứng nhắc!”

Sư phụ Ngài liền bảo: “Con nói đạo lý nầy, sư phụ cũng có một thí dụ. Thí như có một người điên, mời người thợ dệt lụa đến bảo anh ta dệt lụa. Tấm vải dệt xong, đưa cho người điên xem, người điên chê vải dệt quá thô, lại gọi thợ dệt đến, bảo dệt mịn hơn. Người thợ dệt mịn hơn, dệt rất nhiều lần, dệt đến sợi tơ tinh nhuyễn vô cùng; nhưng người điên nầy cũng không vừa ý, luôn miệng nói còn thô, chê thợ dệt tay nghề không điêu luyện. Bác thợ dệt liền nghĩ cách gạt người điên, bác chỉ tay lên trời bảo người điên rằng: “Chẳng phải anh nói tôi dệt thô sao? Sợi bông mịn nhất của tôi đang ở trên không kia kìa.”

Người điên nhìn lên trời cãi lại: “Đâu có đâu! Trên trời chẳng có sợi tơ nào cả!” Bác thợ dệt giải thích: “Sợi tơ trên trời rất nhuyễn, vì nó quá nhuyễn, ngay cả tôi là thợ dệt còn không thể nhận ra, anh không trong nghề, đương nhiên là không nhìn thấy rồi!” Người điên nghe xong, cho là có lý, liền thưởng cho bác rất nhiều tiền để đáp tạ. Từ đó trở đi, những người thợ dệt khác cũng dùng chiêu thức nầy gạt người điên kia: “Sợi bông nầy của tôi đang ở trên trời kìa! Nó mịn nhất đấy!” Người điên lại thưởng cho rất nhiều tiền; người nầy rồi đến người kia đều làm như thế. Con giảng pháp Đại thừa nầy cũng giống như vậy; nói là “không”, lại nói trong “không” có “diệu hữu”, chỉ là không nhìn thấy mà thôi! Cách nói nầy cũng giống như bác thợ dệt kia.”

Pháp sư Cưu Ma La Thập thưa: “Không phải vậy đâu ạ!” Và lại nói rất nhiều diệu lý Đại thừa cho sư phụ nghe; thầy trò biện luận qua lại suốt một tháng trời, Cưu Ma La Thập mới thuyết phục được vị thầy Tiểu thừa của mình.

Lúc nầy Tôn giả Bàn Đà Bồ Đạt Đa đã hiểu rõ được lý “chân không diệu hữu” của Đại thừa. Sau khi hiểu rõ rồi, tôn giả như thế nào? Tôn giả nói: “Bây giờ sư phụ phải bái con làm thầy!” Cưu Ma La Thập không chịu: “Không thể thế được! Lúc trước con đã bái thầy làm sư phụ, giờ làm sao thầy có thể bái con làm sư phụ chứ?”

Tôn giả Bàn Đà Bồ Đạt Đa nói: “Thầy là sư phụ Tiểu thừa của con, con là sư phụ Đại thừa của thầy; mỗi người đều có thầy, mỗi người đều có thừa của mình, không hề chi!” Sư phụ đã đưa ra giải pháp như thế, Pháp sư Cưu Ma La Thập không còn gì để nói, bèn đồng ý thâu nhận sư phụ làm đồ đệ.

Quý vị thấy không, người xưa vốn không chấp ngã! Không chấp ngã, chứng tỏ tôn giả đã thông suốt được; nếu như tôn giả không thông suốt thì sao? “Ồ! Anh giảng cao thật, nhưng vẫn là đệ tử của tôi!” Tôn giả sẽ không bái ngược lại đệ tử, tôn làm sư phụ mình. Điều nầy đủ để chứng minh người xưa không có chấp ngã, chỉ lấy đạo làm thầy; nếu đạo đức của anh cao hơn tôi, tôi sẽ bái anh làm sư phụ. Người xưa là thế, không có quan niệm giai cấp, không phân biệt ta – người. Có thể nói là “không có tướng ngã, không có tướng nhân”, chỉ người hoàn toàn không có chút chấp ngã, mới có thể làm được việc như thế.

Khi Pháp sư Cưu Ma La Thập ở tại nước Quy Tư, có một lần thời tiết vô cùng khô hạn; rất lâu, rất lâu trời không mưa, Pháp sư liền hiển lộ thần thông, lập đàn cầu mưa, và dự đoán rằng: “Trong vòng ba ngày, nhất định sẽ có mưa”. Quả nhiên chưa đến ba ngày, trời đã đổ mưa; điều đó làm cho mọi người càng thêm tín ngưỡng Pháp sư. Đương thời, quốc vương các nước đều rất mực cung kính Cưu Ma La Thập, họ muốn thỉnh Ngài đến nước mình thuyết giảng kinh pháp. Mỗi quốc vương thể hiện lòng cung kính đối với Pháp sư như thế nào? Bấy giờ có Sa Lặc vương thỉnh Cưu Ma La Thập thăng tòa giảng kinh; để biểu hiện thành tâm của mình, quốc vương đợi đến giờ thuyết pháp, liền nằm dài tại pháp đường, dùng thân mình làm tòa, thỉnh Pháp sư ngồi lên. Quốc vương Sa Lặc đã thể hiện lòng cung kính cúng dường như thế đó. Một vì vua dùng thân mình làm tòa, thể hiện lòng cung kính Pháp sư tột bực, đã cảm hóa được mọi người ai nấy đều năm vóc sát đất, đảnh lễ cúng dường Pháp sư Cưu Ma La Thập.

Vì quốc vương cung kính Pháp sư như thế, nên nói: “Thượng hữu hảo giả, hạ tất hữu thậm yên giả”. Trên có vua tin yêu Phật pháp, dưới nhất định bá tánh càng tin tưởng Phật pháp hơn cả vua. Có một câu nói: “Quân tử chi đức, phong; tiểu nhân chi đức, thảo; thảo thượng chi phong, tất yển”. Nghĩa là đức hạnh của vua giống như gió; đức tính của bá tánh giống như cỏ; một trận gió lùa qua, cỏ đều rạp xuống. Rạp xuống ở đây, không phải là ngã rạp xuống đất, mà ý muốn nói bá tánh càng phục tùng hơn.

Cho nên đương thời Pháp sư Cưu Ma La Thập không chỉ hoằng dương Phật pháp trong phạm vi nước Quy Tư, mà còn đến các nơi trên toàn nước Ấn Độ; mỗi nước đi qua, Ngài đều nhận được sự cung kính cúng dường của mọi người.

Khi Pháp sư Cưu Ma La Thập còn nhỏ, đi tham học khắp nơi với mẹ, hai mẹ con đã từng gặp được một vị La hán ngộ đạo. Vị La hán nầy vừa nhìn thấy La Thập đã bảo với mẹ của Ngài: “Cô hãy chăm sóc tốt cho vị sa di nhỏ nầy của cô! Cậu bé không phải là một tiểu sa di bình thường. Nếu như qua ba mươi sáu tuổi không hề phạm giới, thì cậu bé sẽ hóa độ được rất nhiều người giống như Tổ thứ tư Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta) tại Ấn Độ”. Đương thời khi hành đạo, Tổ Ưu Ba Cúc Đa ở trong một hang đá; mỗi khi độ được một người, Tổ đều bỏ một thẻ tre vào trong hang, đến nỗi đầy cả hang đá đựng toàn thẻ tre. Điều nầy có thể thấy, Tổ đã hóa độ được rất nhiều người!

Vị La hán nói với mẹ của Cưu Ma La Thập như thế, mẹ Ngài cũng bảo lại với Ngài như vậy, bản thân Ngài cũng rất tin tưởng vào điều nầy. Về sau Ngài cùng mẹ đi tham học khắp nơi, mẹ Ngài chứng được tam quả A Na Hàm, liền quán sát nhân duyên của con, biết rằng nhân duyên của Ngài ở tại Trung Hoa, bèn bảo với Ngài rằng: “Chúng sanh con độ đều ở tại Đông Chấn Đán (Đông Chấn Đán chỉ Trung Hoa), nhưng đối với bản thân con thì quả là bất lợi”.

Pháp sư Cưu Ma La Thập tỏ rõ quyết tâm của mình với mẹ: “chỉ cần có thể truyền bá Phật pháp đến Đông Chấn Đán, cho dầu con có tan xương nát thịt, hoặc nguy hiểm đến bản thân như thế nào, con cũng cam tâm tình nguyện. Phát tâm Bồ tát là vì chúng sanh chứ không phải vì mình, con chỉ muốn cống hiến cho Phật pháp, nếu có thể làm được điều gì đó có lợi cho đạo Phật, thì mạng sống nầy không đáng kể, dù có hy sinh bản thân, con cũng vui lòng! Dầu gặp phải muôn vàn gian khó, con cũng quyết không thay đổi ý định!” Quả nhiên về sau, Lữ Quang phụng mệnh đi rước Pháp sư Cưu Ma La Thập về Trung Hoa.

Khi Pháp sư Cưu Ma La Thập ở Lương Châu, Lữ Quang có một quần thần thân tín nhất là Trương Tri. Trương Tri bệnh, có một kẻ lừa bịp thuộc Bà La Môn giáo đến xin trị bệnh. Tại sao gọi là lừa bịp? Vì y nói có thể trị được bệnh cho Trương Tri. Thế là Lữ Quang bỏ ra rất nhiều tiền mời y trị bệnh.

Pháp sư Cưu Ma La Thập biết người nầy là kẻ lừa gạt, nên nói với Lữ Quang: “Tướng quân có bỏ ra bao nhiêu tiền, cũng không thể trị được bệnh của Trương Tri. Tôi có thể dùng một phương thức giải trí để chứng minh bệnh của Trương Tri sẽ không hết. Bây giờ tôi dùng sợi dây ngũ sắc, đốt thành tro, thả vào trong nước, nếu tro đó có thể phục hồi lại nguyên trạng sợi dây ngũ sắc, thì bệnh của Trương Tri sẽ không hết. Nếu tro thả vào nước không thể phục hồi lại nguyên trạng, thì bệnh của Trương Tri sẽ hết. Nếu tướng quân không tin, tôi sẽ thử nghiệm cho Ngài xem!” Pháp sư liền đốt sợi dây ngũ sắc, thả tro vào trong một bát nước, quả nhiên tro nổi lên, kết lại thành sợi dây ngũ sắc như cũ. Tuy thế, Lữ Quang vẫn tiếp tục trị bệnh cho Trương Tri, nhưng cuối cùng bệnh cũng không hết; chẳng bao lâu sau, Trương Tri chết. Lữ Quang đã tiêu hao rất nhiều tiền, mà không thâu về được chút kết quả nào. Đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn của Pháp sư Cưu Ma La Thập, thần thông diệu dụng nầy không phải người thường có thể biết được. Sự trãi nghiệm và thần thông diệu dụng của Pháp sư Cưu Ma La Thập, nói ra rất nhiều. Trước hết chúng ta chỉ biết đại khái như thế, khi dần dần nghiên cứu chuyên sâu vào Phật pháp, sẽ biết hết mọi chuyện một cách toàn diện, rõ ràng hơn.

Đây là nhân duyên phiên dịch bộ “Kinh Pháp Hoa” của Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần.

Pháp sư Cưu Ma La Thập lúc sinh thời phiên dịch Kinh điển được ba trăm quyển. Trước khi viên tịch, Pháp sư đã nói với mọi người: “Một đời tôi phiên dịch rất nhiều kinh điển, bản thân tôi cũng không biết có chính xác hay không? có sai sót gì không? Nếu như tôi dịch kinh điển đều đúng, không có sai sót, thì sau khi tôi chết, dùng lửa hỏa táng, thân nầy sẽ biến thành tro, duy chỉ  cái lưỡi vẫn còn nguyên vẹn. Như thế sẽ chứng minh được tôi dịch những kinh điển hoàn toàn đúng, không có sai sót; còn như  cái lưỡi bị thiêu thành tro, cũng đồng nghĩa tôi dịch những kinh điển đều là sai trái”.

Đợi sau khi Pháp sư Cưu Ma La Thập viên tịch, cử hành lễ trà tỳ–dùng lửa hỏa táng, cái lưỡi quả nhiên vẫn còn nguyên vẹn, không chút xây xát. Điều nầy chứng minh Pháp sư Cưu Ma La Thập phiên dịch tất cả kinh điển hoàn toàn chính xác, hoàn toàn không có chỗ sai sót.

Lại còn một minh chứng nữa là vào thời Đường Trung Hoa, ở núi Chung Nam có vị Luật sư tên Đạo Tuyên, chuyên tu trì về giới luật. Núi Chung Nam là một núi danh tiếng của Trung Hoa, trong núi có rất nhiều người ở đó tu đạo, lão hòa thượng Hư Vân cũng từng ở lều cỏ tại đây. Vị luật sư Đạo Tuyên nầy tinh tấn trì giới, cảm đến chư thiên xuống cúng dường thực phẩm; cơm Ngài dùng là do chư thiên cúng dường.

Có một hôm, Luật sư Đạo Tuyên vì tuổi già, một hôm đi đường bị té ngã, con trai của Đa Văn Thiên Vương ở phương Bắc đến đỡ Ngài đứng dậy. Luật sư vừa nhìn biết ngay là chư thiên đến giúp mình, bèn hỏi rằng: “Tại sao người đời đều thích đọc tụng kinh điển do Pháp sư Cưu Ma La Thập phiên dịch, đây là vì lẽ gì?” Con trai Thiên Vương trả lời: “Pháp sư Cưu Ma La Thập là vị thầy dịch kinh cho bảy đời chư Phật trong quá khứ, kinh điển bảy đời chư Phật trong quá khứ nói đều do Ngài phiên dịch. Vì Ngài đời đời kiếp kiếp đều phát nguyện: ‘Chỗ nào có Phật ra đời, tôi liền đến đó phiên dịch kinh điển!’ Kinh điển từ bảy đời chư Phật trong quá khứ cho đến ngày nay đều do Ngài phiên dịch. Cũng vì lẽ nầy mà kinh điển do Pháp sư phiên dịch không hề có chút sai sót!”

“Bảy đời chư Phật trong quá khứ” là bảy vị nào? Một là Phật Tỳ Bà Thi, hai là Phật Thi Khí, ba là Phật Tỳ Xá Phù, bốn là Phật Câu Lưu Tôn, năm là Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, sáu là Phật Ca Diếp, bảy là đức Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta. Từ điểm nầy đủ để chứng minh kinh điển do Pháp sư Cưu Ma La Thập phiên dịch hoàn toàn chính xác.

Vì vậy ngày nay chúng ta có thể hiểu được “Kinh Pháp Hoa”, giảng “Kinh Pháp Hoa”, nghe “Kinh Pháp Hoa” đều nhờ vào công đức của Pháp sư Cưu Ma La Thập. Nếu như không có Ngài phiên dịch, chúng ta không dễ gì nghe được Phật pháp. Cho nên bây giờ chúng ta, trước khi bắt đầu thời kinh đều phải khởi tâm cảm ân báo đức đối với Pháp sư Cưu Ma La Thập. Thế nào là cảm ân? Thế nào là báo đức? Chúng ta phải phát nguyện muốn hoằng dương Phật pháp, muốn tìm cách phiên dịch nhiều kinh điển, dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Anh. Phiên dịch nhiều kinh điển, chính là nối tiếp theo chí nguyện của Pháp sư Cưu Ma La Thập vậy.

Tam tạng” chính là ba tạng “Kinh, Luật, Luận”. Kinh là kinh tạng; Luật là Luật tạng; Luận là Luận tạng. Kinh, tiếng Phạn là “Tu đa la”, dịch ra tiếng Trung Hoa là “khế kinh”. Khế là khế hợp; Kinh là pháp thường hằng. Khế hợp là “trên khế hợp với chân lý của chư Phật, dưới khế hợp với căn cơ chúng sanh”, khế hợp với tất cả cơ duyên của chúng sanh, nên gọi là “khế kinh”. Có nghĩa là, kinh điển y như diệu lý của chư Phật, nên rất thích hợp với căn cơ của chúng sanh, có thể dùng kinh điển để giáo hóa chúng sanh. Trong kinh bao hàm cả tam học “Giới, Định, Tuệ”. Định chính là định lực; Luật là giới luật. Giới luật có năm giới; tám giới; mười giới Sa Di; mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh của Bồ Tát; hai trăm năm mươi giới của Tỳ Kheo; ba trăm bốn mươi tám giới của Tỳ Kheo Ni.

Pháp sư”: pháp là Phật pháp; sư là sư biểu. “Sư biểu” là người có thể làm gương mẫu, mô phạm, pháp tắc tốt cho người, còn gọi là “sư phạm”. “Pháp sư”, có khi nói là “dĩ pháp thí nhân”, đem Phật pháp bố thí cho tất cả chúng sanh, nên gọi là “Pháp sư”. Lại có một cách nói khác “dĩ pháp vi sư”, lấy Phật pháp làm thầy của mình, cũng gọi là “Pháp sư”. Pháp sư có rất nhiều loại, hiện tại chúng ta chỉ biết đại khái ý nghĩa như thế là được rồi.

Cưu Ma La Thập”: Vị Pháp sư nầy là ai? Là Pháp sư Cưu Ma La Thập. “Cưu Ma La Thập” là tiếng Phạn, dịch ra tiếng Trung Hoa là “đồng thọ”. Đồng là đồng tử, tức là một đứa bé, một đứa bé trai, young boy. Thọ là thọ mạng. Thọ có trường thọ, đoản thọ và yểu thọ; “thọ” ở đây chính là “trường thọ, long life”, “người già”. Ý nói Cưu Ma La Thập tuy là một đứa bé trai, nhưng lại có phong độ, đức hạnh, tư tưởng của một bật trưởng giả , nên gọi là “đồng thọ”. Có phải dịch như vầy: “Young boy has a long life” không? Không phải! Vậy dịch như thế nào? Đứa trẻ nầy không phải là thọ mạng của nó dài, mà là có đức hạnh của một bật trưởng giả , nên mới gọi là “đồng thọ”. Đây là tên chữ của Pháp sư Cưu Ma La Thập.

Dịch” là “phiên dịch”, “biện dịch”. Kinh sách bằng tiếng Ấn Độ phiên dịch ra tiếng Trung Hoa, ý nghĩa của kinh được dịch ra tiếng Hán cũng giống như ý nghĩa của kinh bằng tiếng Phạn. Cho nên ý nghĩa kinh Phật tiếng Trung Hoa và ý nghĩa kinh Phật của tiếng Phạn Ấn Độ đều giống nhau.

Tại sao lại để tên người dịch phía trước kinh? Vì đương thời nếu như không phải Pháp sư Cưu Ma La Thập đến Trung Hoa, đề xướng việc phiên dịch kinh điển, thì kinh điển sẽ không truyền đến Trung Hoa nhanh như thế; vì để lưu lại công đức của Pháp sư Cưu Ma La Thập cho mọi người ghi nhớ, tưởng niệm, nên mới để tên Ngài phía trước kinh. Việc làm nầy có nhiều ý nghĩa, một mặt để tưởng niệm công đức của Pháp sư, mặt khác muốn Pháp sư Cưu Ma La Thập lãnh lấy trách nhiệm, nếu có chỗ nào sai sót, phiên dịch không đúng thì tự Ngài nhận lấy quả báo của việc mình làm. Vì thế nên mới đề tên của Pháp sư Cưu Ma La Thập phía trước kinh để người đời sau luôn ghi nhớ, không bao giờ quên công đức phiên dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập.

 

Phần tiếp theo