Chinese | Vietnamese
Hòa Thượng Tuyên Hoá lược giảng
Quyển thứ nhất
PHẨM TỰA THỨ NHẤT
A1. Phần Tựa
B1. Tựa chung (giải thích sáu loại chứng tín)
C1. Đánh dấu lòng tin và pháp được nghe
C2. Thời gian, chủ thể và nơi thuyết
C3. Chúng dự nghe
B2. Tựa riêng
A2. Phần nội dung chính
A3. Phần mở rộng
C1. Đánh dấu lòng tin và pháp được nghe
C3. Chúng thành tựu (có 2)
D1. Phân loại chúng (có 3)
E1. Chúng Thanh văn (có 2)
F1. Chúng Tỳ kheo (có 2)
G1. Chúng Vô học (có 3)
H1. Số liệt kê tiêu biểu
H2. Những vị đạo cao đức trọng
H3. Nêu tên chung
G2. Chúng Hữu học
F2. Chúng Tỳ kheo ni
E2. Chúng Bồ tát
E3. Tám bộ chúng
D2. Tổng số chúng vân tập
H1. Số liệt kê tiêu biểu
III. LỜI NÓI ĐẦU
“Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” tổng cộng có 28 phẩm, phẩm thứ nhất là “Phẩm Tựa”, kể lại nhân duyên thuyết bộ Kinh này. Tất cả những bộ Kinh xưa nay, không gọi phẩm thứ nhất là “Phẩm Tựa”, nhưng đặc biệt chỉ bộ “Kinh Pháp Hoa” này có “Phẩm Tựa”.
III. VĂN GIẢI THÍCH
A1. Phần Tựa
B1. Tựa chung (giải thích sáu loại chứng tín)
C1. Đánh dấu lòng tin và pháp được nghe
C2. Thời gian, chủ thể và nơi thuyết
C3. Chúng dự nghe
B2. Tựa riêng
A2. Phần nội dung chính
A3. Phần mở rộng
C1. ĐÁNH DẤU LÒNG TIN VÀ PHÁP ĐƯỢC NGHE
Tôi nghe như vầy
Như thị ngã văn
“Tôi nghe như vầy”: như vầy là “tín thành tựu”; tôi nghe là “văn thành tựu”. Pháp như vầy mới có thể tin, pháp không như vầy thì không thể tin; cho nên “như vầy” chính là “tín thành tựu”. Phàm những kinh điển Phật nói đều có sáu loại thành tựu, đó là: tín thành tựu, văn thành tựu, thời thành tựu, chủ thành tựu, xứ thành tựu và chúng thành tựu.
Tôi nghe là “văn thành tựu”. “Tôi” này là “tôi” nào? Có “cái tôi giả tạm” của phàm phu, có “cái tôi linh thiêng” của ngoại đạo; “tôi” này chính là “cái tôi giả tạm”, không phải là “cái tôi chân thật”. Tôi nghe, vốn chẳng phải là “tai nghe” sao? Sao lại nói “tôi nghe”? Vì “tai” chỉ là một bộ phận của cơ thể, “tôi” là cái tên chung của toàn thân, nên A-nan mới nói “tôi nghe”.
Bốn chữ “Tôi nghe như vầy’ có rất nhiều ý nghĩa:
(1) Dứt trừ lòng nghi của chúng
Khi Tôn giả A-nan kết tập Kinh tạng, vừa lên pháp tòa, nghĩ đến tướng tốt của Phật—liền hiện tướng giống như thân Phật, nên đại chúng liền khởi lên ba mối nghi.
– Nghi thứ nhất, những chúng Bồ-tát, La-hán và các Tỳ-kheo trong đây cho rằng: “Đức Phật Thích-ca chưa nhập Niết-bàn, Ngài lại đến đây để giảng Kinh thuyết pháp!”. Đại chúng những tưởng là “Phật đã trở lại”.
– Nghi thứ hai, có người hoài nghi, nói nhất định là “Phật ở nơi phương khác đến”. Phật ở cõi khác đến đại hội kết tập này.
– Nghi thứ ba, mọi người nói: “A-nan bây giờ đã chuyển thân thành Phật, nếu không như vậy, sao lại có tướng hảo quang minh, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp và ánh sáng vàng tía tụ lại như thế?”
Nhưng khi nghe A-nan trên pháp toà vừa nói bốn chữ “tôi nghe như vầy” thì ba mối nghi trên liền dứt, chẳng còn lưu lại mảy may!
Tất cả chúng La-hán, Bồ-tát, Thanh văn và Tỳ-kheo lúc này mới biết! Như vầy là “từ chỉ pháp” (chỉ pháp chi từ). A-nan nói: “Pháp như vầy là pháp Phật nói, chính tai A-nan tôi nghe thấy, chứ không phải là pháp tự tôi nói”.
(2) Tuân theo di chúc của Phật
Tuân là tuân theo. Khi Phật sắp nhập Niết-bàn, Ngài có dặn dò A-nan: Trước mỗi bộ Kinh đều nên để bốn chữ “Tôi nghe như vầy”. A-nan y lời Phật dạy, khi kết tập Kinh điển, câu nói đầu tiên là bốn chữ “Tôi nghe như vầy”.
(3) Dứt trừ tranh luận
Vì sao nói dứt trừ tranh luận? Vì A-nan là người trẻ nhất trong chúng đệ tử Phật; nếu Ngài không mượn danh nghĩa của Phật, không nói “bộ Kinh này là tôi được nghe Phật thuyết” thì giữa mọi người sẽ xảy ra tranh luận: “Tôn giả có thể nói, tôi cũng có thể nói”. Cứ thế tranh luận qua lại không thôi. A-nan nói bộ Kinh này là do Phật thuyết, thì tất cả mọi người, bất luận là Trưởng lão, Đại đức, Tỳ-kheo đều không có lời gì. Vì sao vậy? Vì Kinh điển là do Phật nói, không phải tự A-nan tạo ra, nên dùng bốn chữ “Tôi nghe như vầy” để chứng minh, chấm dứt sự tranh luận giữa mọi người.
(4) Khác với ngoại đạo
Trước mỗi bộ Kinh điển của ngoại đạo đều dùng hai chữ “A Âu”; “A” là “không”, “Âu” là “có”. Vì sao dùng hai chữ này? Vì ngoại đạo nói: “Tất cả các pháp không phải ‘không’, tức là ‘có’; không phải ‘có’, tức là ‘không’.” Kinh điển Phật nói, mở đầu bằng câu “Tôi nghe như vầy” khác với loại “có đầu không đuôi, có đuôi không đầu”, “không phải không, chính là có; không phải có, chính là không” của ngoại đạo.
Khi Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, A-nan thưa hỏi Phật bốn việc, Phật đã trả lời A-nan như sau:
Thứ nhất, khi kết tập Kinh điển, trước mỗi Kinh nên dùng câu “Tôi nghe như vầy”.
Thứ hai, sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, các Tỳ-kheo nên “nương vào Tứ Niệm Xứ mà trụ”; Tứ niệm xứ là “thân, thọ, tâm, pháp”:
(1) Quán thân bất tịnh
Quán sát thân này là nhơ uế. Cơ thể của chúng ta cho dù được rửa sạch, cũng có mồ hôi ra, nếu không tắm rửa sẽ có mùi hôi, nên nói “chín khiếu thường chảy ra những thứ không sạch”. Quý vị xem! Hai mắt thì có nước mắt, ghèn, đây là những thứ không sạch. Hai lỗ tai thì có cứt ráy, nếu một thời gian, quý vị không móc ra, cứt ráy sẽ đầy bên trong. Hai lỗ mũi thì có nước dịch của mũi, trong miệng thì có đàm, nước bọt. Những thứ này đều là bất tịnh, quý vị làm thế nào để dọn dẹp chúng? Bên trong chúng luôn chứa những thứ nhơ bẩn. Bảy khiếu (“khiếu” nghĩa là lỗ trống) này,cộng thêm hai khiếu tiểu tiện và đại tiện, thành ra chín khiếu, gọi là “chín khiếu thường chảy ra những thứ không sạch”, vì vậy nên phải quán thân là bất tịnh.
Những chúng sanh có nhiều tham luyến, nên tu “quán bất tịnh”, là pháp tu xem thân này không sạch, không thanh tịnh. Có nhiều tham luyến, tham cái gì? Chính là tham đắm dâm dục. Người tham đắm dâm dục, phải dùng phương cách để ngăn chặn “dâm”. Ngăn chặn thế nào? Chính là quán thân bất tịnh. Nam , nữ diện mạo có xinh đẹp cách mấy cũng đều là bất tịnh; đã là bất tịnh, thì có gì đáng để tham luyến? Nên mới nói “chúng sanh nhiều tham luyến phải quán bất tịnh”. Biết nó bất tịnh, nên không tham đắm; không tham đắm, sẽ không có tâm dâm dục mạnh mẽ như thế!
(2) Quán thọ là khổ
Thọ là lãnh thọ. Tất cả cảnh giới mà quý vị cảm thọ là cảnh giới thiện hay cảnh giới ác? Có cảm thọ sẽ làm tâm quý vị dao động; tâm dao động chính là khổ vậy. “Khổ” ở đây nói ra rất nhiều, có ba khổ “Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ; lại có “thương yêu xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, cầu mong không được khổ, năm ấm lẫy lừng khổ”; cộng thêm “khổ do sanh, già, bệnh, chết” thành ra tám khổ. “Khổ khổ, hoại khổ và hành khổ” này bao hàm cả cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc; trong ba cõi này, có đủ ba loại khổ trên. Bất luận quý vị tiếp nhận hay lãnh thọ cảnh giới nào đều là khổ cả. Nếu quý vị có thể biết đó là khổ, thì sẽ không bị loại cảm thọ này tác động; không có cảm thọ mong cầu khoái lạc thì sẽ không có khổ.
(3) Quán tâm vô thường
Tâm của con người, niệm sau vừa sanh ra, niệm trước liền diệt; niệm trước diệt, niệm sau liền sanh. Giống như sóng ngoài biển cả, từng niệm từng niệm nối tiếp không dừng; nhưng mỗi một niệm đều là vô thường, mỗi một niệm đều là hư vọng.
(4) Quán pháp vô ngã
Pháp có “sắc pháp và tâm pháp”. Trong “Bách Pháp Minh Môn Luận” nói:
Sắc pháp mười một, Tâm pháp tám, năm mươi mốt món Tâm sở pháp;
Hai mươi bốn Pháp bất tương ưng, sáu pháp Vô vi thành trăm pháp.
“Sắc pháp” mười một (11), “Tâm pháp” tám (8), năm mươi mốt (51) món “Tâm sở pháp”, cộng thêm hai mươi bốn (24) “Pháp bất tương ưng” và sáu (6) “pháp Vô vi” hợp lại thành trăm (100) pháp. Tuy nhiều pháp như thế, nhưng không có “tự ngã”. “Ngã” và “ngã sở” đều không. Trong “Kinh Kim Cang” nói: “Chính pháp còn xả, huống gì phi pháp” (pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp). Cái gọi là pháp chân chánh, đều không nên chấp có pháp, nếu chấp có pháp, sẽ trở thành “chấp pháp”. Quý vị tu đến chỗ rốt ráo thì sẽ thấy người không mà pháp cũng không.
Trước kia, chúng ta không hiểu Phật pháp, nên chấp có ngã; tất cả đều thuộc về ta tất cả đều là vật sở hữu của ta và chấp trước vào đó. Vì chấp trước, nên có vướng ngại; vì vướng ngại, nên có điên đảo; vì điên đảo, nên có mộng tưởng. Khi chưa hiểu Phật pháp, thì có “chấp ngã”; sau khi hiểu Phật pháp rồi, lại chuyển sang “chấp pháp”, chấp có “pháp”. Nên trong Tứ Niệm Xứ, Phật nói phải quán tất cả pháp đều không có ngã; “ngã” đã không có, thì làm gì có “pháp” chứ?
Quán thân bất tịnh, thọ, tâm, pháp cũng đều bất tịnh; cảm thọ cũng là bất tịnh, tâm cũng bất tịnh, pháp cũng bất tịnh. Quán thọ là khổ; quý vị xem, đã biết “thọ” là khổ rồi, thế thì thân, tâm và pháp cũng trở thành khổ cả. Quán tâm vô thường; thân, pháp và thọ này cũng đều vô thường. Quán pháp vô ngã; thân, thọ và tâm này cũng đều vô ngã. Nên tuy nói “Tứ Niệm Xứ” là “thân, thọ, tâm, pháp”, nhưng chúng đều có mối liên hệ ràng buộc với nhau. “Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, các Tỳ-kheo nên nương vào “Tứ niệm xứ”, mỗi giờ khắc đều không được lơ là, đây là lời dặn dò của Như Lai.” Đức Phật Thích-ca khi sắp nhập Niết-bàn, đã dặn dò tất cả đệ tử như thế, vậy nên đã có rất nhiều Tỳ-kheo tu theo Pháp Tứ Niệm Xứ này.
Thứ ba, sau khi Phật nhập Niết-bàn, phải “lấy Giới làm thầy”. Tất cả các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phải y vào giới luật mà tu hành. Nếu không y vào giới luật tu hành, Phật pháp sẽ diệt vong; còn y vào giới luật tu hành, Phật pháp sẽ trụ vững ở đời. Có một người y vào giới luật tu hành, Phật giáo sẽ thêm một phần xán lạn; có mười người y vào giới luật tu hành, Phật giáo sẽ có thêm mười phần xán lạn. Nếu có một trăm người, một ngàn người, một vạn người, người người đều y vào giới luật tu hành, không phạm vào giới luật Phật chế, thì Phật giáo lúc này sẽ vô cùng xán lạn; chiếu sáng, phá tan mọi sự đen tối trên cuộc đời này. Cho nên giữ giới, y vào giới tu hành là điều quan trọng nhất.
Thứ tư, đối với những Tỳ-kheo có tánh ác, nên dùng thái độ im lặng để cách ly vị ấy. Tỳ-kheo có tánh ác, không có cách nào nói lý lẽ với họ, ta chỉ có thể im lặng, không tranh luận, để họ tự phát tâm sám hối, nghiêm trì lại quy tắc. Đây là biện pháp tốt nhất.
A-nan đem bốn việc trên hỏi Phật, Đức Phật đã trả lời như thế. Nên bây giờ trước mỗi bộ Kinh đều có bốn chữ “Tôi nghe như vầy” (như thị ngã văn). Như vầy (như thị) là từ chỉ cho pháp, chính là pháp đang nói, đây là một loại thành tựu của “tín”. Quý vị tin, thì là “như thị” (như vầy); không tin, thì là “bất như thị” (không như vầy). “Như Thị” cũng có nghĩa như vầy: “Bất biến danh ‘Như’; Tùy duyên viết ‘Thị’” (bất biến gọi là ‘như; tùy duyên gọi là ‘thị’). “Bất biến gọi là như”; “như” này chính là “bất biến”. “Tùy duyên gọi là thị”, tùy tất cả duyên, đó là “thị”. Tuy tùy duyên mà bất biến, bất biến mà lại tùy duyên, cũng chính là như như bất động, liễu liễu thường minh, đây gọi là “như thị”. Hai chữ “như thị” có nghĩa là “ấn khả”, tức là nếu quý vị làm đúng, thì tâm quý vị và tâm Phật giống nhau, gọi là “như thị”; nếu tâm quý vị và tâm Phật không giống nhau, gọi là “không như thị”.
Tôi nghe như vầy, A-nan nói: “Pháp như vầy là do A-nan tôi tự tai nghe Phật nói, chứ không phải tự bày vẽ ra, không phải tự biên soạn ra, đó là tôi được nghe từ Phật”. A-nan nhỏ tuổi hơn Phật rất nhiều, Phật 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo; vào ngày tu sĩ Cồ-đàm thành Phật, chính là ngày A-nan ra đời. A-nan 20 tuổi mới xuất gia làm thị giả cho Phật, nên những Kinh điển Phật nói từ 20 năm trước, A-nan chưa được nghe qua, thế thì làm sao khi kết tập Kinh điển, A-nan lại có thể kết tập được?
A-nan là em chú bác với Phật, đến 20 tuổi mới xuất gia, những Kinh điển Phật nói trước đó, A-nan chưa từng nghe qua, nhưng do A-nan phát nguyện “thỉnh Phật nói lại”, nên ở trong thiền định, Phật đã nói lại một lượt những Kinh điển đã nói từ trước cho A-nan nghe. Đối với những Kinh điển Phật nói, A-nan “nghe qua liền ghi nhớ rõ” từ đầu đến cuối, lời nói qua tai, vĩnh viễn ghi vào tâm khảm. Vì vậy mà có câu nói: “Phật pháp đại hải thủy, lưu nhập A-nan tâm”. Nghĩa là pháp của Phật giống như nước biển cả, chảy vào tâm A-nan.
Lại nữa, A-nan là trường hợp “đại quyền thị hiện”; quyền là phương tiện quyền xảo. Tất cả Kinh tạng của chư Phật đời quá khứ đã nói, đều do A-nan kết tập, cho nên dẫu những pháp chưa được nghe đức Phật Thích-ca nói qua, nhưng sau khi được khai ngộ, A-nan đều có thể nhớ lại tất cả những tạng pháp của chư Phật đời quá khứ nói. Pháp của mỗi một vị Phật nói đều giống nhau; trong pháp hội của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện tại, A-nan đều có thể nhớ lại những Kinh giáo đã lãnh thọ trước kia, chính là những Kinh giáo Đức Phật Thích Ca đã nói mà Ngài chưa được nghe qua, A-nan hoàn toàn có khả năng ghi nhớ lại.
C2. THỜI GIAN, CHỦ THỂ VÀ NƠI THUYẾT
Một thời, đức Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành Vương Xá.
Nhất thời, Phật trụ Vương Xá thành, Kỳ-xà-quật sơn trung.
“Một thời” chính là “thời thành tựu”. Vì “thời” không có nhất định, nếu như phải nói vào giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào thì thời gian ở Ấn Độ và Trung Hoa không giống nhau. Liên quan đến vấn đề lịch số, đại khái trước kia mỗi một nước đều có riêng múi giờ, ngày, tháng, năm của nước đó, không nước nào giống nước nào. Nếu nói vào giờ, ngày, tháng, năm nào, thì phải phiền đến các nhà khảo cổ bỏ ra rất nhiều tâm lực nghiên cứu, nên khi phiên dịch Kinh Phật, phải nói “có một thời như thế”. Đó là thời nào? Tức là thời gian đức Phật Thích-ca nói “Kinh Pháp Hoa”.
“Phật” là “Chủ thành tựu”. Phật là từ gọi tắt của tiếng Phạn (Buddha), nói đầy đủ là “Phật-đà-da”, còn gọi là “Bố-đạt-da”. Thói quen của người Trung Hoa thích tỉnh lược văn, nên chỉ nói riêng một chữ Phật. Người Trung Hoa đều quen thuộc với chữ “Phật” này; nhưng khi quý vị bảo họ giảng ý nghĩa của chữ “Phật”, họ đều không biết giảng. Chữ “Phật” vốn không có ở Trung Hoa mà là do người đời sau đặt ra. “Phật có nghĩa là giác”, bậc giác ngộ. “Giác” có ba loại:
(1) Bổn giác
Phật tánh xưa nay vốn giác ngộ, không cần thiết phải trải qua quá trình tu hành.
(2) Thủy giác
Vừa mới giác ngộ. Giống như chúng ta vốn có Phật tánh, ai ai cũng có thể thành Phật, nhưng chưa giác ngộ; đây chỉ có bổn giác mà chưa có thủy giác. Chúng ta phát tâm muốn học Phật pháp, nghiên cứu giáo lý đạo Phật; lúc mới bắt đầu này, gọi là “thủy giác”, tức là mới giác ngộ.
(3) Cứu cánh giác
Sau giai đoạn đầu mới giác ngộ, mỗi ngày giác ngộ thêm một ít; giống như nghe Kinh, mỗi một lần nghe, sẽ hiểu biết Phật pháp thêm một ít. Một ngày hiểu biết một chút, mười ngày sẽ hiểu biết rất nhiều; cứ thế đến một ngày nào đó sẽ hoàn toàn thâm hiểu Phật pháp, đạt đến liễu ngộ. Khi quý vị đã hoàn toàn hiểu rõ, cũng chính là được thành Phật; thành Phật rồi, gọi là “cứu cánh giác”.
Lại có ba cách giải thích khác, đó là: “tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn”.
(1) Tự giác
Tự mình giác ngộ. Tự giác khác với phàm phu; phàm phu là “bất giác”, chưa giác ngộ. Người như thế nào gọi là tự giác? Là hàng Nhị thừa, tức Thanh văn, Duyên giác. Người tu theo Tiểu thừa như hàng Nhị thừa này chỉ có thể tự giác, mà không thể giác tha.
(2) Giác tha
Chính là Bồ-tát. Nhị thừa không giống phàm phu, Bồ-tát cũng lại khác với Nhị thừa. Tại sao gọi là giác tha? Chính là tự mình giác ngộ đạo lý, rồi truyền bá, giảng nói đạo lý giác ngộ này cho người khác, mong muốn tất cả mọi người đều được giác ngộ, gọi là giác tha. Đây là Bồ-tát “tự lợi, lợi tha”, tự mình đã được giác ngộ, rồi đem sự giác ngộ này làm lợi ích tất cả chúng sanh. Hàng Nhị thừa không như thế, chỉ biết tự lợi mà không biết lợi tha; chỉ biết tự mình giác ngộ mà không màng đến những chúng sanh khác, cho nên gọi hàng Nhị thừa là “kẻ tự độ” (tự liễu hán). Phật quở trách hàng Nhị thừa là hạng “Tiêu nha bại chủng”, vì không khiến cho Phật pháp phát dương rộng rãi, ví như mầm non vừa mới nhú lên, lại bị khô héo, không thể sanh trưởng được; tuy hạt giống này được gieo xuống đất, nhưng đã bị hư thối!
(3) Giác hạnh viên mãn
Bồ-tát tuy có thể giác tha, nhưng chưa thể giác hạnh viên mãn; giác hạnh viên mãn chính là Phật, nên Phật không giống với Bồ-tát. Phật là “tam giác viên, vạn đức bị”, ba loại giác ngộ tròn đầy, tất cả đức hạnh thảy đều đầy đủ, nên mới thành “Phật”.
Vị Phật này là chỉ cho ai? Chính là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, sanh ra tại Ấn Độ, là Thái tử con vua Tịnh-phạn (Shuddhodana), tên gọi “Tất-đạt” (Siddhartha); 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành Phật, thuyết pháp suốt 49 năm, có hơn ba trăm pháp hội. A-nan nhỏ hơn Phật 30 tuổi, 20 tuổi mới xuất gia, cho nên A-nan chỉ nghe được pháp Phật nói 29 năm sau. Phật dùng thần thông bí mật nói lại những điều đã giảng 20 năm trước cho A-nan nghe; A-nan nghe qua đều ghi nhớ không quên. Khi kết tập Kinh điển, A-nan đã trùng tuyên lại rất rõ ràng những Kinh điển Phật nói.
“Trụ thành Vương Xá”: “Trụ” này có Kinh nói là ‘tại”, “Phật tại thành Vương Xá”. “Trụ” chính là “tại”, “tại” cũng chính là “trụ”; Phật ở tại thành Vương Xá. Hướng Đông bắc của thành Vương Xá là “nước Xá-vệ”. Nước Xá-vệ là tiếng Phạn (Shravasti), dịch nghĩa “Phong Đức”. Phong, ý nói ở đất nước này, “người thì dồi dào tiền của, ngũ dục; người thì có đức đa văn giải thoát”. Ngũ dục là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm; năm trần này cũng chính là tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ. Đất nước này, môi trường ngũ dục vô cùng phong phú. Đa văn là người thích đọc sách; giải thoát là vô cùng tự do tự tại, không bị ràng buộc. Do những điều trên mà đất nước này được gọi là “Phong Đức”.
“Trong núi Kỳ-xà-quật”: núi Kỳ-xà-quật (Gṛdhra-kūṭa) cũng chính là núi Linh Thứu, vì dáng núi giống như con chim thứu; linh thứu là một loại chim linh.
“Nhất thời” là thời thành tựu; “Phật” là chủ thành tựu; “núi Kỳ-xà-quật thành Vương Xá” là xứ thành tựu; “cùng với đại chúng Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội” là chúng thành tựu. Trong đa số những Kinh điển khác thì nói “một ngàn hai trăm năm mươi vị”, nhưng đặc biệt trong hội Pháp Hoa có đến một vạn hai ngàn người tham dự.
C3. CHÚNG THÀNH TỰU (phân 2 phần)
D1. Phân Loại Chúng (có 3 phần)
E1. Chúng Thanh Văn (phân 2 phần)
F1. Chúng Tỳ-kheo (có 2 phần)
G1. Chúng Vô Học (có 3 phần)
H1. Nêu Số Lượng
H2. Nói Quả Vị Để Khen Ngợi Đức
H3. Nêu Tên, tóm kết
G2. Chúng Hữu học
F2. Chúng Tỳ-kheo-ni
E2. Chúng Bồ-tát
E3. Tám bộ chúng
D2. Tổng Số Chúng Vân Tập
H1. NÊU SỐ LƯỢNG
Cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người tham dự.
Dữ đại Tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu.
“Đại Tỳ-kheo”: chính là những vị Tỳ-kheo sắp chứng đắc quả vị A-la-hán, nên gọi là “đại”.
Sao gọi là “Tỳ-kheo”? Tỳ-kheo có đầy đủ ba nghĩa, vì có nhiều nghĩa như vậy nên không dịch ra, vẫn giữ nguyên danh từ “Tỳ-kheo”. Ba nghĩa đó là gì?
(1) Khất sĩ
Chính là người xin cơm. Vì Tỳ-kheo không được nấu nướng, không tự mình nấu ăn. Trong luật Phật chế Tỳ-kheo ngày ăn một bữa, quá ngọ không ăn, đây cũng là thực hành hạnh Đầu-đà[1]. Mỗi ngày, đến giờ ăn phải ôm bát đi khất thực—đến trước cửa mỗi nhà xin cơm chay, thường thì những người cư sĩ đem cơm chay cúng dường cho những vị Tỳ-kheo này, nên gọi Tỳ-kheo là “Khất sĩ”
(2) Bố ma
Làm cho Ma vương sợ hãi. Sao gọi bố ma? Người xuất gia, khi thọ giới Tỳ-kheo, Tam sư Thất chứng hỏi: “Ông có phải là bậc trượng phu không?” Đáp: “Là bậc trượng phu!”. Hỏi: “Ông đã phát tâm Bồ-đề chưa?” Đáp: “Đã phát tâm Bồ-đề rồi!”. Khi yết ma hỏi đáp, quý vị trả lời “đã phát tâm Bồ-đề rồi”, lúc này Dạ-xoa ở dưới đất liền loan báo cho Dạ-xoa trên không; Dạ xoa trên không lại báo cho thiên ma ở sáu tầng trời cõi dục rằng: “Dưới nhân gian có người tên… đã xuất gia! Quyến thuộc của Phật-đà lại tăng thêm, quyến thuộc của ma vương chúng ta thì giảm xuống!” Vừa báo như thế, Ma vương liền khởi tâm đố kỵ, sợ hãi; nên gọi là “bố ma”.
(3) Phá ác
Phá những ác nào? Đó là phá ác phiền não; phá ác vô minh; phá ác ba độc tham, sân, si.
Tỳ-kheo có đủ ba ý nghĩa “khất sĩ, bố ma, phá ác” này.
“Chúng” là đại chúng, rất nhiều người cùng tụ hợp lại một chỗ. Số lượng bao nhiêu? “Một vạn hai ngàn người tham dự”, có đến một vạn hai ngàn Tỳ-kheo tham dự. “Chúng Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người tham dự” là chúng thành tựu.
“Tỳ-kheo” là biểu thị danh vị, nêu rõ đây là danh vị của Thanh văn. Phần sau sẽ giảng về “Thán đức”, chính là khen ngợi đức hạnh đạt đến mức độ nào.
Trước mỗi bộ Kinh đều có “tín thành tựu, văn thành tựu, thời thành tựu, chủ thành tựu, xứ thành tựu, chúng thành tựu”. Có đủ sáu thành tựu này, Phật mới nói pháp; nếu như sáu loại này có một loại không thành tựu, thì không thể nói pháp. Vì sao vậy? Ví như hiện giờ chúng ta đang giảng Kinh, phải có người nghe, yếu tố đầu tiên là phải có “chúng thành tựu”. Có người nghe rồi, nếu như không có nơi chốn, thì làm sao có chỗ ngồi nghe? Nơi chốn đã có rồi, thì phải có pháp chủ, người chân chánh hiểu rõ Phật pháp đến giảng Kinh thuyết pháp; nếu như chỉ có người nghe và nơi chốn, mà không có người thuyết pháp, thì pháp hội này cũng không thể thành tựu.
Người thuyết pháp, người nghe và nơi chốn đã có rồi, lại phải có thời gian. Nếu thời gian không thích hợp, ví như từ 7 giờ đến 9 giờ, thì thời gian này cũng không thành tựu. Có người nghe, có nơi chốn, có người thuyết pháp, có thời gian rồi, thế nhưng tôi không nghe, quý vị không nghe, thì “văn thành tựu” không có. Quý vị muốn nghe thì “văn thành tựu” đã có. Nhưng tuy nghe mà không tin tưởng, thì sẽ không biết rốt cục vị Pháp sư này đang giảng cái gì; và cũng không biết điều Ngài giảng là thật hay là giả nữa? Do không tin, nên “tín” không thành tựu. “Ồ! Vị pháp sư này giảng rất có thứ tự lớp lang, nghe thật là hay; càng nghe càng muốn nghe. Nghe được những lời này, tai tôi càng thông ra!” luôn muốn được nghe và tin nhận lời ấy, đây là “tín thành tựu”.
Hiện nay chúng ta giảng Kinh cũng có sáu loại thành tựu. Thứ nhất, quý vị phải tin; nếu quý vị có tin, mới có thể nghe; nếu quý vị muốn nghe, thì phải có thời gian; có thời gian rồi thì phải có Pháp sư giảng pháp, và phải có nơi chốn, cùng đại chúng tụ hợp lại. Sáu loại thành tựu này, không thể thiếu một cái nào.
H2. NÊU QUẢ VỊ ĐỂ KHEN NGỢI ĐỨC
Đều là các bậc A-la-hán, các lậu đã dứt, không còn phiền não, hoàn thành việc tự lợi, dứt sạch sự ráng buộc trong các cõi, tâm được tự tại.
Giai thị A-la-hán, chư lậu dĩ tận, vô phục phiền não, đãi đắc kỷ lợi, tận chư hữu kết, tâm đắc tự tại.
“Đều là các bậc A-la-hán (giai thị A-la-hán)”: số chúng đại Tỳ-kheo này có đến một vạn hai ngàn người, đều là bậc A-la-hán, đây là “thán đức”. Thán là khen ngợi, đức là đạo đức, khen ngợi đạo đức của những vị A-la-hán này. “Giai thị A-la-hán”, “giai” bằng với “toàn”, toàn là những bậc A-la-hán.
“A-la-hán” là tiếng Phạn, cũng có ba nghĩa giống như “Tỳ-kheo”. Tỳ-kheo là nhân của A-la-hán, A-la-hán là quả của Tỳ-kheo; nhân làm Tỳ-kheo, tu tập chứng quả, đắc thành A-la-hán.
(1)Ứng cúng: trong khi tu nhân, Tỳ-kheo là “khất sĩ”, phải đi khất thực; lúc viên thành đạo quả, A-la-hán là “ứng cúng”, xứng đáng nhận sự cúng dường của trời người; cũng chính là bậc mà trời người nên cúng dường. A-la-hán còn gọi là “cúng ứng”, tức phải nên đi cúng dường các Tỳ-kheo khác. Khi Phật tại thế, tất cả Tỳ-kheo, tất cả mọi người đều cúng dường Phật; có một lần, Phật hóa thành một người tu đạo, đi cúng dường ngược lại các Tỳ-kheo, đây gọi là “cúng ứng”.
(2)Sát tặc: giết những giặc gì? Giết giặc vô minh, giặc phiền não, sáu tên giặc mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nếu quý vị chứng được quả vị A-la-hán, thì những loại giặc này đều bị tiêu diệt. Giặc ắt phải giết, thế không phải giặc, có giết không? Cũng giết luôn! không chỉ giết giặc, mà không phải giặc cũng giết, đó gọi là “sát tặc” (giết giặc). Thế nào là không phải giặc cũng giết? Vì khi còn ở hàng Tiểu thừa Thanh văn, Duyên giác không cho đó là giặc; tu đến địa vị Bồ-tát mới nhận ra đó là giặc! Ở địa vị A-la-hán thấy không phải giặc, đến trình độ Phật, Bồ-tát thấy là giặc! Cho nên không phải giặc cũng giết.
(3)Vô sanh: Không có sanh, cũng không có diệt. Chứng đến quả A-la-hán thứ tư, ngộ được vô sanh pháp nhẫn, thấy trong ba ngàn đại thiên thế giới không có một pháp có thể sanh, cũng không có một pháp có thể diệt; cảnh giới này không thể nói được, không thể bàn được, chỉ có thể nhẫn thọ trong lòng, cho nên gọi là “vô sanh pháp nhẫn”.
A-la-hán có bốn bậc: Sơ quả A-la-hán, Nhị quả A-la-hán, Tam quả A-la-hán và Tứ quả A-la-hán.
Sơ quả A-la-hán còn gọi là “quả Tu-đà-hoàn”; quả Tu-đà-hoàn này là quả đầu tiên của A-la-hán. Chứng được sơ quả A-la-hán, sanh tử chưa dứt, gọi là “giai vị kiến đạo” (ở vào trình độ thấy được đạo), đây là quả vị thứ nhất. “Tu-đà-hoàn” là tiếng Phạn (Srota-āpauna), Trung Hoa dịch “nhập lưu”, tức là “nhập vào dòng chảy Pháp tánh của bậc Thánh, đi ngược lại dòng chảy sáu trần của phàm phu”.
Lục trần là sáu trần, gồm: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; người chứng được Sơ quả, có được định lực, không còn bị sáu trần chi phối. Nghĩa là thế nào? Nghĩa là sắc không thể làm tâm người đó dao động; bất luận ở trước mắt là sắc đẹp, hay sắc xấu, tâm cũng không động. Đó là không dao động trước sắc trần, không bị sắc trần chi phối.
Thanh trần thì sao? Người thường thì thích ca hát, thích âm nhạc, thích nghe tiếng hay; còn người chứng Sơ quả A-la-hán, bất luận tiếng tốt, tiếng xấu, tiếng hay, tiếng dở, tiếng phải, tiếng quấy… cũng không làm tâm người đó dao động; thanh trần không thể chuyển được người đó, trái lại người đó có thể chuyển được thanh trần.
Hương trần, có người thích ngửi mùi thơm, chạm đến mùi thơm, người đó thích thú; đụng phải mùi hôi, họ liền khó chịu, những phản ứng tâm lý trên đều gọi là bị hương trần chuyển. Quý vị thích cái này, không thích cái kia, đó là có tâm yêu ghét; có tâm yêu ghét, là bị hương trần làm dao động.
Lưỡi nếm vị, những thức ăn có mùi vị ngon thì thích ăn nhiều một chút; thức ăn không ngon lại không muốn ăn, đây gọi là bị vị trần chuyển. Chứng được Sơ quả A-la-hán, hương trần, vị trần đều không thể chuyển được tâm người đó.
Xúc, thông thường mọi người chúng ta đều mong mỏi có được xúc trần, ngay cả thứ tình yêu nam nữ đều không thấu suốt được được xúc trần; cho nên mới dùng thân mình xúc chạm với thân người khác, đó gọi là chưa chuyển được xúc trần. Người chứng được Sơ quả A-la-hán, không bị xúc trần nhiễu loạn, cũng không ham sắc đẹp, không ham sự hào nhoáng.
Thứ sáu là pháp trần; pháp có vô số loại, quý vị có chỗ chấp trước cũng là trần; bậc A-la-hán không chấp trước pháp trần. Đây là cảnh giới của Sơ quả A-la-hán.
Nếu nói ai đó đã chứng quả, đã đắc đạo, đã khai ngộ, quý vị hãy thử người đó bằng cách nấu một món ăn ngon nhất, và một món dở nhất, xem xem người đó chọn ăn món nào? Có điều, quý vị không nên để người đó biết; nếu biết quý vị thử, họ sẽ làm ra vẻ thích ăn món dở. Thế nhưng, nếu người đó có thích ăn món dở, cũng coi như bị hương trần, vị trần chuyển. Vì sao vậy? Họ vốn thích ăn món ngon, nhưng biết bị quý vị thử nên cố tình ăn món dở, đây gọi là “kiểu nhu tạo tác”, đeo mặt nạ giả, không phải thật.
Nếu không bị hương trần, vị trần chuyển, người đó sẽ không cần gì phải lựa chọn; ngon dở đều ăn, ăn món ngon một ít, ăn món dở một ít, không có sự phân biệt. Điều đó chứng tỏ rằng người này có một chút công phu tu hành; nhưng không thể chắc người đó đã chứng Sơ quả. Một bậc Thánh chứng Sơ quả phải có sự khảo chứng; không phải ai cũng có thể tùy tiện nói “Tôi chứng quả rồi”, “tôi khai ngộ rồi”, không thể như thế.
Nhị quả A-la-hán, gọi là “quả Tư-đà-hàm”. “Tư-đà-hàm” là tiếng Phạn (sakṛd-āgāmin), Trung Hoa dịch là “nhất lai”; nếu như không tiếp tục tu tiến thì sẽ sanh trở lại cõi trời một lần, cõi người một lần, nên mới gọi nhị quả là “quả nhất lai” (một lần trở lại). Sơ quả còn phải chịu đến bảy phen sanh tử.
Tam quả A-la-hán, gọi là “quả A-na-hàm”. “A-na-hàm” là tiếng Phạn (Anāgāmin), Trung Hoa dịch là “bất lai”, tức không còn sanh tử trở lại cõi Dục.
Sơ quả là “giai vị kiến đạo”, Nhị quả, Tam quả là “giai vị tu đạo”, hai giai vị này còn phải tu; Tứ quả A-la-hán là “giai vị vô học”. Vô học là không cần phải học nữa; chứng đến giai vị vô học là đã liễu thoát sanh tử. Liễu thoát sanh tử gì? Đã chấm dứt “phần đoạn sanh tử”, nhưng vẫn còn bị “biến dịch sanh tử”. Bây giờ tôi sẽ giải thích sơ lược về hai loại sanh tử này.
(1) Phần đoạn sanh tử: Thân này của chúng ta, mỗi người đều có một phần, mỗi một phần đều có mỗi đoạn, đó là phần đoạn sanh tử của thân này.
(2) Biến dịch sanh tử: Trong tâm niệm của quý vị, niệm trước diệt, niệm sau sanh; niệm sau diệt, niệm sau lại sanh; sự sanh diệt, diệt sanh này chính là biến dịch sanh tử. Ở quả vị A-la-hán, biến dịch sanh tử vẫn còn, phải đến cảnh giới Bồ-tát, ở vào địa vị Bồ-tát, biến dịch sanh tử mới dứt tuyệt.
Chứng đến Tứ quả A-la-hán, thần thông biến hóa của vị ấy đạt đến cảnh giới không thể nghĩ bàn, vi diệu khó tả. Thần thông của vị ấy hoàn toàn khác với thần thông của ngoại đạo. Vị ấy có đủ ngũ nhãn lục thông, có thể bay vọt lên hư không. Hư không vốn không có vật gì, thế mà vị ấy có thể đứng trên hư không, đi trên hư không, lộn nhào trên hư không, đầu trút xuống, chân đưa lên; trên thân phun ra lửa, dưới thân tuôn ra nước, bay nhảy biến hóa. Tóm lại, vị ấy có mười tám phép biến hóa trên hư không. Vì có liên quan đến thần thông của vị ấy, cho nên trong Phật giáo liệt vào hàng ‘Tứ Thánh”. Tứ Thánh chính là bốn pháp giới “Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác”.
Xưa kia có vị La-hán, thâu nhận một đệ tử. Một hôm, La-hán dẫn đệ tử ra ngoài. Trên đường đi, người đệ tử phụ trách quảy hành lý, lòng thầm nghĩ: “hành đạo Bồ-tát thật diệu, thật tuyệt, mình nhất định phải phát tâm hành đạo Bồ-tát, giúp đỡ cho tất cả mọi người!”. Biết được suy nghĩ của người đệ tử, vị La-hán tự nhủ: “Ồ! Hiện nay chú ấy đã phát tâm Bồ-tát, còn mình chỉ là một La-hán, mình phải tự quảy hành lý, giảm nhẹ gánh cho chú ấy.” Vị La Hán bèn đón lấy hành lý, nói: “Con đưa đây, Sư phụ sẽ tự mang!” người đệ tử liền trao hành lý lại cho Thầy.
Đi một đỗi, người đệ tử lại nghĩ: “Ồ! Khi Tôn giả Xá-lợi-phất hành đạo Bồ-tát, có người đến xin mắt của Ngài; xin mắt trái rồi, nói không đúng, lại muốn xin mắt phải. Ây! Hành đạo Bồ-tát chẳng phải dễ, mình không muốn hành đạo Bồ-tát nữa, chỉ tu theo pháp La Hán, tự mình giúp đỡ chính mình được rồi! Mặc kệ người khác!” Vị sư phụ La-hán biết được suy nghĩ này, a! Lúc nãy đệ tử “bỏ nhỏ theo lớn[1]”, bây giờ lại “bỏ lớn theo nhỏ”, nửa đường quay xe, vòng lại phía sau! Bèn bảo đệ tử: “Những thứ này con lại phải mang, sư phụ không thể mang nữa!” người đệ tử đón lấy. Nhưng quảy đi được một đoạn, tâm Bồ-tát của người này lại phát khởi, lại bỏ nhỏ theo lớn; vị La-hán lại bảo trao lại hành lý. Người đệ tử liền đáp: “Vì sao chốc chốc Sư phụ muốn mang hành lý, chốc chốc giao trả cho con, bây giờ lại muốn mang nữa? Sư phụ không ngại phiền phức sao? Con quảy tốt rồi, Sư phụ lại đòi mang!”
La-hán liền bảo: “Trên đường đi, đầu tiên con phát tâm Bồ-tát, bỏ nhỏ theo lớn; sư phụ là người hành theo pháp La-hán (pháp Tiểu thừa), cho nên hành lý này sư phụ phải tự mang lấy. Nhưng chốc sau, con lại bỏ lớn theo nhỏ, không chịu hành đạo Bồ-tát, chỉ muốn tu theo pháp La-hán, nên sư phụ mới giao trả hành lý cho con. Bây giờ con lại phát tâm rộng lớn, sư phụ lại phải phụ trách hành lý tiếp!” người đệ tử này vừa nghe, “ồ! Sư phụ thật sự có thần thông!” Thế là người đệ tử liền phát tâm hành theo đạo Bồ-tát.
La-hán là người có thần thông, thần thông này là thứ “không nơi nào mà không được tự tại” (vô nhập nhi bất tự đắc). Vào lúc tập Kinh tạng, vì chưa chứng đắc Tứ quả, chưa có lậu tận thông, nên Tôn giả A-nan bị mọi người đuổi ra ngoài, không cho vào. Trước buổi kết tập, chủ tọa có nói rõ chỉ những vị chứng đắc Tứ quả A-la-hán, mới có thể tham gia pháp hội kết tập Kinh tạng này! Trong khi Tôn giả A-nan chỉ mới chứng được Tam quả.
Tôn giả nóng lòng: “Làm sao bây giờ? Tất cả Kinh điển Phật nói, mình đều ghi nhớ; nhưng bây giờ chưa chứng đắc Tứ quả A-la-hán, không thể tham gia pháp hội kết tập Kinh tạng! Phải làm sao đây?” Trong khi đang lo lắng, á! Tôn giả liền chứng đắc tứ quả A-la-hán! Từ bên ngoài, Tôn giả lớn tiếng gọi: “Bây giờ tôi đã chứng đắc Tứ quả rồi! Xin các vị hãy mở cửa cho tôi vào!”
Một số đại A-la-hán ở bên trong nói vọng ra: “Ồ! Nếu như Tôn giả đã chứng được Tứ quả A-la-hán, cần gì phải mở của mới vào được? Tôn giả hãy xuyên qua lỗ khóa mà vào!” Nghe thế, Tôn giả A-nan liền nghĩ: “Đúng rồi! Không cần mở cửa, mình vẫn có thể vào được!” Thế là Tôn giả liền vận thần thông đi vào bên trong. Quý vị xem! Người chứng được quả A-la-hán, vào mà không cần mở cửa; nếu phải mở cửa mới có thể vào được, mà nói mình đã chứng quả A-la-hán, chứng tỏ người đó khoác lác, không thật, phạm đại vọng ngữ. Nên khi kết tập Kinh điển, Tôn giả A-nan bị mọi người nhốt bên ngoài một phen; việc này không phải đơn giản như thế!
Chứng được Tứ quả A-la-hán mới có thể “dứt sạch các lậu” (các lậu dĩ tận). Các lậu, không chỉ có một loại lậu; có bao nhiêu loại? Nói rộng thì có tám vạn bốn ngàn loại. Có tám vạn bốn ngàn phiền não, thì cũng có tám vạn bốn ngàn lậu. Phiền não chính là “lậu”. Quý vị muốn có phiền não không? Thế thì hướng về lậu; lậu dẫn đi đâu? Lậu dẫn đi trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Tất cả mọi lầm lỗi đều gọi là lậu; mọi tâm dục của quý vị đều gọi là lậu. Quý vị thích ăn món ngon; thích nghe tiếng hay; thích ở nhà tốt, thích ngủ giường đẹp… đều là lậu; tất cả những gì quý vị yêu thích, tham muốn, nắm níu đều gọi là “lậu”.
Quý vị xem, mình không buông xả được bao nhiêu thứ? Cái lậu này, giống như cái bình dưới đáy có lỗ, quý vị đựng bao nhiêu nước đều chảy ra bấy nhiêu; công đức của quý vị không thể lưu giữ được! Quý vị làm một chút công đức thì chảy ra một chút công đức; quý vị làm bao nhiêu thì chảy ra bấy nhiêu. Tóm lại là không thể lưu giữ được.
Thân của chúng ta gọi là “thân hữu lậu”; mắt, tai, mũi, miệng, đại, tiểu tiện đều gọi là “lậu”; trong tâm khởi các vọng tưởng đều là “lậu”. “Các lậu” này quá nhiều, nhiều đến nỗi không đếm xuể; tổng cộng có tám vạn bốn ngàn, nhưng nó không dừng lại ở con số tám vạn bốn ngàn. Các lậu là tất cả những tập khí lớn, nhỏ; những lỗi lầm lớn, nhỏ; những thói quen đáng trách, tập khí xấu đều gọi là “lậu”.
Nói một cách cạn cợt hơn, quý vị thích hút thuốc lá, uống rượu, đánh bạc, thích tìm người đẹp đều là lậu. Nữ thích tìm nam cũng là lậu. Không chỉ nói người nam mới có lậu, mà người nữ cũng không ngoại lệ, thậm chí lậu của người nữ còn nhiều hơn. Nói rõ một chút, quý vị không giữ gìn được tinh, khí, thần của mình đều gọi là “lậu”. Người nữ mỗi tháng đều có kinh nguyệt, đây cũng gọi là lậu. Căn nguyên chính ở chỗ nam nữ không dừng được tâm dâm dục, đây là “lậu” lớn nhất. Lậu có rất nhiều như thế!
Nhưng những vị A-la-hán này đã dứt hết các lậu. Tận chính là dứt hết, không còn. Từ “đã tận” (dĩ tận) không phải nói “lậu đã hết”, mà là “không có lậu nữa”. Quý vị xem Kinh văn, phải hiểu thật rõ chỗ này, không phải nói lậu đã không còn, gọi là “lậu tận” là không đúng, mà là đã hoàn toàn không có các lậu, căn bản là không lậu nữa, mới gọi là lậu tận. Nói “lậu tận thông”, phải chứng được Tứ quả A-la-hán, mới có thể đạt được lậu tận thông; quý vị chưa chứng quả này, là chưa được lậu tận thông. Lậu tận thông chính là các lậu đã tận. Một vạn hai ngàn vị đại A-la-hán, chúng đại Tỳ-kheo ở đây đều đã dứt hết các lậu, không có một chút lỗi lầm, tất cả đều là Thánh nhân.
“Không còn phiền não” (Vô phục phiền não): Những vị đại A-la-hán, đại Tỳ-kheo này đều đã đạt được lậu tận thông, nên không còn phiền não. Nếu như chưa đạt được lậu tận thông, ắt phiền não sẽ còn. Ở đây nói “vô phục” chính là “sẽ không có lại”. Các vị ấy “chỗ làm đã xong, không còn thọ thân sau nữa” (sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu); đã liễu thoát sanh tử, nên không còn phiền não!
Rốt cuộc phiền não có bao nhiêu? Nói chung, phiền não có tám vạn bốn ngàn loại. Tám vạn bốn ngàn loại, thế là quá nhiều! Chúng ta tóm gọn nó lại chỉ còn một, là vô minh; những phiền não này đều từ vô minh phát sanh.
Phiền não từ vô minh sanh, có ba loại; gồm những loại nào? Ba loại phiền não này gọi là “tam độc”. Ba loại độc dược này che lấp Phật tánh của tất cả chúng ta; từ xưa đến nay, sở dĩ chúng ta không thành Phật được đều là vì ba loại phiền não này; “ba loại độc” đây khiến cho chúng ta sống say chết mộng, trọn không thể trở về nguồn cội, khôi phục lại diện mục vốn có của mình.
“Ba độc” gồm những gì? Một là “tham”, hai là “sân”, ba là “si”.
(1)Tham: nói đến “tâm tham” là nói đến ham muốn không biết chán; bất luận thứ gì, cứ muốn có nhiều thêm một chút, mong muốn chiếm lấy vật của người khác làm của riêng mình. Nói đến tham, mỗi người đều có một cách tham—ở quốc gia có cái tham của quốc gia, ở con người có cái tham của con người. Ở những quốc gia, một số nhà chính trị luôn có khát vọng thôn tính nước khác làm lãnh thổ của mình, đây là tham của quốc gia. Tham ở con người là tham mọi tài sản; một căn nhà không đủ, muốn mua hai căn; hai căn không đủ, muốn mua ba căn; ba căn cũng không đủ, muốn xây một tòa nhà chọc trời, vượt trội khác người, nói chung là muốn nổi hơn người khác. “Ồ! Anh xem! Tài sản tôi có được nhiều hơn bất kỳ ai!” Nhưng có tài sản nhiều hơn người khác, cũng không giữ được mạng sống của mình. Quý vị nhiều tiền cũng không thể sống mãi, cũng không thể hối lộ một ít cho lão Diêm vương, để lão làm cho quý vị sống mãi không chết, điều đó không thể được! Tâm tham này có khả năng làm cho người vốn rất thông minh trở nên hồ đồ, làm cho người tốt trở thành kẻ xấu.
(2)Sân: Tâm sân này cũng khó mà sửa đổi. Nên nói: “Một đốm lửa nhỏ có thể thiêu trụi rừng công đức”, “ngàn ngày đốn củi, cháy trong chốc lát”; quý vị tuy làm được rất nhiều công đức, nhưng khi khởi tâm sân, đốm lửa sân liền thiêu sạch những công đức này của quý vị! Thế nào gọi là cúng dường Tam bảo? Trên mặt quý vị không có nét sân hận, đó chính là cúng dường Tam bảo; nên nói “diện thượng vô sân cúng dường cụ”. Quý vị hoan hỷ ở trước Phật, đó là cúng dường Phật! Nếu quý vị cúng dường Phật, cúng dường Tam bảo, mà trên mặt đầy nét sân si thì cho dù cúng mâm cao cỗ đầy, Phật cũng sẽ không vui. Vì sao vậy? Vì quý vị cúng dường Phật bằng lòng sân giận, Phật sẽ không nhận. “Khẩu lý vô sân thổ diệu hương”, miệng này không nói những lời sân hận, không nhục mạ người, thì giống như có hương thơm xuất ra. “Tâm lý vô sân thị chân bảo”, không còn tâm sân hận, đây mới là vật báu thật sự. Tâm sân này rất khó hàng phục, Kinh Kim Cang nói: “Hàng phục kỳ tâm” chính là hàng phục phiền não, và cũng là hàng phục vọng tưởng.
(3)Si: “Sân” và “tham”, con người rất dễ phạm, nhưng cũng rất dễ phát hiện; duy chỉ có “tâm si” tiềm ẩn bên trong, ít lộ ra ngoài. Si là ngu si, không hiểu rõ đạo lý, đối với tất cả sự lý đều mịt mờ; lấy phải làm trái, lấy trái làm phải, nói đen thành trắng, nói trắng thành đen. Người có tâm si, sẽ khởi lên vọng tưởng:
Thầm mong hoa đẹp thường khoe sắc,
Trăng sáng đêm đêm cứ mãi tròn
Sông suối trên đời đều hóa rượu,
Rừng cây lá mọc phất phơ tiền.
(Hảo hoa thường linh triêu triêu diễm,
Minh nguyệt hà phương dạ dạ viên,
Đại địa hữu tuyền giai hóa tửu,
Trường lâm vô thọ bất dao tiền.)
“Hảo hoa thường linh triêu triêu diễm”, hoa nở hoa tàn là lẽ sinh diệt tự nhiên của vạn vật; anh thích hoa này, liền nghĩ: Ôi! Nếu như hoa này mỗi ngày đều rực rỡ như thế, đều nở tròn trịa xinh đẹp như vầy thì tốt biết mấy! Mỗi ngày mình có thể ngắm nhìn hoa.
“Minh nguyệt hà phương dạ dạ viên”, quý vị thích ngắm trăng, trăng tròn ngày rằm tháng tám, ánh trăng thật sáng! Quý vị ước: “Nếu như mỗi tối đều có ánh trăng tròn sáng như vầy, thật tốt biết mấy! Mỗi tối tôi đều có thể ngắm trăng; tại sao giờ trăng lại không tròn, không sáng? Ôi! Thật là đáng ghét!” Nhưng quý vị nghĩ bảo sao? Người thích ngắm trăng, muốn trăng luôn tròn, luôn sáng; còn kẻ trộm, thì trong lòng không mong như thế! Hắn nghĩ: “Hôm nay mình định đi trộm đồ, đáng tiếc là ánh trăng sáng như thế, làm cho mình không có chỗ núp.” Hắn cho như thế là đáng ghét, hắn muốn đêm tối, không có ánh trăng; trong khi người thích ngắm trăng lại muốn trăng sáng.
“Đại địa hữu tuyền giai hóa tửu”, người thích uống rượu nghĩ: “Ôi, Bây giờ mình uống rượu, phải dùng tiền mua; có tiền mới có thể mua rượu uống được. Nếu như nước trong tất cả sông, suối, ao, hồ, biển cả trên thế gian này đều biến thành rượu thì tuyệt biết mấy! Mình không cần tiền, muốn uống lúc nào thì lấy về uống lúc đó.” Đây cũng là một thứ vọng tưởng ngu si!
“Trường lâm vô thọ bất dao tiền”, người tham tài, nếu phải đi làm công kiếm tiền, anh ta sẽ cảm thấy mình rất cực khổ mới kiếm được tiền; trong lòng liền nghĩ: “Tất cả cây cối trên đời này, mỗi một lá đều có thể dùng làm tiền; nếu như khi mình cần tiền xài, liền trèo lên cây hái xuống, thật sướng biết mấy!” Đây cũng là một cách nghĩ ngu si, vốn không thể làm được, nhưng họ vẫn cứ nghĩ như thế.
Lúc trước, tôi có giảng qua, như người chưa đi học mà muốn có bằng tiến sĩ; người không gieo hạt, đến mùa lại muốn thu hoạch, đây cũng là một loại tâm lý ngu si. Quý vị không tu hành mà lại muốn thành Phật, thật là ngu si hết cỡ nói! Quý vị không có tu hành, không có quy y Tam bảo, chưa từng trải qua những giai đoạn này mà lại muốn thành Phật, há có lý này ư!
“Ba độc” này trong mỗi người chúng ta, chi phối làm chúng ta điên đảo, hồ đồ, tâm thần không sáng suốt, trí huệ không hiện tiền. Vậy phải làm sao đây? Quý vị không khởi tâm tham, không khởi tâm sân, không khởi tâm si, phải “dứt tuyệt tham, sân, si; chuyên tu giới, định, tuệ” (cần tu giới định tuệ, tức diệt tham sân si).
Nói đến “Giới, Định, Tuệ”, thế nào gọi là “Giới”? Thế nào gọi là “Tuệ”? Thế nào gọi là “Định”?
(1) GIỚI: chính là “chỉ ác phòng phi” (ngưng dứt điều ác, phòng ngừa lỗi quấy), được dùng để đối trị tâm tham của quý vị. Tâm tham sẽ khiến phát sanh niệm ác, tham đắm những tài vật không nên tham. Vì sao lại phát sanh loại tâm tham này? Vì không biết gì về giới. Giới chính là ngưng dứt điều ác, phòng ngừa lỗi quấy, Giới dạy cho quý vị biết đủ, biết dừng, chớ có tham xằng bậy; nếu quý vị biết hành trì giới luật thì có thể đánh bại tâm tham, chiến thắng được tâm tham.
(2) ĐỊNH: chính là “định lực”. Nếu quý vị không có định lực sẽ dễ sinh tâm sân, nhìn ai cũng thấy sai, nhìn việc gì cũng thấy không đúng. Có xảy ra chuyện gì cũng cho là quấy; thấy tất cả mọi người đều sai; khi không có ai hoặc không có việc gì thì tự thấy chính mình cũng sai nốt, tự nổi nóng với bản thân. Thậm chí nổi nóng với chính mình cũng chưa xong, còn tự đánh mình; tát bên trái một cái, lại nghĩ: “bên phải còn lại cũng phải đánh, nếu không nó sẽ ghen tỵ”.
Thế nào gọi là “ghen tỵ” (吃 醋)? Đây là một thành ngữ rất thú vị của người Trung Hoa. Vào thời nhà Đường, có một vị quan đại thần rất sợ vợ. Sợ đến mức nào? Buổi tối, ông ta về trễ một chút là bị vợ bắt quỳ gối trước giường. Vốn là một vị đại thần, mỗi lần gặp hoàng đế đều phải khấu đầu lễ lạy; mỗi lần về nhà trễ còn phải quỳ trước mặt vợ. Chỉ đến khi nào vợ bảo “đứng dậy”, ông ta mới dám đứng dậy; còn nếu vợ chưa hạ “thánh chỉ”, chưa nói câu “đứng dậy”, có nghĩa là vẫn chưa cho phép chồng đứng lên.
Quan hệ giữa vị đại thần này và vua rất tốt, cho nên ông ta đã đem sự việc kể lại cho vua nghe. Vua bảo: “Trẫm có cách có thể trị được vợ của khanh, làm cho bà ta từ đây về sau không quản thúc khanh nữa!” Vị đại thần vui mừng thưa: “Hoàng thượng có cách gì vậy?” “Khanh không cần hỏi! Trẫm nhất định có cách giúp khanh trị được vợ của mình!”
Thế là hoàng đế liền hạ một đạo thánh chỉ, cho gọi phu nhân của vị đại thần vào cung; vị phu nhân này dữ như con cọp, “một con cọp cái” đi vào hoàng cung. Nhà vua bảo bà ta: “Khanh đó! Vì sao chồng của khanh về trễ một chút, khanh liền bắt ông ta quỳ gối trước giường? Làm như vậy là không đúng! Huống hồ chồng của khanh lại không có quan hệ lôi thôi với những người phụ nữ khác; dù cho có đi nữa, khanh cũng không nên quản thúc chồng như thế! Nếu như từ đây về sau khanh chịu sửa đổi, không quản thúc chồng nữa, thì trẫm xem như không có chuyện gì, tha cho khanh vô tội; còn như khanh vẫn cứ kềm hãm chồng của mình, không để cho ông ấy được tự do, thì trẫm sẽ xử khanh tội chết, ở đây trẫm có một chén thuốc độc, khanh sẽ phải uống nó!”
Quý vị biết vị phu nhân kia đã xử trí ra sao không? Người phụ nữ này thật có dũng khí, đã trả lời vua một cách rất dũng cảm rằng: “Thế cũng tốt! Thần bằng lòng chết ngay trước mặt bệ hạ!” thế là bà cầm lấy chén thuốc độc uống ngay. Trong chén này vốn không phải là thuốc độc, mà là dấm; vua cố ý nói là chén thuốc độc để xem bà ta có dám uống hay không. Người đàn bà này thật là dũng cảm, không cần suy nghĩ gì liền bưng lấy uống ngay! Thà chết chứ không chịu thả lỏng chồng; cuối cùng may mắn đó là một chén dấm, uống vào trong bụng bất quá bị chua một trận là cùng, chứ không hề nguy hiểm gì đến tánh mạng.
Thế là từ đó về sau, ở Trung Hoa lưu truyền thành ngữ “uống dấm” này; ý nghĩa của nó là: vợ quản thúc chồng rất chặt, thà chết chứ không chịu buông tha, nhất định phải giữ chặt lấy chồng. Điều đó cho thấy người có tánh nóng nảy, không có ai bên cạnh, người đó không chịu nổi chính mình, tự đánh mình. Vì sao vậy? Vì tánh của người đó quá nóng, không có người bên cạnh để đánh thì đánh chính bản thân mình vậy. Tại sao lại đánh mình? Tại người đó không có định lực! Cho nên cần phải tu định. Người tu định có được định lực thì sẽ không có tâm sân; vì sao quý vị có tâm sân hận, nóng nảy, nổi cáu như thế? Đó là bởi vì quý vị không có định lực.
(3) TUỆ: Vì sao quý vị ngu si? Vì quý vị không có trí tuệ. Suốt ngày toàn khởi vọng tưởng, bị tâm vọng tưởng chi phối không ngừng; đó là vì không có trí tuệ, cho nên việc gì cũng không nhận rõ. Người có trí tuệ thì“sự lai tắc ứng, sự khứ tắc tịnh”, việc gì đến thì tùy thuận theo đó mà làm; xong việc, hết việc rồi thì để cho tâm được rảnh rang, chớ có chi phối nó mãi, như cách nói “tâm vi hình dịch”, chớ để cho tâm mãi làm nô lệ cho thân. Vì sao vậy? Vì quý vị không có trí tuệ, không đủ khả năng làm chủ bản thân, trái lại còn bị nó chi phối. Nếu như có trí tuệ thật sự, thì tất cả những việc xảy đến quý vị đều có thể nắm lấy mấu chốt để giải quyết (nghênh nhận nhi giải迎刃而解) —giống như cầm lấy con dao bén, bất luận có việc gì xảy đến đều dùng mũi dao thật sắc xuyên thủng qua chúng! Đây gọi là “nắm lấy mấu chốt để giải quyết”, xử lý vấn đề.
Chúng ta là người học Phật pháp phải nhận định rõ ràng tất cả mọi sự việc. Hôm nay, tôi nghe Quả Chương dạy Hoa văn cho chúng ta nói rằng: “Người không hiểu rõ Phật pháp chính là người ngu si nhất; người hiểu rõ Phật pháp mới là người có trí tuệ”. Đây thật là lời một câu châm ngôn, rất có đạo lý! Vậy chúng ta là người có trí tuệ thì sẽ không ngu si; người ngu si thì không có trí tuệ.
Tôi còn muốn nói với quý vị một câu chân tình là: Cái “ngu si” đó, quý vị biết nó là gì không? Nó chính là “trí tuệ”!
– “Thầy nói như thế làm tôi lẫn lộn! Cái gì mà ngu si chính là trí tuệ, trí tuệ chính là ngu si? Thế thì tại sao còn phải học trí tuệ, lại đừng có ngu si?”
Quý vị không nên xét cách nói này của tôi theo lẽ thường tình. Điều tôi muốn nói là “bản thể của ngu si” có thể trở thành trí tuệ; chứ không phải nói rời bỏ cái ngu si này mà đi tìm trí tuệ nào khác. Trí tuệ này vốn có ở trong cái ngu si của quý vị, chỉ là quý vị chưa biết sử dụng nó. Nếu quý vị biết sử dụng thì nó chính là trí tuệ; không biết sử dụng thì nó chính là ngu si. Điểm mấu chốt chính là ở chỗ này!
Định nói ở trên cũng chính là sân; sân cũng chính là định. Nếu quý vị thật sự muốn có được định, thì ở ngay nơi chỗ sân hận này có thể biến thành định lực. Nếu quý vị thật sự muốn giữ giới, thì ngay chỗ tham muốn cũng có thể biến thành giới, mà không phải đi tìm cầu ở bên ngoài. Những cái này đều có đủ trong tự tánh của quý vị, nếu quý vị biết sử dụng thì nó chính là “Giới, Định, Tuệ”; nếu quý vị không biết sử dụng thì nó chính là “tham, sân, si”. Điều mầu nhiệm chính là ở điểm này; cái quý vị không hiểu rõ cũng chính ở điểm này.
“Hoàn thành việc tự lợi” (Đãi đắc kỷ lợi): “đãi” nên giảng là “cập”, có nghĩa là “đến”. Đãi đắc kỷ lợi chính là đạt đến trình độ làm được lợi ích cho bản thân. Thế nào là làm được lợi ích cho bản thân? Vì những vị A la Hán này “đã dứt hết các lậu, không còn bị phiền não”.
Vì sao chúng ta không làm được lợi ích cho bản thân? Chính là vì được đó mất đó, đều bị “lậu” mất hết; nếu như bây giờ không còn bất kỳ lậu và phiền não, thì lúc bấy giờ mới được gọi là “đạt được lợi ích cho bản thân” (đãi đắc kỷ lợi). Lợi ích thực sự là gì? Tự mình thật sự hiểu rõ, đó chính là đạt được trí tuệ chân chánh; người không có trí tuệ sẽ không đạt được lợi ích thật sự. Có được trí tuệ, chứng đắc quả vị A la hán, đây mới được gọi là “đạt được lợi ích tự thân”. “Kỷ lợi” chính là “tự mình đã giác ngộ”, cũng gọi là “tự giác” hay “tự lợi”. Quý vị lại có thể đem đạo lý mình đã giác ngộ đi giáo hóa cho tất cả chúng sanh thì gọi là “lợi tha” hay “giác tha”, cho nên thường nói chung là “tự lợi lợi tha, tự giác giác tha”. Hiện tại, các vị đại A la hán này đều đã đạt được tự giác, nhưng chưa thể giác tha, cho nên chỉ có “tự mình lợi ích cho chính mình” chứ chưa “làm lợi ích được cho người khác”.
“Dứt sạch sự ràng buộc trong các cõi” (tận chư hữu kết): Tận là không còn; không còn cái gì? Không còn “sự ràng buộc” (kết) vào trong “các cõi”. Sao gọi là sự ràng buộc trong các cõi? Các cõi đó là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc; ba cõi này còn gọi là “tam hữu”. “Tam giới, tam hữu” này nếu chia chẻ ra lại có “hai mươi lăm cõi” nữa. Hai mươi lăm cõi trong tam giới chính là:
Bốn châu, bốn ác thú, sáu cõi Dục, Phạm thiên;
Bốn thiền, bốn không xứ, Vô Tưởng, Ngũ Na-hàm.
“Bốn châu, bốn ác thú”. Bốn châu là Đông-thắng-thần châu, Nam-thiệm-bộ châu, Tây-ngưu-hóa châu và Bắc-câu-lô châu. Bốn ác thú là loài A-tu-la, loài ở trong địa ngục, loài ngạ quỷ, loài súc sanh; những nơi này xấu nhất cho nên gọi là cõi ác. Tại sao gọi là “hữu”? đó là “cõi có tạo nghiệp”, có tạo ra những tội nghiệp này. Bốn châu và bốn cõi ác kể trên đều ở trong Dục giới.
“Sáu cõi Dục, Phạm Thiên” là sáu cõi trời Dục giới và cõi Phạm thiên thứ sáu của Sắc giới. Tổng cộng có bảy, cộng với tám cái trên thành mười lăm. Sáu tầng trời Dục giới, gồm cõi trời Tứ Thiên Vương, cõi trời Đao-lợi, cõi trời Dạ-ma, cõi trời Đâu-suất, cõi trời Hóa-lạc và cõi trời Tha Hóa Tự Tại.
“Bốn thiền, bốn không xứ”. Bốn tầng thiền ở Sắc giới, gồm cõi trời Sơ thiền, cõi trời Nhị thiền, cõi trời Tam thiền và cõi trời Tứ thiền. Có người không hiểu rõ Phật pháp cho rằng mình đã đạt đến Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền là ghê gớm lắm; kỳ thật người đó vẫn còn ở trong hai mươi lăm cõi của tam giới, căn bản vẫn chưa thể nói là có được thành tựu gì, nếu nói về vấn đề tu đạo thì đã xa lại càng xa. Thế nhưng lại có một số sư phụ hàm hồ bảo với mọi người rằng, đây là loại cảnh giới cao nhất.
Giống như Tỳ-kheo Vô Văn cho cõi trời Tứ thiền là quả thánh thứ tư (quả A-la-hán). Vị ấy đến được cõi trời Tứ thiền, lại cho rằng mình đạt được quả thánh thứ tư; về sau, khi phước trời đã tận, tướng suy hiện ra, ông ta lại hủy báng Phật rằng: “Phật nói người chứng được quả thánh thứ tư sẽ không còn sanh tử, tại sao bây giờ tôi còn phải bị đọa?” Vừa thốt lên lời hủy báng Phật như thế, ông ta liền bị đọa vào bốn đường ác, vĩnh viễn không ra khỏi. Không chỉ một mình vị ấy đọa vào địa ngục, mà hàng vạn đệ tử của ông ta cũng sa vào địa ngục theo thầy, nên nói:
Người mù dắt kẻ đui,
Cả hai đều lạc lối.
Thầy sa vào địa ngục,
Đệ tử nối bước cùng.
(Mộng đổng truyền mộng đổng,
Nhất truyền lưỡng bất đổng;
Sư phụ hạ địa ngục,
Đồ đệ vãng lý củng).
Đệ tử cũng theo thầy xuống địa ngục. Sư phụ hỏi: “Các người đến đây làm gì?” Các đệ tử thưa: “Thưa Sư phụ! Thầy đã đến nơi này, đương nhiên chúng con cũng phải theo Thầy rồi!” Nghe thế, sư phụ rất kinh ngạc: “Ồ, vì sao mình lại khiến cho các đệ tử vào trong địa ngục?” Bản thân ông thầy cũng không hiểu tại sao mình lại đến đây. Quý vị nói xem, việc này thật là… Những người đệ tử này quả là quá thương mến sư phụ của mình, sư phụ vào địa ngục, bọn họ cũng theo vào; thật rất đáng thương!
Bốn không xứ chính là bốn tầng trời: Không Vô Biên xứ, Thức Vô Biên xứ Vô Sở Hữu xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ thuộc Vô sắc giới.
“Vô Tưởng, Ngũ Bất Hoàn” là cõi trời Vô Tưởng và Ngũ Bất Hoàn (Ngũ Tịnh Cư thiên) thuộc Sắc giới. Ngũ Bất Hoàn là một cõi trời có tên gọi là Ngũ Bất Hoàn chứ không phải là năm cõi trời.
“Bốn châu, bốn ác thú” cộng chung là tám cõi; “sáu cõi Dục, Phạm Thiên” cộng chung là bảy cõi; bảy cộng với tám thành mười lăm. “Bốn thiền, bốn Không xứ” thành ra tám cõi; thêm vào “cõi trời Vô Tưởng” và “cõi trời Ngũ Bất Hoàn” thành ra mười. Mười lăm cộng với mười thành hai mươi lăm. Đây là hai mươi lăm cõi trong tam giới.
Không còn sự trói buộc trong các cõi chính là vượt ngoài tam giới, không còn ở trong Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, cho nên nói là “Vượt ra ngoài tam giới, không ở trong ngũ hành”, như thế mới thật sự là liễu thoát sanh tử.
“Tâm được tự tại” (tâm đắc tự tại): lúc bấy giờ trong tâm của các vị đại A la hán này vô cùng an vui; tự tại là an vui. Không còn tự tại nào bằng, không còn an vui nào bằng! Bồ-tát Quán Tự Tại vì sao được gọi là “Quán Tự Tại?” Chính là Ngài “có mặt” ngay nơi đó, nên suốt ngày đều được an vui, tự tại vô cùng, không hề có chút phiền não, tâm đạt được tự do thật sự! Do Ngài đạt được trí tuệ chân chánh cho nên có được sự an vui vô cùng. Niềm an vui này là niềm an vui thật sự lưu xuất từ nội tâm, chứ không phải cố ý làm ra vẻ mừng vui cười ha hả. Niềm vui thật sự ở bên trong chứ không phải ở bên ngoài. Quý vị chớ cho rằng suốt ngày cười ha hả mới là vui, mà trái lại đó chính là phiền não! Đó chính là điên đảo! Vì sao vậy? Quý vị nhìn thấy sự việc mình ưa thích thì liền bị lôi cuốn theo niềm ưa thích đó (bị cảnh lay chuyển). Đó là vì quý vị không có định lực cho nên mới bị sự ưa thích lôi cuốn, cười vui ha hả. Đấy có cái gì là an vui thật sự không? Không hề có! Cho nên mới nói đó là điên đảo.
H3 NÊU TÊN TỔNG KẾT
Tên của các vị đó là: A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già Bà-sa, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-hy-la, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà, Phú-lâu-la Di-đa-la-ni-tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la v.v… những vị đại A-la-hán mọi người đều quen biết như thế.
Kỳ danh viết: A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Chiên Diên, A Nậu Lâu Đà, Kiếp Tân Na, Kiều Phạm Ba Đề, Ly Bà Đa, Tất Lăng Già Bà Sa, Bạc Câu La, Ma Ha Câu Hy La, Nan Đà, Tôn Đà La Nan Đà, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, A Nan, La Hầu La, như thị chúng sở tri thức đại A-la-hán đẳng.
“Tên của các vị đó” là tên của những ai? Chính là tên của hai mươi mốt (21) vị tôn giả như A-nhã Kiều-trần-như v.v… Một vạn hai ngàn vị này đều có mặt trong pháp hội Pháp Hoa.
“A-nhã Kiều-trần-như” là một trong năm vị Tỳ-kheo, đệ tử Phật được thế độ đầu tiên. Phật ở dưới cội Bồ đề, đang đêm nhìn thấy ánh sao sáng mà giác ngộ; sau khi ngộ đạo, Đức Phật quán sát nhân duyên, xem mình nên độ ai trước? Người trên thế gian nhiều như thế, ai là người ta nên độ đầu tiên? Khi vừa thành đạo, Phật đã ngạc nhiên thốt lên ba lần: “Lạ thay! Lạ thay! Lạ thay! Chúng sanh trên mặt đất đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật.” Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chỉ nói là các chúng sanh trên mặt đất đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, chứ không hề nói “tất cả chúng sanh chính là Phật”; nhưng một số đệ tử Phật đời sau, hoặc không phải đệ tử nhà Phật nhưng lại mạo danh, bảo rằng “mọi người đều là Phật!” Họ cho rằng chúng sanh và Phật vốn không khác biệt. Đây gọi là “người mù dẫn kẻ đui, làm lòa mắt của trời và người”, làm lòa mắt con người trên đời và lòa cả mắt chư thiên trên trời.
Sau khi ba lần thốt lời cảm thán “lạ thay”, Đức Phật Thích-ca bèn dùng trí tuệ Diệu quan sát trí[2] để quán sát, xem ai là người nên độ đầu tiên? “Ồ! Nên đến vườn Lộc Uyển độ năm anh em ông Kiều-trần-như v.v… trước!”. Năm người này trong kiếp quá khứ, chuyên phá hoại, hủy báng Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Trong vô lượng kiếp về trước, khi năm người này cùng nhau phát tâm tu đạo, họ luôn chèn ép Đức Phật Thích-ca Mâu-ni; lúc thì đánh Phật, lúc thì mắng Phật, có lúc lại ăn thịt hoặc uống máu Phật. Quý vị thấy có đáng sợ không?
Khi Đức Phật Thích-ca còn đang hành đạo bồ-tát, tuy bị năm người này đánh, Ngài chẳng những không sân hận, mà còn phát nguyện rằng: “À! Các người quả là giúp đỡ cho sự tu đạo của ta! Nếu như sau này có thể thành Phật, ta phát nguyện nhất định phải độ các người trước! Vì bây giờ chẳng phải các người đang tốt với ta sao? Ta cũng nên đối đãi lại các người tốt hơn một chút!” Khi năm người này mắng Đức Phật, Ngài cũng phát nguyện: “Chẳng phải bây giờ các người đang mắng ta sao? Nhưng ta không oán hận các người; chẳng những thế mà sau khi thành Phật, ta sẽ độ các người trước tiên!” Đức Phật đã phát nguyện như thế đấy!
Các vị xem, nếu là chúng ta, thì anh đấm tôi một đấm, tôi nhất định sẽ kính lại anh một đấm; anh đá tôi một đá, tôi cũng sẽ kính lại anh một đá. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chẳng những không đánh trả, mà còn đem tâm tốt ra đối đãi với họ. Có lúc năm người này kết thành một phe, bảo với Phật rằng: “Hiện giờ chúng ta đang không có thịt ăn, ngươi tu hành như thế, có thể cắt một ít thịt trên thân cho mấy người chúng ta ăn không?” Đức Phật liền cắt ngay một miếng thịt sạch nhất, dày nhất trên thân mình cho năm người bọn họ dùng.
Năm người này vừa ăn vừa chê: “Thịt của nhà ngươi thật dở, chả thơm tí nào! Thịt chó còn thơm hơn thịt của ngươi! Ngon nhất là thịt heo, thịt bò, thịt dê. Hừ! Ngươi tuy cho chúng ta ăn nhưng chúng ta vẫn không muốn ăn.” Miệng nói không muốn ăn, nhưng lại nuốt hết vào bụng; bọn họ đã ăn thịt của Phật, lại còn mắng Phật. Lúc ấy, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vốn muốn cúng dường thịt của Ngài để cảm hóa năm người bọn họ hồi tâm hướng thiện, sửa đổi làm mới lại chính mình; ai ngờ bọn họ vừa ăn thịt của Ngài lại vừa mắng Ngài.
Quý vị nói xem, nếu đổi lại là người bình thường thì sẽ nổi giận thốt lên rằng: “Thịt ta vừa cho các ngươi ăn, không phải là thịt mua từ bên ngoài, mà là thịt cắt từ trên người ta xuống! Các ngươi đã ăn thịt ta, lại còn mắng ta!” Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại không như thế, “Tốt! Chẳng phải các người ăn thịt của ta sao? Tương lai ta tu hành thành Phật, nhất định sẽ độ các người trước; vì các người đã ăn thịt của ta, thịt của ta chính là hạt giống Phật, đã trồng xuống chỗ các người rồi!” Quý vị xem, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã phát nguyện như vậy đấy. Khi bọn họ uống máu của Đức Phật cũng như thế; vừa uống, vừa chê máu hư, máu xấu… thế mà Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đều nhẫn thọ hết.
Công án lớn nhất là “Vua Ca-lợi và Tiên Nhẫn Nhục”. Vua Ca-lợi này là ai? Chính là Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như.
Vào thời quá khứ, một lần nọ, vua Ca-lợi dẫn theo một nhóm cung nữ lên núi đi săn—vây bắt một số động vật như hoẵng, nai, hươu. Số cung nữ này từ trước đến giờ chỉ ở trong thâm cung giống như ở tù vậy, không hề được ra ngoài; lần này như được sổ lồng, có thể nhìn ngắm trời mây. Ố! Nhìn quan cảnh núi rừng thật là thoáng đãng, có núi, có nước, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, nước suối nhẹ nhàng êm trôi; trước quang cảnh như thế, lòng người vô cùng vui vẻ. Phong cảnh núi rừng xinh đẹp hùng vĩ, cảnh tượng này thật không thể dùng lời tả xiết. Các cung nữ mải mê chạy đi thăm thú khắp nơi, chợt nhìn thấy trong một hang núi có một cụ già, lớp bụi đất bám trên thân người này dày không biết bao nhiêu mà kể, tóc dài đến nỗi bện thành một cục rối bù xù. Khi nhìn thấy bộ dạng của người này, các cung nữ không dám tiến lên, ngỡ đó là yêu quái; nhưng sau khi nhìn kỹ lại, ồ! Thì ra là một cụ già, một cụ già rất kỳ quái!
Đó là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi còn ở nhân địa, đã làm một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục ở trong núi vắng, rất ít khi gặp người khác. Bấy giờ, nhìn thấy nhiều cung nữ đến thế, Ngài cũng muốn hóa độ họ, nên lên tiếng: “Ậy! Các cô chớ hoảng sợ! Tôi không ăn thịt các cô đâu! Tôi không biết ăn thịt người, tôi cũng là người mà.”
Các cung nữ này nghe thế: Ồ! Cụ già đã nói chuyện rồi! Bèn vây quanh hỏi: “Cụ ngồi ở đây làm gì? Cụ ở nơi đây có cơm ăn không? Quần áo của cụ đã rách nát hết rồi! Cụ đi được không? Tại sao cụ lại ngồi mãi ở đây? …”
Tiền thân của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, chính là vị tiên Nhẫn Nhục này, đã bảo các cung nữ rằng: “Tôi ở đây tu đạo, chuyên tu về hạnh nhẫn nhục!” Các cung nữ liền hỏi: “Nhẫn nhục? Nhẫn nhục là cái gì?” Nghe đến chữ “nhẫn nhục” bọn họ không hiểu. Tiên nhân Nhẫn Nhục liền giải thích: “Nhẫn nhục có nghĩa là người ta có đối xử tệ với mình, mình đều không nổi sân, xem như không hề xảy ra việc ấy.” Sau đó, Tiên nhân giảng cho các cung nữ này nghe về pháp môn “nhẫn nhục”.
Giảng thuyết một hồi, người nói cũng sẵn lòng nói, người nghe cũng sẵn lòng nghe; vì các cung nữ này từ xưa đến giờ chưa từng nghe được diệu pháp như vậy. Lần này, người nghe cũng nhập tâm, người nói cũng định tâm; xung quanh có xảy ra động tĩnh gì, tất cả đều không hay biết. Giống như chúng ta hiện nay, nếu như quý vị là người thật tâm ở đây nghe kinh thì dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì, quý vị cũng không nghe thấy; còn nếu như quý vị là người không thật tâm nghe kinh thì ở ngoài phố có những du khách nào, hoặc giả hiện giờ ở tại “Kim Sơn Thời Báo” thuyết về nguồn gốc của Kim Sơn Thời Báo ra sao thì quý vị đều nghe biết hết. Nếu như quý vị nghe kinh bằng tất cả tấm lòng thì bên ngoài có âm thanh gì cũng đều không nghe thấy.
Vị tiên nhân Nhẫn Nhục này chuyên chú giảng cho các cung nữ nghe pháp môn “nhẫn nhục”; vào lúc ấy, vua Ca-lợi từ xa đi đến xem các cô đang làm gì. Bình thường có lẽ vua hay đùa nghịch với các cung nữ đã quen, lần này cũng vậy, Ngài đi nhè nhẹ, chầm chậm không để cho các cung nữ nhìn thấy. Các cung nữ đang nghe kinh một cách xuất thần, Tiên nhân Nhẫn Nhục cũng đang giảng một cách xuất thần, tất cả đều không hay biết đến những gì xảy ra xung quanh.
Vua Ca-lợi đi nhẹ nhẹ đến gần phía trước xem, Ồ! Thì ra có một cụ già! Các cung nữ của vua đều đang quây quanh cụ già nghe nói chuyện. Thế là vua liền khởi tâm đố kỵ nghĩ “Các cung nữ này đều là những người phụ nữ của mình, bây giờ lại bị một lão già mê hoặc, tất cả đều tỏ ra ưa thích ông ta!” Nghĩ như, thế vua liền cất tiếng hỏi: “Nhà ngươi đang kể chuyện gì vậy?” Nghe có tiếng người hỏi, Tiên nhân Nhẫn Nhục ngước lên nhìn, thì ra là một vị hoàng đế. Tiên nhân đáp: “Bần đạo đang giảng cho các cô ấy nghe về pháp môn “nhẫn nhục”!”
Vua hỏi: “Nhẫn nhục? Sao gọi là “nhẫn nhục””? Nhà ngươi có thể nhẫn được không? Chỉ dựa vào tấm thân già nua này, ngươi có thể nhẫn được không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Bần đạo có thể nhẫn được!” Vua Ca-lợi hỏi lại: “Ngươi có thể nhẫn được à? Bây giờ ta muốn chứng thực lời nói của ngươi! Thử xem nhà ngươi có thể nhẫn được không? Theo cách nhẫn nhục của ngươi, thì dù có đau đớn cỡ nào nhà ngươi cũng có thể nhẫn được phải không?” Vị tiên đáp: “Vâng!”
“Thế thì đầu tiên ta sẽ dùng kiếm báu chặt cánh tay của ngươi, xem ngươi phản ứng như thế nào?” Tiên nhân trả lời: “Vâng, xin Ngài cứ thử!” Thế là, vút, vua Ca-lợi rút kiếm báu đeo bên mình ra; thanh bảo kiếm của vua có thể chẻ vàng cắt ngọc, vô cùng sắc bén, vừa chạm vào tay Tiên nhân, cánh tay liền bị cắt lìa. Vua Ca-lợi hỏi: “Ngươi có đau không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” Vua tiếp: “Tâm ngươi có khởi lên sân hận không? Ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Ngươi thật không oán hận? Tốt! Còn lại một cánh tay, ta cũng sẽ cắt nốt! Một cánh tay, ngươi đương nhiên không oán hận, thử hai cánh tay xem!” Thế là vua chém đứt luôn cánh tay còn lại. “Ngươi có đau không?”
Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” “Tâm ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Thế có gì chứng minh không? Ngươi nói ngươi không oán hận ta, nhất định là ngươi nói dối, khoác lác! Hừ! Há lại có đạo lý này! Ta chặt tay của ngươi, ngươi lại không oán hận ta? Trên đời này không có loại người như vậy! Ta không tin! Ta chặt thêm một cái chân của ngươi, xem ngươi có oán hận hay không? Ta vốn muốn ngươi nói lời chân thật! Ngươi lại nói dối với ta, ta không thể tha thứ cho ngươi được!” Nói xong, liền vung kiếm chém lìa một chân của Tiên nhân.
Quý vị xem! Hai tay và một chân của người ta đã bị chặt, chỉ còn lại một chân. A! Nếu là người bình thường sẽ rất đau khổ, nước mắt tuôn tràn như suối chảy; nhưng lúc này vị Tiên Nhẫn Nhục không có tâm trạng như vậy. Vua Ca-lợi lại hỏi Tiên nhân: “Bây giờ ngươi có đau không?”
Tiên nhân đáp: “Không đau! Việc này không đáng gì!” “Ồ? Không đáng à? Tâm ngươi có hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Bần đạo không hận Ngài!” “Chà! Thế thì tốt! Hai tay của ngươi đã không còn, chân chỉ còn lại một cái. Một chân cũng không làm được gì, không thể đi đứng, ta sẽ hoàn thành tâm hạnh nhẫn nhục không đau khổ cho ngươi bằng cách chặt đứt luôn cả chân còn lại!” Thế là vua chém lìa luôn cả chân kia và hỏi Tiên nhân: “ Ngươi có đau không? Bây giờ hai tay và hai chân của ngươi đã không còn, ta xem ngươi còn làm thế nào được? Bây giờ ngươi có đau không? Phải nói thật! Nếu ngươi nói thật, ta sẽ bỏ qua; bằng nói dối, ta vẫn phải thử nghiệm tiếp!”
Tiên nhân Nhẫn Nhục trả lời: “Ồ! Bây giờ bần đạo vẫn cảm thấy không đau!” “Thế tâm ngươi có oán hận ta không?”, vua Ca-lợi hỏi. Tiên nhân vẫn từ tốn: “Bần đạo không oán hận Ngài!” Vua không tin “Ngươi ngoài miệng nói không oán ta, vì ta là một vị hoàng đế nên ngươi không dám oán, ngươi dám giận mà không dám nói, cho nên mới gắng chịu đựng đau đớn, cho nên phải nói dối mà không chịu nói thật, có phải như vậy không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục vẫn trước sau như một: “Dạ, không phải! Nếu như bần đạo không có tâm oán hận bệ hạ thì xin cho tay chân của bần đạo được mọc dài ra; còn như bần đạo có tâm oán hận Ngài thì xin cho tay chân của bần đạo không thể trở lại như xưa.”
Tiên nhân vừa dứt lời, tay và chân quả nhiên mọc trở lại như chưa hề bị chặt đứt. Lúc bấy giờ, tất cả hộ pháp thiện thần đều phẫn nộ, giáng trận mưa đá lớn đánh vua Ca-lợi. Thấy thế, tiên nhân Nhẫn Nhục xin với các vị hộ pháp thiện thần rằng: “Chư vị không nên trách phạt vua, ông ấy chỉ thử bần đạo, giúp bần đạo thành tựu đạo nghiệp. Trong cùng tận những kiếp mai sau, nếu được thành Phật, trước tiên bần đạo sẽ độ cho vua cũng được thành Phật; bần đạo sẽ độ vua trước, nhà vua sẽ là người được khai ngộ đầu tiên.”
Vua Ca-lợi kiếp trước nay chính là Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như. Xưa kia, Tôn giả đã không khách sáo đối với Phật như thế, nhưng sau khi thành đạo, Phật độ cho Tôn giả khai ngộ trước. Ngay cái tên “A-nhã” của Tôn giả dịch là “giải bổn tế”, hay còn gọi là “tối sơ giải”, nghĩa là được “người khai ngộ đầu tiên” vậy.
“Ma-ha Ca-diếp”: Ma-ha, nghĩa là “đại” (lớn); Ma-ha Ca-diếp chính là “Đại Ca-diếp”. Ca-diếp dịch là “Ẩm Quang”, còn gọi là “Quang Ba” ; lại còn một tên gọi nữa là “Đại Quy Thị”. Đại Quy Thị là họ của Tôn giả, vì tổ tiên của Tôn giả khi tu đạo, có một con rùa (quy) lớn ngậm một bức họa đến cho tổ tiên của Tôn giả xem, cho nên tổ tiên của Tôn giả mới lấy “Đại Quy Thị” làm họ cho dòng tộc. Nhưng theo cách nói của người Trung Hoa, thì “quy” luôn là chữ dùng để mắng người; ví như người Trung Hoa nói: “Mày là đồ con rùa”. Đây là câu mắng người. Họ của Tôn giả Đại Ca-diếp là “Đại Quy”, tên là “Tí-đa-la”. Tí-đa-la là tên của một loại cây, vì cha mẹ Tôn giả khấn cầu dưới cây này mà sinh ra Tôn giả, cho nên lấy tên cây làm tên cho Tôn giả.
Tại sao gọi là “Ẩm Quang”? Vì trên thân Tôn giả Ca-diếp phát ra ánh sáng có thể che mờ tất cả các ánh sáng khác, giống như uống lấy tất cả các ánh sáng vậy. Tại sao trên thân Tôn giả phát ra ánh sáng? Bàn đến vấn đề này, lại có một công án. Vợ trước đây của Tôn giả chính là Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang. Vào thời Đức Phật Tỳ Bà Thi, sau khi Đức Phật này diệt độ, có người đã lập tháp, xây chùa, tạo tượng thờ phụng Ngài. Nhưng trải qua một thời gian lâu sau, chùa bị hư hoại, tháp cũng đổ nát, không biết ai đó đã đội lên cho tượng Phật một chiếc nón rơm để che mưa. Vì sao gọi là “chiếc nón rơm”? Vì chiếc nón này được kết lại từ rơm, đội lên đầu có thể che mưa. Vào mùa xuân ở phương Bắc của tôi, những người con gái trong gia đình đều dùng cây cao lương (một loại cây nếp dùng để cất rượu) kết nên loại nón như thế, rồi đem ra thành phố bán; đội chiếc nón đó lên giống như che dù vậy, sẽ không còn sợ mưa.
Có một cô gái trông thấy tượng Phật được đội lên một chiếc nón như vậy, thấy liền phát khởi tâm từ bi nghĩ rằng: “Mình nhất định phải xây một ngôi chùa cho Phật, Phật ở đây sẽ bị nắng táp mưa sa, tình trạng như vầy làm sao có thể được chứ? Mình nhất định sẽ thếp vàng cho tượng Phật!” Thế là cô gái đi khắp nơi hóa duyên. Cô gái là một người rất nghèo khổ, tiền xin được mỗi ngày, cô đều đem đi mua vàng, trải qua thời gian khoảng mười mấy năm, vàng cô tích lũy được rất nhiều; cô để dành được rất nhiều vàng, lần này có thể đủ để xây chùa và cũng đủ để thếp áo vàng cho Phật.
Cô liền mời một người thợ kim hoàn, nấu vàng chảy ra, rồi thếp lên tượng Phật. người thợ kim hoàn thấy cô có nhiều vàng như thế, liền hỏi: “Làm sao cô có được nhiều vàng như vậy?” Cô đáp: “Lúc trước, nhìn thấy áo vàng trên thân của tượng Phật này bị tróc ra hết, tôi liền phát tâm đi hóa duyên, phải mất hơn mười mấy năm mới để dành được nhiều vàng như vậy.” Vừa nghe cô nói thế, người thợ kim hoàn liền phát tâm nói rằng: “Công đức này không chỉ một mình cô làm, tôi cũng góp một phần. Hai chúng ta cùng tạo công đức!” Kỳ thật người thợ kim hoàn này khi nhìn thấy cô gái phát tâm xây chùa, thếp áo vàng cho tượng Phật, tâm hạnh này rất tốt, cho nên đã đem lòng yêu mến cô gái. Đã sanh tâm yêu mến thì nhất định trước tiên phải lấy lòng cô gái, cho nên anh chàng mới nói công đức này là của hai người làm, chứ không phải chỉ một mình cô gái làm. Tổ sư Ca-diếp chắc chắn là có ý nghĩ như thế!
Khi tượng Phật đã thếp xong, chùa cũng đã xây dựng hoàn tất, người thợ kim hoàn liền ngỏ lời cầu hôn với cô gái: “Tâm địa của cô thật tốt! Cả đời này tôi chưa từng gặp ai tốt hơn cô! Tôi vốn định sống độc thân suốt đời, hôm nay mới gặp được một người bạn tri âm, tri kỷ như cô, cô có bằng lòng kết hôn với tôi không?” Nghe thế, cô gái nghĩ: “Ồ! Tâm địa của anh chàng cũng không tệ, mình mời anh ta đến thếp áo vàng cho tượng Phật, anh ta chỉ lấy một nửa tiền công. Tấm lòng của người con trai này thật tốt!” Thế là cô liền bằng lòng, hai người kết hôn với nhau. Kết hôn rồi còn không nói gì, hai người còn phát nguyện đời đời kiếp kiếp đều muốn làm vợ chồng với nhau. Quý vị thấy không! Loại mãnh lực ái tình này thật là ghê gớm! Sanh ra kiếp nào, hai người cũng đều muốn làm vợ chồng!
Do nhân duyên thếp áo vàng cho tượng Phật, nên trên thân hai người đều phát ra ánh sáng màu vàng kim và cũng do vậy, mà tên của tôn giả được gọi là “Ẩm Quang”, nghĩa là có khả năng nuốt hết tất cả các ánh sáng khác. Trong kiếp hiện tại, khi Tôn giả Ca-diếp vừa chào đời, trên thân đã có ánh sáng màu vàng; sau khi lớn lên, cha mẹ của Tôn giả muốn tìm một cô gái tốt cưới cho con trai mình. Tôn giả bảo: “Không thể được! Trên thân con có ánh sáng màu vàng, con nhất định phải tìm một cô gái cũng có ánh sáng màu vàng mới được; nếu không, con thà theo chủ nghĩa độc thân!” Sau đó, quả nhiên tìm được một cô gái trên thân cũng có ánh sáng màu vàng giống như Tôn giả tại một nước khác, hai người liền kết hôn với nhau. Lời ước nguyện quả thật không sai. Khi hai người chứng được đạo quả A-la-hán, liền biết được từ nhiều kiếp hai người đã luôn làm vợ chồng của nhau. Nhưng thấy người ta làm vợ chồng với nhau, quý vị không nên hiểu lầm mà nghĩ rằng: “Sau này gặp được một người con trai, mình cũng sẽ cùng với anh ta phát nguyện đời đời kiếp kiếp đều làm vợ chồng như thế!” Người ta phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng là vì vấn đề tu đạo; đời đời kiếp kiếp đều phải tu đạo, đều phải quy y Tam bảo, xuất gia và ngộ đạo. Quý vị chớ nên phát nguyện đời đời kiếp kiếp cùng làm vợ chồng, vì càng làm càng xa đạo, đến một lúc nào đó sẽ rơi vào địa ngục! Nhất định là phải tu đạo mới được!
Do vậy mà Tôn giả Ca-diếp và vợ đều cùng quy y Phật, đều chứng được Thánh quả, Tôn giả làm vị Tổ sư đầu tiên; vị Tổ đầu tiên chính là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp. Quý vị có muốn nhìn thấy tôn giả Ma-ha Ca-diếp không? Tôn giả Ma-ha Ca-diếp hiện giờ vẫn còn ở trên thế gian, trong núi Kê Túc thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Hoa. Tôn giả vẫn đang tĩnh tọa, nhập định tại đó, đợi sau này khi Phật Di-lặc ra đời thành Phật, Tôn giả sẽ đem y bát của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giao lại cho Phật Di-lặc. Hiện tại Tôn giả vẫn chưa nhập niết-bàn, vẫn chưa viên tịch, Tôn giả vẫn còn ở trên thế gian này. Quý vị khi đến núi Kê Túc lễ bái tôn giả Ma-ha Ca-diếp, nếu ai có tâm thành thì sẽ thấy được Ngài.
Từ “Ẩm Quang” này, không phải nói là uống ánh sáng vào bụng, không hề có ý nghĩa này; mà là nói ánh sáng trên thân của Tôn giả có thể nuốt hết tất cả các ánh sáng khác. Ánh sáng trên thân Tôn giả vượt qua tất cả các ánh sáng; giống như ánh sáng của ngọn đèn điện 500W, khi tôn giả Ca-diếp đến chỗ này thì ánh sáng 500W kia sẽ không còn sáng nữa, ánh sáng trên thân của Tôn giả mạnh hơn 500W, có thể là 1000W, 2000W, thì sẽ uống được ánh sáng 500W này—không phải là dùng miệng uống, mà là ánh sáng trên thân Tôn giả phát ra vượt trội hơn bất kỳ ánh sáng nào, che mờ tất cả các ánh sáng khác, giống như nuốt các ánh sáng khác vậy. Mỗi người chúng ta đều phải hiểu rõ điểm này, không nên cho rằng tôn giả Ca-diếp không uống nước mà là uống ánh sáng, đây là cái hiểu lệch lạc.
Vị Tôn giả Ca-diếp này có tuổi đời lớn nhất trong số các đệ tử của Phật; tuy lớn như thế, nhưng tuổi càng cao Tôn giả càng minh mẫn, càng mạnh khỏe, làm bất cứ việc gì đều không từ nan. Tôn giả vốn sinh trưởng tại nước Ma-kiệt-đề (Đà), cha mẹ đều là người rất có tiền, sự giàu sang có thể sánh ngang hàng với vua chúa. Vua nước Ma-kiệt-đề lại từng bái Tôn giả làm thầy; nhưng sau khi xuất gia tu đạo theo Phật, Tôn giả nghĩ: Người tu đạo phải “an bần lạc đạo, an bần lạc đạo”, không thể ham tiền, cho nên Tôn giả đem hết tài sản của mình ra bố thí, một thân tu đạo, chuyên tâm thực hành hạnh đầu-đà khổ hạnh.
Thế nào gọi là “hạnh đầu-đà khổ hạnh”? Tức là ăn cũng không ăn ngon, mặc cũng không mặc đẹp, ở cũng không ở chỗ tốt, tự mình phải kham khổ, nhẫn chịu lao nhọc, không sợ khó. “Khổ hạnh” có nghĩa là càng khổ càng phải nhẫn thọ, phải kham chịu lao khổ. Tất cả những hưởng thụ của đời người đều không ngoài ba thứ: y, thực, trụ. “Y” chính là y phục để mặc; “thực” chính là thức ăn để ăn; “trụ” chính là nơi để ở. Tôn giả đối với ba việc này luôn thích kham khổ. Tuổi của Tôn giả tuy lớn như thế, nhưng vẫn thực hành hạnh đầu-đà khổ hạnh.
Có một hôm, Đức Phật đang thuyết pháp, Tôn giả đi đến, Phật liền nhường nửa tòa ngồi cho Tôn giả. Tòa ngồi rất lớn, Phật chia nửa tòa bảo Tôn giả rằng: ‘Ca-diếp, hãy đến ngồi bên cạnh Như Lai!” Tôn giả cùng ngồi với Phật. Vì sao Phật lại chia nửa tòa ngồi cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp? Vì lúc này tuổi của Tôn giả đã rất lớn, khoảng 140 tuổi. Phật khuyên Tôn giả: “Tuổi của ông đã quá lớn, tinh thần cũng sẽ không được sung mãn lắm; ông nên ăn thêm chút vật ngon, mặc thêm ít đồ tốt, ở phòng tiện nghi hơn một chút, không nên hành hạnh đầu-đà nữa! Như vậy thật là vất vả! Tuổi ông đã quá lớn, sợ không kham nổi!”
Tuy Phật đã khuyên như thế, Tôn giả cũng không nghe theo, vẫn thực hành theo hạnh đầu-đà. Do vẫn thấy Tôn giả hành theo hạnh đầu-đà, vẫn sống khổ hạnh, kham chịu nhọc nhằn như thế, nên Phật đã tán thán Tôn giả một cách sâu sắc rằng: “Pháp của Như Lai trụ lâu ở đời, phần lớn có liên quan đến sự thực hành hạnh đầu-đà của Ca-diếp. Tôn giả Ca-diếp có thể thực hành hạnh đầu-đà như thế, pháp của Như Lai chắc chắn có thể trụ lâu dài trên thế gian!” Cho nên ở trong số đệ tử của Phật, Tổ sư Ca-diếp là “Đầu-đà đệ nhất”, đứng đầu về thực hành hạnh đầu-đà.
Có một lần, lúc Đức Phật đang thuyết pháp, có một vị Phạm Thiên đem hoa Kim-ba-la đến cúng Phật; vị Phạm Thiên này nằm dài trên đất, dùng thân làm tòa ngồi, thỉnh Đức Phật ngồi lên thân mình, thuyết pháp cho chúng sanh nghe. Phật liền ngồi lên mình Phạm Thiên, tay cầm đóa hoa đối trước trăm vạn chúng trời người mỉm miệng cười. Phật vừa mỉm cười, Trưởng lão Ca-diếp cũng mỉm cười theo, cho nên sự kiện này được gọi là “niêm hoa vi tiếu truyền” (truyền pháp bằng cách giơ đóa hoa lên mỉm cười); truyền cái gì? Truyền pháp môn tâm ấn của Phật. Đức Phật bảo: “Như Lai có kho tàng con mắt chánh pháp, diệu tâm niết bàn, vô tướng thực tướng, truyền ngoài ngôn giáo, lấy tâm ấn tâm (chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, giáo ngoại biệt truyền, dĩ tâm ấn tâm) nay giao phó lại cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp.” Như Lai đã truyền pháp cho Ma-ha Ca-diếp, cho nên Tôn giả là Tổ sư đầu tiên tại Ấn Độ.
Thế nào gọi là “Tổ”? Phật đem tất cả pháp truyền lại cho đệ tử; người đệ tử được truyền pháp này gọi là Tổ Sư. Chế độ “Tổ” tại Ấn Độ là một đời chỉ truyền cho một người, gọi là đơn truyền, cho nên Phật chỉ truyền cho Ca-diếp, Tổ Ca-diếp lại chỉ truyền cho A-nan làm Nhị tổ, Nhị tổ A-nan lại truyền cho Thương-na-hòa-tu làm Tam tổ, Tam tổ Thương-na-hòa-tu lại truyền cho Ưu-ba-cúc-đa làm Tứ tổ…; mỗi đời mỗi đời truyền xuống đều là pháp môn tâm ấn tâm này.
Từ Tổ đầu tiên truyền đến Tổ Bồ-đề-đạt-ma thứ 28; Tổ Bồ-đề-đạt-ma lại mang toàn bộ pháp môn tâm ấn của kho tàng con mắt chánh pháp, diệu tâm niết bàn, vô tướng thực tướng, truyền ngoài ngôn giáo đến Trung Hoa truyền cho Thần Quang làm nhị tổ; Nhị tổ Thần Quang lại truyền cho Tam Tổ, cứ thế truyền đến Tứ Tổ, Ngũ Tổ, cho đến Lục Tổ; về sau “hoa khai ngũ diệp” (một hoa nở ra năm cánh—chỉ cho Tổ Bồ-đề-đạt-ma là người Ấn Độ và năm vị Tổ kế là người Trung Hoa) mới chia ra thành năm tông phái lớn là “tông Lâm Tế, tông Tào Động, tông Quy Ngưỡng, tông Vân Môn và tông Pháp Nhãn” và cho đến hôm nay thì Phật pháp đã truyền đến phương Tây. Đây là ý nghĩa tổng quát của “sự truyền thừa giáo pháp từ Đức Phật đến chư Tổ” _ Phật Tổ lưu truyền.
Vừa rồi giảng đến chữ “đầu-đà”, thường người ở Trung Hoa gọi đầu-đà là “đầu-đà tăng”; vậy thì chữ “đầu-đà tăng” phải giải thích như thế nào? Không chỉ nói người bình thường, mà một số người có học vấn, nhưng chưa nghiên cứu qua Phật học cũng không hiểu được ý nghĩa này, chỉ biết gọi là “đầu-đà tăng”. Đầu-đà là tiếng Phạn, dịch là “đẩu tẩu” (làm cho phấn chấn); “đẩu tẩu tinh thần” chính là lúc đả thiền thất tôi thường nói “làm cho tinh thần phấn chấn lên”. Câu “làm cho tinh thần phấn chấn lên” là muốn quý vị không sợ khổ, sợ khó, càng khổ càng tiến tới, càng khổ càng phải làm, giống như Tổ sư Ca-diếp vậy. Quý vị xem, Tổ sư Ca-diếp đã lớn tuổi như thế mà vẫn thực hành hạnh đầu-đà, làm cho tinh thần phấn chấn lên. Ở đây chia hạnh đầu-đà ra làm 12 loại:
Thứ nhất, Đắp bá nạp y, chính là nói y phục dùng để mặc. Mặc y phục gì? Mặc “nạp y” (y phục vá); trên y phục, trái vá một miếng, phải vá một miếng, vá víu không biết bao nhiêu mà kể, y phục như vậy gọi là “y bá nạp” hay “y phấn tảo”.
Tại sao gọi là “y phấn tảo”? Loại y phục này được tạo thành như thế nào? Đây là y phục mà người bình thường không chịu mặc, vứt nó vào bãi rác; thế là người xuất gia liền đến bãi rác, nhặt lấy những tấm vải rách bị quẳng vào đây, giặt sạch chúng, rồi nối lại với nhau làm thành y phục để mặc, đây gọi là “y phấn tảo”. Mặc loại y phục này có lợi ích gì? Nếu nói về mặt lợi tích cực thì có rất nhiều; nếu nói về mặt lợi tiêu cực cũng không ít. Tại sao nói có rất nhiều mặt tích cực? Quý vị mặc vào y phục này, bản thân đã không khởi tâm tham, diệt trừ được tâm tham của chính mình và cũng sẽ không nói: “Quý vị xem, tôi mặc bộ y phục này thật đẹp! Rất mắc đấy!” không khởi lên tâm kiêu ngạo, chế ngự được tâm tham của mình. Người xung quanh nhìn thấy quý vị: “Ô! Vị tu hành này, mặc y phục rách rưới như thế, không mặc y phục đẹp! đây mới thật sự là người tu đạo, chúng ta nên học theo vị ấy!” Vậy là trừ diệt được tâm tham cho người; vì sức ảnh hưởng này của quý vị, cũng sẽ khiến cho các Tỳ-kheo khác đều phát khởi tâm đạo. Cho nên đã dừng được tâm tham của mình, lại còn dứt được tâm tham cho người, đây há chẳng phải là lợi ích sao? Quý vị nói xem lợi ích này có hạn lượng không? Cho nên nói lợi ích này rất lớn!
Lại nói đến mặt lợi tiêu cực cũng không ít, mặc lợi tiêu cực đó là gì? Quý vị mặc y phục rách này, bọn thổ phỉ cướp bóc chắc chắn sẽ không cướp đồ của quý vị. Như năm 1948, khi tôi còn ở tại chùa Nam Hoa thì có cướp đến cướp chùa, bọn chúng phá toang cửa tiến vào, bảo tôi đưa chi phiếu ra. Tôi bảo bọn chúng: “Các vị xem tôi mặc đồ như thế này có giống người có tiền không?” Bọn họ nhìn lại y phục tôi mặc—y phục tôi mặc lúc đó không lành lặn giống như y phục tôi mặc bây giờ. Y phục lúc đó chính là bộ đồ tôi mặc khi còn đang thủ hiếu bên cạnh mộ mẹ; sau khi thủ hiếu xong, tôi mặc mãi bộ đồ ấy để kỷ niệm mẹ tôi. Vì bộ đồ đó rách tả tơi, cho nên khi tôi còn ở Đông Bắc, những người đệ tử quy y với tôi đều muốn đắp thêm vào cho tôi một miếng vá vuông lớn; ai quy y với tôi cũng vá cho tôi một miếng, cho nên bộ đồ vá víu chằng chịt.
Bộ đồ bọn cướp nhìn thấy tôi mặc ở chùa Nam Hoa, chính là bộ vá đó. Tôi bảo họ vào phòng: “Trong phòng tôi có bảo vật, các vị hãy vào đó mà lấy!” Nhưng bọn họ lại không vào. Lúc đó, trong phòng tôi quả thật có hai “bảo vật”—bảo vật sống đấy! Đó là hai chú Sa-di, lúc ấy hãy còn nhỏ. Do mặc đồ như vậy, cho nên bọn cướp sẽ không lấy đồ của quý vị. Lại còn, những người có tiền sẽ tránh quý vị rất xa; lại còn một điểm rất quan trọng là những cô gái cũng sẽ tránh quý vị rất xa. Quý vị tu đạo, luôn mặc bộ đồ như thế, sẽ có một mùi hương “rất thơm”; nhưng “mùi thơm” đó sẽ làm cho những cô gái bình thường cho là mùi thối, cho nên không thể không tránh xa quý vị một chút. Cho nên mặc y phấn tảo có rất nhiều lợi ích như vậy, ở đây tôi chỉ đơn cử một số như thế.
Thứ hai, chỉ tam y, tức là chỉ có ba y, không có những vật khác. Nên nói “bên mình không có những vật làm chướng ngại, thì bản thân không sanh khởi phiền não”; Tỳ-kheo thực hành hạnh đầu-đà, chỉ được phép có ba y. Ba y là:
(1) Tổ y: là y lớn nhất trong ba y, còn gọi là “Đại y”. tiếng Phạn là “Tăng-già-lê”, dịch là “y hai mươi lăm điều” (nhị thập ngũ điều y). Hai mươi lăm điều này, mỗi một điều có bốn ô dài một ô ngắn, tính chung có tất cả là một trăm hai mươi lăm ô, đây là biểu hiện cho hình dáng của những thửa ruộng, cho nên còn gọi là “Phước điền y” (y ruộng phước). Khi đi vào cung vua, hoặc thăng tòa thuyết pháp, hay ôm bát đi khất thực đều có thể đắp y Tổ này.
(2) Thất y: Y bảy điều, trong mỗi một điều có hai ô dài một ô ngắn, tổng cộng có hai mươi mốt ô. Tiếng Phạn là “Uất-đa-la tăng”, dịch là “Nhập chúng y” (y vào trong chúng). Tại sao gọi là Y vào trong chúng? Tỳ-kheo khi lễ bái, tụng kinh, dự trai đàn, nghe thuyết giảng kinh pháp đều phải đắp y này.
(3) Ngũ y: Y năm điều, trong mỗi một điều có một ô dài một ô ngắn, tổng cộng có mười ô. Tiếng Phạn là “An-đà-hội”, dịch là “Tác vụ y” (Y làm việc). Tác vụ chính là làm việc, chấp lao phục dịch; ở mọi lúc, mọi nơi đều có thể đắp y Ngũ này.
Tỳ-kheo muốn thực hành hạnh đầu-đà chỉ nên có ba y này. Cái gọi là “Tam y bát cụ” (ba y, bình bát, tọa cụ), tấm vải dùng trải lễ bái trên điện Phật gọi là “cụ”; chén Tỳ-kheo dùng ăn cơm gọi là “bát”. Đây là hai hạnh có liên quan đến vấn đề mặc y phục trong mười hai hạnh đầu-đà. Ngoài mặc y phục ra, cái quan trọng hơn không gì bằng ăn cơm—cái con người ta xem trọng nhất là mặc đồ và ăn cơm, ăn cơm lại quan trọng hơn mặc đồ. Cho nên có đến năm loại hạnh đầu-đà có liên quan đến vấn đề ăn uống.
Thứ ba, Khất thực: chính là ôm bát đi xin cơm, còn gọi là “Thường khất thực”. Là mỗi ngày đến giờ thọ trai, bèn đi xin cơm, chứ không tự mình nấu, nên ăn những thức ăn có sẵn—người ta làm xong, quý vị đến đó để xin. Ở các nước Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, gia chủ làm cơm xong đều chuẩn bị riêng một bát đặt để sẵn; vị tu sĩ nào đến khất thực, gia chủ quỳ trên đất, đội bát cơm chay lên đầu, sau đó trút vào trong bát của vị tu sĩ, tiếp theo khấu đầu ba cái, biểu hiện cúng dường Tam bảo. Mỗi một gia đình ở các nước Xiêm La, Miến Điện, Tích Lan đều làm như thế để cúng dường Tam bảo.
Thứ tư, Thứ tự khất: là khất thực không được chọn lựa. Giống như trong kinh Lăng Nghiêm nói “Tức thời A-nan, chấp trì ứng khí, ư sở du thành, thứ đệ tuần khất. Tâm trung sơ cầu, tối hậu đàn việt, dĩ vi trai chủ, bất vấn tịnh uế, sát-lợi tôn tánh, cập chiên-đà-la, phương hành đẳng từ, bất trạch vi tiện, phát ý viên thành, nhất thiết chúng sanh, vô lượng công đức.” A-nan ôm bình bát, trong lòng nghĩ rằng, ai cúng dường thức ăn cho ta, đó chính là trai chủ tối hậu của ta. Không quan tâm là sạch hay dơ, cũng không để ý là dòng dõi Sát-đế-lợi giàu có, hay giai cấp Chiên-đà-la nghèo hèn nhất; không hỏi giàu nghèo, không hỏi thí chủ là người có tiền hay không có tiền, cứ như thế khất thực, ban cho tất cả chúng sanh vô lượng công đức. Theo thứ lớp khất thực, tức là không có tâm phân biệt, thực hành bình đẳng, làm cho tất cả chúng sanh đều có cơ hội gieo trồng công đức, không có tâm lựa chọn, đây chính là chí công vô tư vậy.
Thứ năm, chánh ngọ ăn một bữa. Tức là buổi sáng không ăn, buổi tối cũng không ăn, chỉ ăn một lần vào buổi trưa. Ngày ăn một bữa là rất tốt, đáng tiếc là không dễ thực hiện. Vì sao vậy? Người ta lấy ăn làm gốc, tất cả mọi người đều muốn ăn, đều có ham muốn được ăn, đói một chút liền nghĩ đến ăn. Sáng sớm dậy cũng đói, buổi tối cũng đói; cho nên ngày ăn một bữa tốt thì rất tốt, nhưng không dễ gì làm được. Tốt cái gì? Giảm bớt được rất nhiều phiền toái; quý vị bớt ăn hai buổi sẽ giảm bớt được đại tiện, tiểu tiện vài lần. Công đức của “Ngày ăn một bữa” không thể nào kể hết. Tóm lại, quý vị ăn ít một chút sẽ ít phiền toái một chút; ăn quá nhiều, phiền toái sẽ càng nhiều.
Đặc biệt là lúc Tỳ-kheo dùng cơm phải có ba loại niệm và năm loại quán tưởng. Ba loại niệm này là gì?
(1) Nguyện đoạn nhất thiết ác: nguyện đoạn tận tất cả ác.
(2) Nguyện tu nhất thiết thiện: nguyện làm tất cả điều lành.
(3) Nguyện độ nhất thiết chúng sanh: nguyện độ tất cả chúng sanh đều được lìa khổ được vui.
Năm loại quán tưởng là gì?
(1) Kế công đa thiểu lượng bỉ lai xứ. Đầu tiên, phải tính xem thức ăn mình sắp ăn cần phải có bao nhiêu người làm mới có thể làm thành? Giống như hạt gạo này, đem gieo xuống đất, lại phải vun bón, tưới tẩm, sau đó gặt về xay—bây giờ dùng máy, còn trước kia phải dùng cối xay để mài—tuốt vỏ nó ra, rồi nấu thành cơm mới có thể ăn. Quý vị tính thử xem phải trải qua bao nhiêu công phu mới có thể trở thành hạt gạo như vầy? Cho nên phải nghĩ đến người làm ra nó. Người Trung Hoa thời xưa có câu nói như vầy:
Cày ruộng giữa ban trưa
Đẫm mồ hôi gieo hạt
Ai hay cơm trong bát
Hạt hạt thấm gian lao.
(Sừ hòa nhật đương ngọ
Hãn thích hòa hạ thổ
Thùy tri bàn trung san,
Lạp lạp giai tân khổ.)
Ở Trung Hoa xưa kia đều làm ruộng theo cách đó, dùng bừa xới đất; ngay lúc khí trời đang nóng bức, mặt trời đứng bóng. Đẫm mồ hôi gieo hạt, mồ hôi của người làm ruộng này nhỏ xuống đất ruộng giống như nước nhỏ giọt tí tách tí tách. Ai hay cơm trong bát, hạt hạt thấm gian lao, mỗi một hạt cơm đều được làm ra từ trong khổ nhọc.
Cho nên chúng ta ở bất kỳ đất nước nào, thuộc bất kỳ dân tộc nào, đối với vật chất đều nên tiết kiệm, đều nên quý tiếc, không được tùy tiện lãng phí những đồ vật còn xài được! Nên nghĩ đến nó được tạo ra không phải dễ. Vì sao có những quốc gia trên thế giới hiện nay không có cơm ăn? Vì họ đã quá lãng phí cho nên không có cơm ăn. Chúng ta là những người tin Phật, đặc biệt phải hết sức cẩn thận, chú ý đối với vấn đề nhân quả, không nên lãng phí bất kỳ vật gì. Những thức ăn thức uống, tiền tài vật chất quý vị có thể dùng được thì dùng, không thể dùng thì cho người khác dùng, không được tùy tiện lãng phí. Có câu nói “trong bếp cơm dư thừa, trên đường có người đói”, trong nhà của chúng ta có cơm thừa, trái lại bên ngoài có người bị đói; nên đem cơm thừa cho người không có cơm ăn, không được vứt bỏ. Do vậy khi ăn thức ăn, phải nghĩ đến nó được làm ra không phải dễ.
(2) Thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng. Thổn là suy xét, xét nghĩ; xét nghĩ mình có đức hạnh gì mà có thể nhận đồ cúng dường của thí chủ các nơi mang đến? Toàn khuyết là đức hạnh của mình đủ hay không, là toàn hay là khuyết? Nếu như đức hạnh không đủ thì phải nhanh chóng dụng tâm tu đạo.
(3) Phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông. Phòng tâm là phải phòng bị tâm này của mình; ly quá là phải xa rời những lỗi lầm. Xa rời những lỗi lầm nào? Xa rời ba lỗi lầm “tham, sân, si”. Khi ăn thức ăn không được tham, chớ nói thức ăn này ngon, tôi phải ăn nhiều một chút; thức ăn kia dở, tôi không ăn, trong ăn uống phải bình đẳng, không nên phân biệt mùi vị ngon hay dở.
(4) Chính sự lương dược, vi liệu hình khô. Tỳ-kheo khi đang dùng cơm thì phải quán tưởng thế nào? Phải nghĩ thức ăn là vị thuốc: vì sao mình phải ăn thức ăn này? Đây chính là phương thuốc thật sự! Nếu mình không dùng phương thuốc này thì thân thể này của mình sẽ khô héo, sẽ không thể tồn tại được.
(5) Vị thành đạo nghiệp, ứng thọ thử thực. Vì sao tôi phải ăn cơm này? Ồ! Vì tôi phải dụng công tu đạo, nếu tôi không ăn cơm thì đứng cũng không đứng nổi, ngồi cũng không ngồi vững—có thể ngủ, nhưng đó không phải là cách thức tu đạo; do vì tôi muốn tu đạo cho nên không thể không ăn cơm này.
Tỳ-kheo khi dùng cơm đều nên có ba niệm, năm quán (tam niệm ngũ quán) này. Đây là hạnh “ngày ăn một bữa”, cách này có rất nhiều điều tốt.
Thứ sáu, Tiết lượng thực. Tiết là “có tiết chế”; lượng là “có số lượng”. Ăn thức ăn không nên nói thức ăn này ngon, dùng xong lại muốn dùng nữa, đó là không có tiết độ. Bất luận là món ăn ngon như thế nào, nếu như mỗi ngày tôi ăn hai chén cơm thì nhất định chỉ ăn hai chén; không thể nói thức ăn này không ngon nên chỉ ăn một chén, còn thức ăn ngon thì ăn ba chén, như thế tức là bản thân không có sự tiết độ. Mỗi một người xuất gia hành hạnh đầu-đà, vốn ăn hai chén có thể no, nhưng bây giờ tôi chỉ ăn một chén rưởi, ăn ít một chút, đây gọi là “ăn uống có tiết độ”.
Thứ bảy, Quá ngọ bất ẩm tương. Quá giờ ngọ không uống nước cơm—ngay cả sữa bò, nước trái cây cũng đều không uống. Nhưng điều này quá khó! Việc làm này không phải dễ, trà cũng được tính là một loại thức uống (tương), nên ngay cả trà cũng không thể uống. Đây là năm loại hạnh đầu-đà có liên quan đến vấn đề ăn uống.
Khi Phật còn tại thế, Tôn giả Ca-diếp là “Đầu-đà đệ nhất”; đầu-đà có 12 loại, chúng ta đã giảng xong 7 loại. Còn lại 5 loại thuộc về vấn đề ở.
Thứ tám, Trụ A-lan-nhã. A-lan-nhã là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “tịch tĩnh xứ” (nơi vắng lặng ); tịch tĩnh chính là nơi không ồn ào, không có bất kỳ âm thanh nào. Nơi này là ở trong rừng núi, cách xa thành thị; gọi đây là “A-lan-nhã”, còn gọi là “A-luyện-nhã”, chính là một nơi tu đạo tốt nhất cho hành giả. Ở nơi tịch tĩnh, nó có một địa điểm nhất định.
Thứ chín, Thọ hạ túc. Vì sao lại phải ở dưới gốc cây? Vì người tu đạo lấy trời đất làm lều, lấy bốn biển làm nhà, nơi đâu cũng đều có thể ở. Ở bên dưới cây như vậy, đã có thể tránh mưa, lại còn rất mát, cho nên có thể ở dưới gốc cây. Nhưng dưới mỗi gốc cây không thể ở quá ba ngày, chỉ có thể ở hai đêm. Vì sao không thể quá ba ngày? Vì những Tỳ-kheo thật sự tu đạo, phẩm hạnh thanh cao sẽ tránh những nơi nào có duyên, tránh để người nhận ra mà tìm đến cúng dường, cho nên tại mỗi một nơi chỉ ở hai đêm rồi đi. Nếu như có người nhận ra, muốn đến cúng dường thì vị ấy đã đi rồi. Đây là vì không cầu bất kỳ sự cúng dường hậu hĩ của người nào, cho nên ở dưới gốc cây.
Thứ mười, Lộ địa túc. Ở dưới gốc cây, vẫn còn có lá cây che chắn gió mưa; còn ở ngoài đồng trống, lúc này thật sự là lấy trời đất làm nhà, cuộc sống như thế vô cùng tự tại. Ngủ ngoài đồng trống, vừa có trăng sáng, vừa có sao soi; cho nên nói:
“Lúc trăng treo giữa trời
Gió lùa qua mặt nước
Một làn hương thanh lạ
Cảm nhận được mấy ai.”
Nguyệt đáo thiên tâm xứ,
Phong lai thủy diện thời;
Nhất ban thanh ý vị,
Lược đắc thiểu nhân tri.
Khi vầng trăng tỏ rạng giữa trời không, lúc có một làn gió lướt qua mặt nước, cuộc sống của thiên nhiên như vậy, nhưng rất ít ai có thể lãnh hội được điều mầu nhiệm này.
Thứ mười một, Trủng gian trụ. Trủng chính là “phần mộ” (mồ mả), nghĩa là cùng ngủ chung với người chết. Ngồi trong nghĩa trang làm bạn với ma quỷ. Tại sao như vậy? Vì ngồi bên cạnh mộ rất thích hợp cho việc “quán vô thường”—biết đời người là vô thường, bất luận sớm tối mau chậm cũng đều sẽ chết; sau khi chết sẽ trở thành một cái gò mả, thân thể bên trong biến thành một đống xương trắng. Ngồi bên cạnh mộ tu đạo có thể giác ngộ được tất cả đều là vô thường, sẽ không phát khởi những tâm tham, những tâm sân, những tâm si, thì sẽ không dính mắc vào bất kỳ vật gì.
Thứ mười hai, Hiếp bất trước tịch. Hiếp là “xương sườn”. Hiếp bất trước tịch (lưng không dính chiếu) chính là “thường ngồi không nằm”, tức nói vị ấy luôn luôn ngồi. Ở Ấn Độ có một vị Hiếp Tôn Giả, suốt đời không bao giờ nằm mà chỉ ngồi. Thường ngồi không nằm cũng là một trong những hạnh đầu-đà. Vì người ta nằm sẽ dễ ngủ, mà đã ngủ thì lại càng muốn ngủ, không chịu dậy dụng công tu hành. Thường ngồi không nằm, vị ấy ngồi ngủ một giấc thì tỉnh lại, sẽ rất dễ dụng công tu hành, tham thiền tĩnh tọa. Cho nên cách thức “thường ngồi không nằm” này rất có lợi cho người tu hành.
Đối với mười hai hạnh đầu-đà, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp đều có thể hành trì. Có người thực hành hạnh đầu-đà, chỉ hành một hạnh; hoặc là chỉ mặc “y phấn tảo”, hoặc là “chỉ có ba y”, hoặc chỉ thực hành “thường đi khất thực”, hoặc “khất thực theo thứ lớp”, hay chỉ tu “ngày ăn một bữa”, hoặc chỉ tu “tiết độ trong ăn uống”, hoặc “ở tại gò mả”, hoặc “thường ngồi không nằm”. Tôn giả Ma-ha Ca-diếp tuy tuổi đã rất lớn, nhưng đều có thể hành trì như pháp mười hai hạnh đầu-đà, cho nên Tôn giả mới được tôn xưng là “Đầu-đà đệ nhất”.
“Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp”: Ưu-lâu-tần-loa là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Mộc qua lâm” (rừng đu đủ), ý nói Tôn giả thích tu đạo trong rừng đu đủ. Già-da dịch là “thành” (thành thị). Na-đề dịch là “hà” hoặc “giang,” có nghĩa là sông. Ba anh em này trước kia là ngoại đạo thờ lửa; họ cho rằng lửa là linh thiêng nhất, là mẹ của vạn vật, cho nên nhất mực cung kính, lễ lạy lửa. Quý vị nói xem, như thế có ngu si hay không? Quý vị lạy lửa có lợi ích gì? Chẳng có lợi ích gì cả, nhưng họ vẫn lạy lửa. Cho nên sau khi ngộ đạo, bước đầu giáo hóa chúng sanh, trước tiên Đức Phật độ năm vị Tỳ-kheo (năm anh em Kiều-trần-như); sau đó, Ngài quán sát xem tiếp theo nên độ ai. Nhận thấy cơ duyên của ba anh em nhà Ca-diếp nước Ma-kiệt-đề đã chín mùi, nên đến độ họ, Phật liền đến chỗ ở của họ.
Phật đến đó để làm gì? Quý vị muốn độ người ta thì không thể đường đột đến bảo họ rằng: “Tôi đến độ quý vị nè! Quý vị có tin không?” không thể nói như thế. Phật cũng phải dùng phương tiện quyền xảo, đến đấy và nói với họ rằng: “Trời tối rồi! Tôi không thể đi tiếp được! Tôi có thể tá túc một đêm ở chỗ của quý vị không?”
Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, lúc đó đã một trăm sáu mươi tuổi, suy nghĩ: “Người này tại sao trông lại khác hẳn mọi người? Ồ! Chắc hẳn là có chút thân phận.” Ông muốn tìm hiểu lai lịch của người này, và vì lý do gì lại đến đây, nhưng tìm mãi không ra, nhìn thế nào cũng không nhìn ra. Thoạt trông, người này cũng giống như bao người bình thường khác, nhưng ông ta linh cảm biết đây là một người rất đặc biệt: “À! Thật kỳ lạ! Bất kỳ nhân duyên gì mình đều có thể quán sát, vừa nhìn liền biết, nhưng tại sao lại không thể biết được về người này?” Thế là ông lên tiếng: “Tôn giả muốn nghỉ lại đây à? Được!” Ông đã mời Phật nghỉ ở đâu? Ở trong hang rồng lửa! Ở đó có một con rồng lửa làm hộ pháp cho Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp; nhưng nó rất hung dữ, bất cứ ai đến chỗ của nó đều bị nó phun lửa thiêu chết.
Đến nửa đêm, rồng lửa bò ra, nhìn thấy Phật, nó liền phun lửa tà thiêu Ngài; Đức Phật bèn nhập định Hỏa quang tam-muội – Ngài ngồi yên trong đám lửa, dù cho rồng có phun lửa như thế nào cũng không thể thiêu được Phật. Sau đó, Phật thâu rồng lửa vào trong bát. Lúc đó, tôi tin rằng Phật không giống như Lục Tổ, đã nói với rồng: “Ngươi chỉ biết phun lửa mà không dám vào trong bát này của ta, đúng không?” Phật không cần phải nói như vậy, mà bằng một cách rất tự nhiên, Phật dùng pháp lực thâu rồng lửa vào trong bát của mình. Sau đó, Đức Phật nói pháp cho rồng lửa nghe. Rồng lửa liền quy y theo Phật! Tiếp đó, Phật thị hiện vô số thần thông biến hóa. Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp vừa nhìn thấy bèn nghĩ: “A! Mình không có đạo đức lớn như thế, nên quy y với Phật thôi!” Thế là ông quy y theo Ngài.
Sau khi quy y theo Phật, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp lại dẫn cả năm trăm đệ tử đến quy y và xuất gia với Ngài; chẳng bao lâu, tất cả đều chứng được Thánh quả. Hai người em trai thấy anh cả đã xuất gia làm sa-môn – họ vốn cũng là ngoại đạo thờ lửa, cả ba đều là đồng sự của nhau – bây giờ anh cả đã xuất gia, hai người em cũng muốn xuất gia theo. Thế là Già-da Ca-diếp và Na-đề Ca-diếp cũng dẫn theo năm trăm đệ tử đến xin xuất gia. Sau khi xuất gia không lâu, tất cả cũng đều chứng được Thánh quả.
Xá-lợi-phất. Về Tôn giả Xá-lợi-phất, tôi tin là mọi người đều rất quen thuộc, đều nhớ rất rõ vị Tôn giả này vì có một giai thoại gắn liền với Ngài khiến người ta không thể quên. Cậu của Tôn giả Xá-lợi-phất tên Ma-ha-câu-hy-la, thường cùng người chị biện luận với nhau; mỗi lần biện luận như thế, người chị luôn thua cuộc, và Ma-ha-câu-hy-la luôn là người thắng cuộc; nhưng sau khi người chị mang thai thì điều kỳ lạ đã xuất hiện.
Điều kỳ lạ gì? Bấy giờ, mỗi lần ông và người chị biện luận, thì ông luôn bị thua, trái lại người chị đều thắng cuộc. Do vậy, Ma-ha-câu-hy-la biết rằng: “Ồ! Trước kia chị mình không thông minh như vậy, bây giờ lại thông minh khác thường; thai nhi trong bụng chị chắc chắn là đứa bé có trí tuệ, đã giúp mẹ nó biện luận.” Ông liền nghĩ: “Ồ! Bây giờ mình phải trau dồi kỹ năng, nếu không thì về sau, khi đứa cháu này ra đời, mình thân làm cậu, là bậc tiền bối, mà lại biện luận thua cháu thì thật là xấu hổ, thật là mất mặt!” Thế là ông ta đến miền Nam Ấn Độ học pháp. Quý vị nói thử xem ông học như thế nào? Ông đọc sách, học pháp cả ngày lẫn đêm, học đến nỗi tóc không cắt, râu không cạo, móng tay mọc dài đến cả tấc cũng không cắt.
Vì sao không cắt? Không phải là ông cố ý không cắt! Ở đây, tôi không nói đến hiện tượng phổ biến của những thanh niên thời bây giờ, cũng để tóc dài, để râu dài, không gọn gàng tươm tất, cũng không học hành đàng hoàng nữa. Sở dĩ khác với những thanh niên này, là vì ông không có thì giờ để tự chăm sóc, ngay cả cắt móng tay còn không có thời giờ; ông bận việc gì? Bận đọc sách – đọc sách cả ngày lẫn đêm. Quý vị xem, đây mới thật sự là dụng công học tập! Vì học mà gác lại tất cả công việc khác, không có thời giờ cắt móng tay, không có thì giờ cạo râu, cắt tóc…; do vậy mà mọi người đều gọi ông là “Trường Trảo phạm chí” (Phạm chí móng tay dài).
Cứ thế, tất cả các học vấn biện luận của miền Nam Ấn Độ, cả y học, bói toán, chiêm tinh ông đều thuần thục. Trở về nhà, ông liền đến gặp chị của mình và hỏi: “Cháu của em đi đâu rồi?” Người chị cho biết: “Cháu của cậu đã theo Phật xuất gia rồi!” Vừa nghe nói cháu mình xuất gia theo Phật, ông liền khởi tâm kiêu ngạo, nghĩ: “Ôi! Cháu của mình mới tám tuổi đã có thể đăng tòa thuyết pháp, tiếng tăm vang dội khắp Ngũ Thiên, cả vùng Ngũ Hà đều chấn động, mấy trăm luận sư đều bại trận dưới tay nó! Một đứa trẻ thông minh như thế, làm sao có thể đi xuất gia với một sa-môn chứ? Thật là đáng tiếc!” Với tâm kiêu ngạo như thế, ông muốn đến gặp Phật. Ông nghĩ: “Mình đi xem thử vị sa-môn này có bản lĩnh gì mà có thể gạt được đứa cháu thông minh của mình làm đệ tử?”
Đến nơi, gặp được Phật, ông liền nghĩ ra mọi cách để công kích Phật, nhưng lại không nghĩ ra được cách nào cả; đã đọc sách suốt mười mấy năm trời ròng rã, móng tay cũng không buồn cắt, dự định trở về sẽ cùng cháu biện luận, đâu ngờ trở về lại không có đất dụng võ, đứa cháu đã xuất gia theo Phật. Bây giờ gặp được Phật, cũng không biết nên đem loại sách đã học nào ra biện luận để thắng được Phật; nghĩ tới nghĩ lui, rốt cuộc ông nghĩ ra được một cách là lập ra một tông chỉ với Phật.
Phật hỏi ông: “Ông lấy cái gì làm tông?” Ông trả lời: “Tôi lấy ‘bất thọ’ (không tiếp nhận) làm tông.” “Bất thọ” nghĩa là cho dù Ngài có giảng cái gì, tôi cũng không tiếp nhận; Ngài nói cái gì, tôi cũng không quan tâm; tôi sẽ không tiếp nhận đạo lý của Ngài nói, để xem Ngài có biện pháp gì, Ngài nói đi!
Phật bảo: “Được! Ông lấy ‘bất thọ’ làm tông, thế thì ông có tiếp nhận được kiến giải ‘lấy bất thọ làm tông’ của ông không?”
Phật mới hỏi một câu đã làm cho ông cứng họng, không trả lời được. Nếu như nói “chấp nhận kiến giải của mình” thì đây là “thọ”; nếu như nói “không chấp nhận kiến giải của mình” thì căn bản sẽ không có tông! Ông đã nói “lấy bất thọ làm tông”, đây chính là “kiến”, chính là tri kiến của ông. Nếu như bảo “bất thọ” (không thừa nhận) thì càng mâu thuẫn với chính mình, chứng tỏ điều mình nói không có đạo lý, giống như trồng một cái cây nhưng không có gốc! Nếu như nói “thọ” (thừa nhận) kiến giải của mình thì trên căn bản, tông chỉ này không thể đứng vững được.
Trước khi biện luận, ông đã đánh cuộc với Phật rằng: “Nếu như biện luận thua, tôi sẽ cắt đầu mình đưa cho Ngài; nếu như Ngài thua, Ngài phải trả đứa cháu lại cho tôi.” Vậy mà lần này bị thua xiểng niểng, ông nghĩ: “Đầu mà bị cắt thì coi như xong đời, làm sao có thể như vậy được?” thế là ông liền bỏ chạy.
Chạy được khoảng năm-sáu dặm, ông nghĩ: “Ai da! Mình là một nam tử hán, đại trượng phu, làm sao có thể nói mà không giữ lời được chứ? Mình đã nói nếu như biện luận thua thì sẽ tự cắt đầu; bây giờ lại bỏ chạy, làm sao có thể như thế được? Ai da! Phải trở lại cắt đầu mình như đã giao ước mới đúng!” và ông liền chạy trở lại, hỏi mượn con dao của Phật: “Xin Ngài cho tôi mượn con dao!” (giới đao của các nhà sư dùng thời xưa). Phật hỏi: “Ông cần dao để làm gì?” Ông đáp: “Tôi đã đưa ra điều kiện cho cuộc biện luận này, bây giờ tôi đã thua, tôi phải cắt đầu của mình đưa cho Ngài thôi!”
Phật bảo: “Trong giáo pháp của Phật không có loại phương thức này! Ông thua, xem như xong, hà tất phải cắt đầu?” Thế là Phật thuyết pháp cho ông; vừa nghe, ngay đó ông liền đắc Pháp nhãn tịnh, mở được con mắt pháp. Mắt pháp vừa mở, ông biết được Phật pháp thâm diệu vô cùng: “Thì ra pháp ngoại đạo mà mình đã học nhiều năm như thế đều không bằng một phần vạn của Phật pháp!” Thế là, chẳng những không bắt cháu mình về, mà chính ông cũng xuất gia theo Phật. Cậu của Xá-lợi-phất có một nhân duyên đặc biệt như thế, nên tôi tin rằng ai ai cũng đều biết đến Tôn giả Xá-lợi-phất.
Xá-lợi-phất là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Thu tử”; lại còn gọi là “Châu tử” hay “Thân tử”. Tại sao gọi là “Thu tử”? Vì cặp mắt của mẹ Tôn giả giống như mắt chim Thu Lộ, rất xinh đẹp, cho nên mọi người gọi bà là “Thu”. Chữ “Phất” trong Xá-lợi-phất chính là chữ “tử” (con); do đó “Xá-lợi-phất” có nghĩa là “Thu Lộ chi tử” (con của Thu Lộ). Tại sao gọi là “Châu tử”? “Châu” là tên của mẹ Tôn giả, vì cặp mắt của mẹ Tôn giả giống như hạt châu, cho nên bà còn được gọi là “Châu tử”. Tại sao gọi là “Thân tử”? Chính vì Tôn giả là một đứa con được sinh ra từ phần trên của thân mẹ.
Trí huệ của Tôn giả Xá-lợi-phất đứng vào bậc nhất, thần thông của Ngài cũng vô cùng quảng đại. nói như thế chẳng phải là Ngài đứng thứ nhất về trí huệ, còn thần thông chỉ đứng thứ nhì, không phải thế. Vậy thì thế nào? Có một lần Ma-ha Mục-kiền-liên cùng Tôn giả đọ thần thông; đọ như thế nào?
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đi đến nơi nào thuyết Pháp, tất cả các đệ tử đều phải đi theo để được nghe pháp. Vì sao vậy? Vì nếu không theo để nghe, thì sau này sẽ không thể nào được nghe lại pháp mà Phật đã giảng qua; bởi vào thời đó không có máy thâu âm giống như bây giờ, có thể thâu lại lời thuyết pháp của Phật, để nếu lần này mình không dự nghe thì lưu lại để sau này nghe. Thời đó vẫn chưa có phương thức này, cho nên các đệ tử của Phật đều phải đi theo để nghe pháp; chỉ có một lần nọ, Xá-lợi-phất đang nhập định nên không đi theo. Ma-ha Mục-kiền-liên bảo: “Thôi được! Nếu Tôn giả không xuất định, tôi sẽ dùng thần thông làm cho Tôn giả xuất định!” Tôn giả Mục-kiền-liên thi triển tất cả thần thông của mình, muốn nhấc Tôn giả Xá-lợi-phất lên, nhưng chẳng những nhấc không nổi Xá-lợi-phất mà ngay cả chéo áo của Tôn giả cũng không mảy may lay động. Quý vị nói xem, thần thông của Tôn giả Xá-lợi-phất quảng đại đến thế nào! Tôn giả Mục-kiền-liên vốn là thần thông đệ nhất, nhưng đến khi hai người “đấu pháp” với nhau thì Mục-kiền-liên không thể vượt qua Xá-lợi-phất, điều đó đủ thấy thần thông của Tôn giả Xá-lợi-phất thật là quảng đại!
Đại Mục-kiền-liên. Mục-kiền-liên là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Lai Phục Căn,” còn dịch là “Thái Thúc Thị”. Tên của Tôn giả là “Câu-luật-đà”, vốn là tên của một loại cây. Sự chào đời của Tôn giả cũng có một nhân duyên như Tôn giả Đại Ca-diếp vậy – Tôn giả Đại Ca-diếp là do cha mẹ cầu khẩn thọ thần mà sinh ra; Tôn giả Mục-kiền-liên cũng vậy, cũng do cha mẹ cầu tự với thọ thần cội Câu-luật-đà mà sinh ra, cho nên lấy tên của cây này đặt tên cho Ngài.
Mẹ của Tôn giả Mục-kiền-liên tuy cầu Thần linh, nhưng không tin Phật, không tin Pháp, không tin Tăng. Bà chẳng những không cung kính Tam bảo, trái lại còn hủy báng, phá hoại Tam bảo, nói nào là Tam bảo không tốt, nào là không đáng để tin theo…, cho nên sau khi chết, bà liền bị đọa vào địa ngục. Đợi đến sau khi Tôn giả Mục-liên chứng quả La-hán, đắc lục thông, Ngài liền quan sát khắp các cõi để tìm mẹ; vừa nhìn đã thấy bà bị đọa vào địa ngục. Vì Tôn giả đã khai mở được Phật nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, có được ngũ nhãn lục thông, nên nhìn thấy được mẹ mình đang chịu khổ nơi địa ngục, cơm cũng không có mà ăn; thế là Tôn giả liền mang một bát cơm đến cho mẹ.
Vào đến địa ngục, Tôn giả dâng bát cơm cho mẹ. Lúc còn sanh tiền, tâm tham của bà quá nặng nề, cho nên dù bị đọa làm ngạ quỷ, vẫn không dứt bỏ được tâm ấy. Một tay đỡ lấy bát, bà dùng vạt áo của tay kia che lại, rồi vội vàng chạy đến chỗ không có các ngạ quỷ, len lén ăn một mình. Vì sao bà phải che bát cơm lại? Vì bà sợ các ngạ quỷ khác đến giành giật, nào ngờ cơm vừa đưa đến miệng thì liền hóa thành lửa. Tại sao lại thế? Vì nghiệp chướng của bà quá nặng nề, nghiệp tội quá sâu dày, cho nên dù là thức ăn có ngon đến mấy, bà cũng không thể ăn được!
Tôn giả Mục-liên tuy là thần thông đệ nhất, nhưng bấy giờ không thể niệm chú, cũng không thể thi triển thần thông, không còn cách nào khác – đành đi tìm sư phụ thôi. Những bản lĩnh đồ đệ học được, đến nơi đó đều trở nên vô dụng! Thế là Tôn giả trở về tinh xá Kỳ-hoàn, tìm đến Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, thưa rằng: “ Mẹ của con bị đọa vào địa ngục. Con mang cơm đến, nhưng mẹ vừa bốc ăn thì cơm liền hóa thành lửa. Xin Phật hãy nói cho con biết nên làm thế nào? Đức Thế Tôn từ bi, xin hãy cứu mẹ của con!”
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền đưa ra một phương cách giúp Tôn giả cứu mẹ, đó là cách gì? Phật bảo: “Vì mẹ của ông hủy báng Tam bảo, tội nghiệp quá nặng; bây giờ sức của một mình ông không thể nào giải cứu được. Muốn cứu được mẹ ông thì vào ngày rằm tháng bảy, là ngày chư Phật hoan hỷ, cũng là lúc chư Tăng tự tứ, ông hãy thiết lễ Vu-lan-bồn, đây là lễ cúng “giải đảo huyền” (giải cứu cái khổ bị treo ngược). Trước tiên, ông hãy cúng dường mười phương Tăng; khi mười phương Tăng chưa thọ dụng những thức ăn này thì ông cũng chưa được dùng. Ông phải cúng Phật, Pháp và Tăng trước, sau đó mới có thể thọ dụng những phẩm vật dâng cúng. Vào ngày này, ông thiết trai cúng dường Tam bảo thì mẹ của ông sẽ lìa khổ được vui!”
Thế là Tôn giả Mục-kiền-liên y theo cách này, thiết bày pháp hội Vu-lan, lễ cúng Vu-lan-bồn. Cho nên mỗi năm đến ngày này, các chùa đều tổ chức pháp hội Vu-lan-bồn, siêu độ cho cha mẹ trong bảy đời quá khứ và cha mẹ hiện đời. Có người hỏi rằng: “Cha mẹ của tôi hiện còn tại thế, vậy tôi nên làm gì?” Cha mẹ hiện đời vẫn còn sống, thì hãy siêu độ cho cha mẹ trong bảy đời đã qua; siêu độ cho cha mẹ trong quá khứ thì cha mẹ hiện đời cũng sẽ được tăng thêm phước báu, kéo dài tuổi thọ.
Thần thông của Tôn giả Mục-kiền-liên là đệ nhất, vô cùng quảng đại. Có lần, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lên cung trời Đao-lợi thuyết pháp, lúc ngang qua núi Tu-di, Ngài gặp một con rồng độc. Con rồng độc này ganh tỵ với Phật, nói rằng: “Ngài muốn lên trời thuyết pháp à? Tôi không cho Ngài đi!” Rồng bèn phun cát độc, muốn hạ độc giết chết Đức Phật, nhưng Tôn giả Mục-kiền-liên đã vận thần thông, biến cát độc thành những tơ bông mềm mịn, không còn độc hại nữa.
Nhìn qua, rồng độc biết ngay: “Thì ra vị sa-môn này có thần thông, đã hóa giải hết cát độc của ta!” Thế là rồng độc liền biến thân trở nên to lớn, quấn quanh núi Tu-di ba vòng; quý vị thấy có lợi hại không! Rốt cuộc núi Tu-di lớn đến đâu? Lớn không thể diễn tả được – bốn bộ châu lớn của chúng ta đều nằm ở bốn bên của núi Tu-di. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mục-liên cũng biến ra thân hình to lớn, lớn hơn cả thân của rồng độc – thân của rồng độc quấn núi Tu-di được ba vòng, nhưng thân do Tôn giả Mục-liên biến ra quấn quanh núi đến chín vòng. Thấy thế, rồng độc phải thốt lên: “A! Tôn giả lợi hại hơn cả tôi sao!” nhưng vẫn chưa nhận thua.
Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên lại biến thành một con trùng nhỏ, chui vào trong bụng của rồng độc gặm nhấm ruột, khiến nó vô cùng đau đớn. Biết không có được thần thông quảng đại như vậy nên rồng độc liền quy y Phật! Bởi vậy nên nói thần thông của Tôn giả Mục-liên vô cùng quảng đại.
Tôn giả Mục-liên là vị nào? Chính là “Bồ-tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương” mà bây giờ chúng ta thường gọi. Bồ-tát Địa Tạng Vương chẳng những không nỡ nhìn cảnh mẹ mình chịu khổ, mà cũng không nỡ nhìn thấy mẹ của tất cả chúng sanh chịu khổ, cho nên Ngài phát nguyện làm Địa Tạng Vương, vào địa ngục, trông coi mọi việc ở địa ngục. Đây là nhân duyên của Tôn giả Mục-kiền-liên.
Ma-ha Ca-chiên-diên. Ma-ha có nghĩa là “đại” (lớn); Ca-chiên-diên dịch là “Văn Sức”. “Sức” là trang sức, ý nói văn chương của Tôn giả được trau chuốt rất đẹp, và cũng có nghĩa là trang nghiêm.
Vị Tôn giả này lại còn một tên gọi nữa, đó là “Phiến Thằng” (sợi dây cột quạt). Vì sao gọi tên như vậy? Vì sau khi Tôn giả ra đời chưa được bao lâu thì cha của Ngài qua đời. Người mẹ muốn tái giá nhưng vì có Tôn giả nên bà không thể làm theo ý mình được – đứa trẻ bấy giờ giống như sợi dây trói bà lại, cho nên mới gọi đứa trẻ này là “Phiến Thằng”.
Tôn giả còn có tên là “Hảo Kiên” (bả vai đẹp), ý nói hai bả vai của Tôn giả rất đẹp ; lại có một tên gọi nữa, là “Tư Thắng” – “tư” là tư tưởng, “thắng” là hơn hẳn – ý nói tư tưởng của Tôn giả rất thù thắng, vượt trội hơn tất cả; tư tưởng của mọi người đều không thù thắng bằng tư tưởng Ngài. Đó là những tên gọi của Tôn giả Ca-chiên-diên. Vị Tôn giả này thuyết pháp rất giỏi cho nên được gọi là bậc “Luận nghị đệ nhất”; bất luận quý vị muốn giảng về đạo lý gì, Tôn giả đều có rất nhiều lý lẽ để luận giải.
Có một lần, Tôn giả gặp một ngoại đạo theo chủ trương “đoạn kiến”; người này chuyên cho rằng tất cả sự việc đều là “đoạn” – không còn gì cả, tất cả đều hết. Ông ta bảo: “Phật giáo của Ngài cho rằng ‘con người chết rồi vẫn còn kiếp sau’; còn đạo của tôi thì nói rằng ‘con người chết rồi không có kiếp sau.’ Tôi có một minh chứng muốn nói cho Ngài nghe!” Minh chứng gì vậy? Ông ta nói: “Ngài nói con người chết rồi còn có kiếp sau, phải đi thọ khổ; nhưng theo tôi được biết thì những người chết rồi, không có ai trở về nói lại là mình phải chịu khổ thế nào! Tôi chưa hề thấy qua! Thế thì tại sao Ngài nói là có kiếp sau? Người chết thì giống như đèn hết dầu, không hề có kiếp sau!”
Tôn giả đáp: “Ồ! Ông nói người chết không trở lại à? Giả như có người phạm tội, bị người ta bắt đi để luận tội, còng lại và đưa vào nhà tù, thì người ấy có thể trở về nhà được chăng?”
Nghe thế, vị ngoại đạo liền hỏi Tôn giả Ca-chiên-diên: “Ngài nói người chết, giống như kẻ phạm tội bị trói lại đưa vào nhà tù, không được tự do, không thể trở về; thế nhưng nếu như nói được sanh lên trời, thì tôi cũng chưa thấy người nào được sanh lên trời mà trở lại bảo với mọi người: ‘Tôi được sanh lên trời rồi!’ Trường hợp này phải nói như thế nào đây? Đọa địa ngục nên không được tự do, không thể trở về; nhưng sanh lên trời thì được tự do, đáng lẽ những người ấy phải trở lại nói sơ về tình trạng của mình chứ! Tại sao những người được sanh lên trời cũng không thấy có ai trở lại cả?”
Tôn giả Ca-chiên-diên đáp rằng: “Ồ! Ông nói rất có lý! Nhưng ông phải biết, người được sanh lên trời giống như người vừa ngoi ra khỏi nhà xí, đã tẩy rửa sạch sẽ; vậy thử hỏi người ấy còn muốn chạy vào nhà xí, để phân vấy lên người nữa không?” Chao ôi! Vị ngoại đạo này không còn lời gì để nói!
Tôn giả Ca-chiên-diên lại bảo: “Còn một điều nữa, một ngày một đêm trên cõi trời Đao-lợi dài bằng một trăm năm ở cõi nhân gian chúng ta; ông thử nghĩ xem: Sau khi được sanh lên cõi trời rồi, người ấy còn phải sắp đặt công việc của mình, thu xếp lại tất cả, có phải không? Đợi đến khi người ấy nghỉ ngơi xong, muốn quay trở lại, thì lúc ấy ông đã chết mất rồi! Một ngày một đêm ở chỗ của người ấy bằng một trăm năm ở nhân gian, thời gian dăm ba ngày của người ấy ở trên đó sẽ bằng mấy trăm năm ở cõi người chúng ta; lúc ấy ông đã chết từ lâu, xương cốt đều tan rã, ông còn có thể biết được người ấy trở về hay không?” Nghe xong, vị ngoại đạo cũng không còn lời nào để nói.
Cho nên, Tôn giả Ca-chiên-diên được tôn xưng là bậc “Luận nghị đệ nhất”. Mười đệ tử lớn của Phật, mỗi vị đều có một sở trường riêng, sở trường của Tôn giả Ca-chiên-diên chính là luận nghị, chuyên biện luận về đạo lý. Quý vị có thắc mắc về đạo lý gì muốn hỏi Tôn giả, với tài biện luận của mình, Tôn giả có thể nói thao thao bất tuyệt, khiến cho người nghe say sưa thích thú.
Vị Tôn giả “A-nậu-lâu-đà” này, không biết quý vị có nhận ra không? Hoặc do âm đọc hơi lệch đi một chút, nên sẽ có người cảm thấy xa lạ. Nếu tôi nói ra cái tên trước đây mà quý vị đã biết của Tôn giả, tôi tin rằng quý vị đều nhận ra, quý vị sẽ nói: “Ồ! Thì ra là vị ấy!” Vậy rốt cuộc Tôn giả là ai? Chính là vị “Tôn giả Vô Bần”. Tôn giả Vô Bần còn gọi là “A-na-luật”, bây giờ chúng ta gọi “A-nậu-lâu-đà”, so với âm “A-na-luật” chỉ khác một tí. Vì sao gọi Tôn giả là “Vô Bần”?
Vì trong vô lượng kiếp về trước, Tôn giả đã từng cúng dường một vị Bích-chi Phật; khi cúng dường, Tôn giả không hề biết đây là vị Bích-chi Phật, chỉ là thấy vị này đi hóa duyên, nhưng không xin được đồ ăn thức uống theo ý nguyện. Vị Bích-chi Phật này vốn phát nguyện bảy ngày xuống núi một lần, và chỉ đi hóa duyên bảy nhà; nếu bảy nhà này không có ai cúng dường thì Ngài cũng không đi hóa duyên tiếp. Vốn bảy ngày trước, Ngài đã không xin được đồ ăn thức uống; lần này xuống núi, đã đi xin qua bảy nhà, nhưng cũng không có ai cúng dường, thế là vị Bích-chi Phật lại ôm bát không quay trở về. Đã một tuần Ngài không có gì ăn, lần này cũng không xin được thức ăn, lại sẽ phải đói tiếp bảy ngày. Lúc ấy, A-nậu-lâu-đà biết được sự tình nên rất đau xót, rất cảm thông cho vị Tỳ-kheo xuất gia lớn tuổi này. Vì sao vị Bích-chi Phật này không hóa duyên được? Vì lúc ấy xảy ra nạn đói, không có cơm ăn, bản thân cuộc sống của mỗi gia đình còn gặp phải khó khăn, làm sao có thức ăn dư để cúng dường cho người xuất gia chứ? Do vậy mà vị Bích-chi Phật này không xin được gì.
Lúc đó, Tôn giả A-na-luật là một nông dân làm ruộng, cũng là người rất nghèo, dùng sức lao động để đổi lấy sự ổn định cho cuộc sống; nên cũng chỉ dám ăn loại gạo rẻ nhất, gọi là gạo Bại cốc – chính là một loại cỏ có kết hạt mọc trong ruộng lúa, loại gạo này rẻ nhất, chẳng đáng giá bao nhiêu. Hàng ngày làm lụng, Ngài chỉ ăn loại gạo này; sáng sớm ra đồng mang theo phần cơm trưa để ăn, đến tối mới trở về nhà. Nhưng trưa hôm nay, nhìn thấy vị Tỳ-kheo lớn tuổi không hóa duyên được, người nông phu liền khởi tâm cảm thông nên hỏi: “Người xuất gia tu đạo như Ngài, gặp phải năm đói kém, không có cơm ăn! Thật là đáng thương! Ngài có chê cơm bằng gạo Bại tử của tôi không? Nếu như không chê, tôi có thể cúng dường cho Ngài!”
Vị Bích-chi Phật liền bảo: “Thí chủ chịu bố thí cho tôi, thế là tốt quá rồi! Tôi sẽ tiếp nhận sự cúng dường của thí chủ! Nhưng thí chủ sẽ ăn cái gì?” Nông phu đáp: “Tôi có thể không ăn! Nhịn ăn một bữa cũng chẳng hề gì!” Thế là vị Bích-chi Phật thọ dụng phần cơm ấy; dùng xong, quý vị nói xem việc gì xảy ra? Vị Bích-chi Phật liền hiển bày thần thông, hiện ra mười tám tướng thần biến. Một vị La-hán có mười tám phép biến hóa, Bích-chi Phật cũng có mười tám phép như vậy; thân trên ra lửa, thân dưới ra nước, thân dưới ra nước, thân trên lại ra lửa, bay vọt lên không v.v… Nói chung, phép biến hóa này đều là những thứ mà người bình thường cho là rất kỳ lạ. Sau khi hiển bày mười tám kiểu biến hóa, vị Bích-chi Phật chú nguyện: “Tôi nhận sự cúng dường này của thí chủ, mong rằng đời đời kiếp kiếp sau này thí chủ sẽ không còn nghèo khó nữa!” Nói xong, vị Tỳ-kheo lớn tuổi liền bỏ đi.
Người nông phu lại tiếp tục công việc ruộng nương. nhưng bỗng có một con thỏ từ trong ruộng chạy ra; chú thỏ này rất kỳ lạ, cứ quấn lấy người nông phu y như mèo, chó nô đùa với người vậy, lúc thì nhảy nhót, lúc lại nhủi người, đùa nghịch với người này. Vị nông phu bảo: “Ta đang bận làm việc, không có thời gian rảnh, ngươi chớ có khuấy nhiễu ta!” Chú thỏ liền nhảy tót lên vai ông ta; ông ta loay hoay gỡ mãi, nhưng không cách nào gỡ được, vì giống như đã mọc rễ trên vai vậy.
Vừa làm nhưng vừa phập phồng lo sợ, người này nghĩ: “A! Chú thỏ này ở trên lưng của mình, không biết có chuyện gì không đây?” Đến khi trời tối, ông ta trở về nhà.
Tuy nghèo nhưng người nông phu vẫn có vợ; nên khi về đến nhà, ông liền bảo vợ bắt chú thỏ trên lưng xuống. Khi người vợ vừa đem thỏ xuống, mới nhận ra chỉ là xác thỏ chết; không chỉ là thỏ chết mà còn biến thành một chú thỏ bằng vàng! Ông chặt hai chân trước của thỏ vàng mang đi bán, được rất nhiều tiền, nhưng hai chân bị chặt của thỏ vàng lại mọc ra như cũ; hai chân sau của thỏ vàng bị chặt, mang ra chợ bán, cũng lại mọc ra như trước. Từ đó về sau, gia đình này trở nên phát đạt, không biết có đến cơ man nào là tiền; đó là vì họ có chú thỏ vàng này, mỗi khi cắt chân của nó, thì chân liền mọc lại, kỳ diệu như thế đấy! Không chỉ trở thành người giàu có trong kiếp đó, mà đến chín mươi mốt kiếp kế sau, người này đều được giàu sang. Khi cúng dường, người nông phu hoàn toàn không biết đấy là vị Bích-chi Phật; chẳng qua, sau khi cúng dường xong, vị Bích-chi Phật này hồi hướng công đức cho thí chủ, người này mới gặt hái được quả báo không nghèo khó như vậy.
A-nậu-lâu-đà là em chú bác với Phật. Tôn giả thích nhất cái gì? Thích ngủ nhất; mỗi khi Đức Phật thuyết giảng kinh pháp, Tôn giả đều ngủ say sưa; vừa chìm vào giấc ngủ liền ngáy như sấm, thở rất lớn tiếng. Bởi vậy, Phật đã trách Tôn giả thế này:
“Đốt đốt hồ vi tẩm,
loa sư cáp bạng loại;
Nhất thùy nhất thiên niên,
bất văn Phật danh tự.”
(Chao ôi! cớ sao ngủ,
Giống như ốc, trai, sò,
Một giấc cả ngàn năm,
Không nghe được tên Phật).
“Đốt đốt” là từ dùng để trách cứ, như nói: “Ậy! Ậy! Tại sao ông lại ngủ như thế? Ông thật giống như các loài ốc, trai, sò sống trong nước, ngủ một cái là ngủ cả một ngàn năm, nên không nghe được danh hiệu của Đức Phật.” Sau khi bị Phật chê trách như thế, Tôn giả liền cố gắng nỗ lực; từ đó về sau không bao giờ ngủ nữa! Tôn giả không ngủ như vậy là phát tâm thực sự muốn học hỏi Phật pháp. Suốt bảy ngày bảy đêm không ngủ, quý vị nói xem sự thể như thế nào? Hỏng! Đôi mắt của Tôn giả hoàn toàn bị mù.
Thấy người em họ này thật đáng thương, vì tinh tấn nghiên cứu Phật pháp đến nỗi đôi mắt phải bị mù, thế là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni dạy cho Tôn giả pháp ‘Tam-muội Nhạo Kiến Kim Cang Chiếu Minh”. Y theo lời Phật dạy mà tu tập, Tôn giả chứng được Thiên nhãn thông. Không chỉ đắc Thiên nhãn thông, mà còn đạt được “Bán đầu thiên nhãn”; phân nửa phần đầu của Tôn giả đều là thiên nhãn. Ngài quán sát ba ngàn đại thiên thế giới, giống như quán sát quả Am-ma-la trong bàn tay – giống như đặt một quả táo trong lòng bàn tay, nhìn thấy rất rõ ràng. Do vậy mà Tôn giả A-na-luật được tôn xưng là “Thiên nhãn đệ nhất”.
“Ma-ha Kiếp-tân-na”. Cha mẹ của Tôn giả Kiếp-tân-na đã đến bốn-năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con trai; ông bà liền đến một ngôi đền, hướng về hai mươi tám vì sao khẩn cầu. Ông bà đã hướng về vì sao nào? Hướng về vì sao “Phòng Nhật Thố” để cầu sinh con trai, quả nhiên có sự linh ứng, không bao lâu bà có mang và hạ sinh được một cậu con trai; do đấy đã đặt tên cho con là “Phòng Tú” (sao Phòng Nhật Thố); Kiếp-tân-na có nghĩa là “Phòng Tú”.
Tên của hai mươi tám vì sao là: “Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki là bảy vì sao Thương Long ở phương Đông; Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích là bảy vì sao Huyền Vũ ở phương Bắc; Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm là bảy vì sao Bạch Hổ ở phương Tây; Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn là bảy vì sao Chu Tước ở phương Nam.” Vì ông bà hướng về vì sao thứ tư “Phòng Nhật Thố” cầu khấn mà sinh ra Tôn giả, cho nên gọi Tôn giả là “Kiếp-tân-na”. Trong các đệ tử của Phật, Tôn giả có khả năng hiểu biết về các vì sao, đứng đầu về học thuật chiêm tinh (Tinh thuật học đệ nhất).
“Kiều-phạm-ba-đề”: Chính là Tôn giả Ngưu Tư, vị luôn thích học cách trâu nhai cỏ, còn gọi là “Ngưu Vương”. Tôn giả là người rất kỳ lạ, kỳ lạ như thế nào? Dùng cơm xong, miệng Tôn giả rất giống dáng vẻ trâu nhai cỏ – trâu ăn cỏ xong liền nằm dài ngủ ngay tại chỗ, nhưng khi ngủ, miệng nó luôn nhai lại cỏ đã ăn, tạo ra tiếng động. Vị Tôn giả này cũng có thói quen như thế, dùng thức ăn xong, miệng của Tôn giả luôn làm một động tác giống như trâu đang nhai cỏ. Vì Tôn giả có thói quen như thế, sợ người đời nhìn thấy sẽ hủy báng khiến họ bị đọa lạc, nên Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã bảo Tôn giả lên trời ở để nhận sự cúng dường của chư thiên.
Vì sao Tôn giả có thói quen này? Đó là quả báo nói lời ác của Tôn giả. Tôn giả nói lời ác như thế nào? Trong vô lượng kiếp quá khứ về trước, Tôn giả gặp một vị Bích-chi Phật; tuổi của vị Bích-chi Phật này đã cao, đến nỗi răng đều rụng hết, khi dùng thức ăn phải nhai chầm chậm. Tôn giả liền buông lời bất kính như thế này: “Ái chà! Hòa thượng già, ông ăn cơm giống như trâu ăn cỏ vậy!” Vị Bích-chi Phật liền bảo Tôn giả: “Ngươi hủy báng ta như thế, tương lai ắt phải chịu quả báo không tốt. Ngươi nên mau mau sám hối!” “Tôi sám hối à? Sám hối cái gì? Tôi bất luận như thế nào cũng sẽ không giống dáng vẻ này của ông!” Lúc còn là một chú Sa-di nhỏ, Tôn giả đã khinh mạn vị Hòa thượng trưởng lão như thế. Vì đã hủy báng vị Hòa thượng già ăn cơm giống trâu nhai cỏ, cho nên khi chuyển sanh trong suốt năm trăm kiếp, Tôn giả đã làm trâu, sau đó mới được chuyển sanh thân người. Tuy đã làm người, nhưng hình tướng vẫn không lìa bỏ được tập khí của trâu, do vậy sau khi dùng cơm xong, miệng Tôn giả vẫn luôn nhóp nhép giống như trâu nhai cỏ. Vì trong kiếp quá khứ, Tôn giả đã hủy báng vị Bích-chi Phật, cho nên hiện tại phải chịu quả báo như thế. Từ đấy cho thấy, mỗi một lời nói, một hành động của chúng ta, nhất cử nhất động đều không nên tùy tiện chê bai người khác, phá hoại người khác, cần phải luôn tự kiểm điểm bản thân mình.
“Ly-bà-đa”: là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Thất Túc”. Cha mẹ của vị Tôn giả này cũng hướng về sao “Thất Túc”, một trong hai mươi tám vì sao cầu khẩn mà sinh ra Tôn giả, cho nên đặt tên Ngài là “Thất Túc”. Ngài lại còn có tên là “Giả Hòa Hợp”. “Giả” chính là không phải thật.
Vì sao gọi là “Giả Hòa Hợp?” Vì vị Tôn giả này khi chưa xuất gia cũng là người rất nghèo khó, không có nhà để ở, phải ngủ nhờ trong một ngôi đình. Một đêm nọ bỗng xuất hiện hai con quỷ, một lớn một nhỏ; con quỷ lớn cao hơn hai trượng, còn con quỷ nhỏ chỉ cao hơn hai thước.
Nhìn thấy Tôn giả, hai con quỷ liền bảo rằng: “Bọn ta nhất định phải ăn thịt nhà ngươi! Ngươi muốn để cho ai ăn? Cho đứa lớn ăn? Hay cho đứa nhỏ ăn?” Con quỷ lớn mặt xanh, tóc đỏ, miệng lớn, nanh dài; miệng rất lớn, nanh dài giống như ngà voi chỉa ra ngoài miệng rất khó coi; vừa nhìn thấy bộ dạng đó, Tôn giả liền hoảng sợ. Con quỷ nhỏ lại càng xấu xí hơn, bảy tám bộ phận đều chụm lại một chỗ; tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng đều rất dài nên chụm lại với nhau.
Chúng còn khiêng đến một thây chết, và hỏi Ly-bà-đa: “Ngươi nói xem bọn ta ăn thây chết này là tốt, hay không ăn là tốt?” Nếu Ngài bảo: “Ăn thây chết là tốt!” thì hai con quỷ sẽ nói rằng: “A! Ngươi nói chúng ta ăn thây chết là tốt, nhưng chúng ta lại không muốn ăn thây chết mà chỉ muốn ăn thịt nhà ngươi thôi!”; nếu Tôn giả bảo: “Không ăn thây chết là tốt!” thì hai con quỷ một lớn, một nhỏ này sẽ không có gì để ăn, cũng vẫn muốn ăn thịt Ngài. Cho nên bất luận Tôn giả nói như thế nào thì cũng vẫn bị chúng ăn thịt! Do vậy, Tôn giả không trả lời câu hỏi, không nói là nên ăn, cũng không nói là không nên ăn. Thấy Tôn giả im lặng, con quỷ lớn liền ăn hai chân của xác chết; con quỷ nhỏ liền dùng sức giật hai chân của Tôn giả Ly-bà-đa đứt ra, rồi lắp vào hai chân của xác chết. Con quỷ lớn ăn tiếp hai cánh tay của xác chết, con quỷ nhỏ lại kéo đứt hai cánh tay của Tôn giả để lắp vào xác chết; cứ thế đến lúc con quỷ lớn ăn xong xác chết thì con quỷ nhỏ cũng xé hết thân thể của Tôn giả ra để đắp vào cho xác chết được nguyên vẹn.
Tôn giả nghĩ: “Bây giờ mình đã không có thân thể, vì đã bị con quỷ nhỏ xả ra, lắp vào thây chết, nên mình đã không còn thân thể nữa rồi!” Hôm sau Tôn giả đi khắp các nơi, gặp được một người, Tôn giả liền hỏi: “Này! Này! Anh nhìn xem tôi có thân hình hay không?” Người này cũng không biết Tôn giả đang hỏi điều gì? Rõ ràng là có thân mà còn hỏi người ta xem mình có thân hay không? Gặp ai, Tôn giả cũng đều hỏi như thế: “Này! Anh xem giúp, rốt cuộc là tôi có thân hay không vậy?” Tự mình không biết được, Tôn giả phải hỏi người khác, gặp ai cũng hỏi, đến nỗi những người cùng đi trên đường không ai dám đến gần; mọi người không biết được cảnh ngộ mà Tôn giả đã trải qua, nên đều cho rằng Tôn giả là người điên, vì vậy chẳng ai màng để ý đến.
Một hôm, gặp được một nhóm Tỳ-kheo, Tôn giả liền hỏi: “Xin hỏi, Các vị thấy tôi có thân hay không vậy?” Trong số đó, có vị đã chứng quả La-hán, vừa nhìn Tôn giả, bèn nghĩ: “Ô! Người này có thể độ cho xuất gia đây!”. Thế là vị này lên tiếng: “Thân này vốn là giả, không phải là của ngươi. Nếu ngươi tu hành chứng quả, thông tỏ được tự tánh sáng suốt, đó mới là cái chân thật! Thân này của ngươi có hay không thì có liên quan gì chứ?” Nghe thế, Tôn giả bèn nói: “Nói như vậy, tôi sẽ theo Ngài xuất gia nhé!” Tôn giả theo vị La-hán xuất gia và sau đó được khai ngộ! Vì đã từng bị quỷ ăn thịt, cho nên Tôn giả nhận ra được thân thể này là giả, do vậy được gọi là “Giả Hòa Hợp”, đây là tên của Tôn giả Ly-bà-đa.
“Tất-lăng-già-bà-sa”. Tên của vị Tôn giả này, Trung Hoa dịch là “Dư Tập”; vì tập khí trong nhiều đời nhiều kiếp của Tôn giả vẫn chưa được đoạn tận, cho nên gọi là “Dư Tập” (tập khí còn sót lại).
Vị Tôn giả này đã chứng được quả vị La-hán, có thần thông. Trong một lần, muốn qua sông, Tôn giả bèn bảo thần sông làm cho dòng nước dừng chảy. Vị thần sông này là một cô gái, Tôn giả nói: “Tiểu tỳ, hãy dừng dòng chảy lại!” (Tiểu tỳ, trụ lưu!) Tiểu tỳ có nghĩa là “người làm công, nô tỳ”. Vì Tôn giả là một vị đã chứng quả La-hán, nên thần sông không dám trái lời; nhưng trong lòng rất tức giận mà không dám nói ra, nên vô cùng ấm ức.
Không phải một lần, mà là rất nhiều lần như thế; cho nên vị thần sông này đã đến chỗ Phật bày tỏ sự bất bình. Thần sông thưa: “Bạch Thế Tôn! trong số đệ tử của Ngài có một người tên là Tất-lăng-già-bà-sa, người này không tôn trọng con chút nào! Đến bờ sông nơi con cai quản, khi muốn qua sông, vị này bèn bảo: “Tiểu tỳ, hãy dừng dòng chảy lại!” Nói năng như thế, thật chẳng lễ độ chút nào! Thật là bất lịch sự!” Đức Phật ôn tồn bảo: “Được rồi! Đợi vị ấy trở về, Như Lai sẽ bảo vị ấy xin lỗi và nhận khuyết điểm với cô.”
Vừa lúc Tôn giả trở về, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền bảo: “Lúc ông muốn qua sông Hằng, tại sao lại gọi Thần sông: “Tiểu tỳ, hãy dừng dòng chảy lại!” chứ? Không nên nói như vậy! Ông mau xin lỗi nữ thần, nói những lời nhã nhặn để nhận lỗi!” Tôn giả Tất-lăng-già-bà-sa liền chấp tay lại, cười hi hi nói với Thần sông: “A! Tiểu tỳ chớ trách! Tiểu tỳ đừng giận!” Vị thần sông này vốn không hài lòng vì chuyện Tôn giả gọi mình là “Tiểu tỳ”, Phật mới bảo Tôn giả đi xin lỗi; bây giờ Tôn giả lại gọi cô ta là “Tiểu tỳ”, còn nói “Tiểu tỳ đừng giận”. Không thể nhịn được, vị Thần sông liền thưa với Phật: “Thế Tôn, Ngài xem! Bây giờ đang ở trước mặt Ngài mà Tôn giả vẫn gọi con như thế!”
Phật bảo: “À! Cô không biết đấy thôi! Năm trăm năm trước, cô chính là người làm công cho Tôn giả Tất-lăng-già-bà-sa. Ông ấy quen gọi cô là “Tiểu tỳ” rồi! Cho nên bây giờ tuy cô đã là thần sông, nhưng Tôn giả vẫn chưa sửa được thói quen này; vì cô và Tôn giả có mối quan hệ chủ tớ, cho nên bây giờ ông ấy vẫn gọi cô là “Tiểu tỳ”.” Nghe Phật nói thế, vị thần sông cũng không có cách nào; đây là do thói quen nên Tôn giả buộc miệng gọi thế. Vì tập khí đã quen huân tập từ nhiều đời nhiều kiếp, cho nên Tôn giả được gọi là “Dư Tập”.
“Bạc-câu-la”. Bạc-câu-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Thiện Dung”, ý chỉ tướng mạo của vị Tôn giả này rất đẹp; Tôn giả được xưng tặng là “Nghi dung đệ nhất”, tướng mạo của Tôn giả trông rất đoan nghiêm. Tại sao tướng mạo của Ngài đẹp như vậy? Vì trong vô lượng kiếp thời quá khứ, Tôn giả Bạc-câu-la chuyên tu “giới Bất sát” – tránh sát sanh. Cách thức tránh sát sanh của Tôn giả không giống với cách nói không sát sanh của người bình thường chúng ta; ngay cả “ý niệm” sát sanh, Tôn giả cũng không sanh khởi, tâm hoàn toàn không động, không khởi tâm sát; đó là không những bên ngoài không sát, bên trong cũng ngăn giữ rất thanh tịnh, bất luận là chúng sanh nào, Tôn giả cũng đều không giết. Vì Tôn giả giữ giới không sát sanh này mà chiêu cảm được “ngũ bất tử báo”, gặt hái được năm loại quả báo bất tử.
Sao gọi là “ngũ bất tử báo”? Vì khi vừa mới sinh ra, Tôn giả liền biết nói chuyện, nói chuyện với một vẻ mặt rạng rỡ, biết gọi “Mẹ”, biết gọi “Ba” một cách thích thú. Thấy vậy, mẹ của Tôn giả nghĩ: “Há có lý này sao! Từ xưa đến giờ, mình chưa từng nghe nói đứa trẻ nào mới sinh ra mà biết nói chuyện như thế này, lại còn biết đùa giỡn như vậy. Nhất định đây là yêu quái rồi!” Quý vị nói xem chuyện sẽ như thế nào?
Mẹ Tôn giả có lẽ tâm cũng rất ác độc, không được từ bi cho lắm; nên bà liền bỏ Ngài vào trong nồi, bên dưới nhóm lửa nung Tôn giả, nhưng có nung Tôn giả cũng không chết. Tôn giả ngồi trong nồi đặt trên ngọn lửa đỏ mà như không có việc gì xảy ra, lại còn rất thích thú. Mẹ của Tôn giả tức giận nói: “Được! Mày không sợ lửa thì chắc chắn sợ nước.” Thế là bà lại bỏ Tôn giả vào trong một nồi nước lớn, hầm lên giống như hầm thịt, nước sôi cuồn cuộn cũng không làm bỏng chết Tôn giả. Thấy nấu nước sôi không làm Ngài chết, bà liền đem cả nồi lẫn người quẳng xuống sông nhấn chìm Tôn giả; nhưng nước cũng không dìm chết được Ngài. Quý vị bảo có kỳ lạ hay không? Thấy dìm nước không chết, bà lại quẳng Tôn giả xuống biển. Đứa trẻ liền bị cá nuốt vào trong bụng; tuy bị cá nuốt vào bụng, nhưng cũng không nghiền chết Tôn giả. Lại cũng rất may, con cá này bị một ông lão đánh cá bắt mang lên bờ; dùng dao mổ bụng nó ra nhưng lại không xẻo chết đứa bé. Đứa trẻ từ trong bụng cá bò ra.
Cho nên Tôn giả Bạc-câu-la có năm loại quả báo không chết đó là:
(1) Lửa thiêu không chết: dùng lửa nung cũng không chết.
(2) Nước sôi nấu không chết: dùng nước nóng nấu cũng không chết.
(3) Nước dìm không chết: bị quẳng xuống sông cũng không bị dìm chết.
(4) Cá nuốt không chết: bị cá lớn nuốt vào trong bụng cũng không bị nghiền chết.
(5) Dao mổ không chết: con cá này về sau bị người bắt được, dùng dao xẻ bụng ra, cũng không giết chết được Tôn giả.
Đây là “ngũ bất tử báo”. Vì sao Tôn giả Bạc-câu-la có thể đạt được năm quả báo không chết này? Đó là vì Tôn giả không sát sanh, giữ giới không sát sanh, cho nên có được sự cảm ứng này.
“Ma-ha Câu-hy-la”. “Câu-hy-la” là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Đại Tất”, ý nói đầu gối của Tôn giả rất to. Vị Tôn giả này chính là cậu của Tôn giả Xá-lợi-phất – là người đã đập tay đánh cuộc với Phật, nếu biện luận thua sẽ dâng đầu cho Phật. Tài biện luận của Tôn giả không gì chướng ngại được, Tôn giả rất biết nói năng; trong số đệ tử của Phật, Tôn giả là biện tài đệ nhất.
Ma-ha Câu-hy-la và Bạc-câu-la đều là những người thường xuyên có mặt trong các pháp hội của Phật; tại hội Pháp Hoa này, các Ngài làm “chúng ảnh hưởng”[1].
“Nan-đà”. Trong số đệ tử của Phật có ba vị tên “Nan-đà”, đó là Nan-đà, A-Nan-đà và Tôn-đà-la Nan-đà. Vị Tôn giả Nan-đà này, có người nói là “Phóng Ngưu Nan-đà” (Nan-đà thả trâu), lúc nhỏ Tôn giả rất thích thả trâu. Nan-đà, Trung Hoa dịch là “Thiện Hoan Hỷ”, Tôn giả là người rất hoan hỷ.
“Tôn-đà-la Nan-đà” – Tôn-đà-la là tên của người vợ Nan-đà, Trung Hoa dịch là “Hảo Ái” (rất thương yêu). Người mà cô thương yêu là ai? Đó chính là Nan-đà. Lại dịch là “Đoan Chánh”, ý nói dung nhan của cô vô cùng xinh đẹp; cô Tôn-đà-la này trông rất xinh đẹp, có thể nói cô là một người con gái đẹp nhất đất nước Ấn Độ, cho nên Tôn-đà-la Nan-đà mới bị cô mê hoặc. Người mà Tôn-đà-la Nan-đà yêu thương nhất chính là cô vợ này. Vì sao lại yêu thương nhất? Vì cô xinh đẹp tuyệt trần; cho nên đi đứng nằm ngồi gì Tôn giả cũng không rời nửa bước, như keo và sơn vậy – quyện thành một khối, như dán lại với nhau – nói theo cách thời nay là “ra vào có đôi”.
Nan-đà là em cùng cha khác mẹ với Đức Phật. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thấy nhân duyên của Tôn giả đã chín mùi, muốn độ cho người em này xuất gia; nhưng Tôn giả không nỡ rời xa vợ, cho nên không chịu xuất gia. Đức Phật bèn nghĩ ra một cách, chọn một ngày khi vợ chồng Tôn-đà-la Nan-đà đang dùng cơm, Ngài bèn vào hoàng cung hóa trai. Nhìn thấy anh đến hóa trai, vì muốn sớt thêm vào bát cho anh, nên Nan-đà đã dâng thức ăn lên cúng dường Phật.
Đức Phật trao bát và bảo: “Em đưa Như Lai đến Tinh xá Kỳ-hoàn nhé!” Nan-đà thưa: “Làm sao được? Tôn-đà-la đang ở nhà! Làm sao em có thể đi chứ?” Nhưng Đức Phật đã bảo, Tôn giả không dám trái lời của anh, bèn hỏi ý Tôn-đà-la: “Đức Phật bảo anh mang bát cơm này đến Tinh xá Kỳ-hoàn. Anh có thể đi chứ?” Tôn-đà-la bảo: “Có thể thì có thể, nhưng em sẽ nhổ một bãi nước bọt xuống đất, trước khi bãi nước bọt này khô thì anh phải trở về; nếu như đợi bãi nước bọt này khô rồi anh mới trở về thì không được vào cửa, em không cho phép anh bước vào cửa nữa!” Tôn-đà-la Nan-đà chấp thuận điều kiện của vợ, bảo rằng: “Được! Anh mang cơm đến Tinh xá Kỳ-hoàn, trở về cũng không mất bao nhiêu thời gian, ước chừng bãi nước bọt của em vẫn chưa khô.” Thế là Tôn giả yên tâm đi đến Tinh xá Kỳ-hoàn. Quý vị nói xem, sau khi đến Tinh xá Kỳ-hoàn thì sự việc trở nên như thế nào? Đức Phật không cho Tôn Giả trở về mà còn bảo xuất gia, cương quyết cạo tóc cho Tôn giả. Tuy đã xuất gia rồi, nhưng Tôn-đà-la Nan-đà suốt ngày cứ tìm cơ hội để trốn về. Vì sao Tôn giả cứ muốn chạy về? Vì không thể rời xa cô vợ Tôn-đà-la.
Có một hôm, tất cả các Tỳ-kheo đều ra ngoài hóa duyên, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bèn dặn dò Tôn giả Tôn-đà-la Nan-đà rằng: “Hôm nay ông phải trông coi Tinh xá, không được đi đâu hết! Nên quét tước Tinh xá, thu dọn sạch sẽ các nơi. Như Lai và các Tỳ-kheo đi hóa trai mang về cho ông dùng!” Tôn giả Tôn-đà-la Nan-đà vô cùng vui mừng, “Ya! Lần này các Tỳ-kheo đều đi hết cả, mình có cơ hội trốn về rồi! Đợi một lát nữa, mình nhất định sẽ trốn về!” Thế là đợi mọi người đi hết, Tôn giả liền quét dọn các nơi trong Tinh xá; định bụng sau khi quét giảng đường sạch sẽ, lau cửa sổ xong, sẽ trốn về.
Quý vị nói xem có kỳ lạ hay không? Tôn giả quét sạch sẽ chỗ này thì chỗ kia lại có bụi bặm; quét dọn chỗ kia sạch sẽ thì chỗ này lại có gió thổi đến một số lá cây, trở lại dơ như cũ! Tôn giả quét suốt cả một buổi sáng, quét tới quét lui, mệt đến mồ hôi nhễ nhại cũng không làm cho Tinh xá sạch được; thậm chí đi đóng cửa sổ, cánh cửa này vừa đóng xong thì cánh cửa kia lại mở toang ra; vừa đóng cánh cửa kia lại thì cánh cửa khác lại mở toạt ra, thật quá phiền phức. Cho nên suốt cả một buổi sáng cũng không trốn đi được vì chưa làm xong việc.
Thấy thời gian không còn sớm, Tôn giả định bụng phải trốn thôi; nếu như bây giờ mà không trốn thì sẽ không còn cơ hội nữa. Thế là từ Tinh xá Kỳ-hoàn, Tôn giả chạy về hướng hoàng cung. Vừa chạy, Tôn giả vừa nghĩ: “Phải tránh Đức Phật, nếu gặp phải Ngài thì sẽ không chạy trốn được”. Tôn giả lại nghĩ: “Phật luôn đi đường cái, không vào hẻm nhỏ; hôm nay mình sẽ đi đường nhỏ, từ đó mà trốn về hoàng cung!” Không ngờ Tôn giả đang men theo đường hẻm thì Phật cũng từ đường hẻm trở về; vừa nhìn thấy Phật đi tới, Tôn giả liền núp sau một cây to để Đức Phật khỏi nhìn thấy. Nhưng Tôn giả núp phía bên này, Phật liền đi lại phía này; Tôn giả núp phía bên kia, Phật cũng lại đi về phía kia. Cuối cùng, Tôn giả bị Đức Phật phát hiện. Đức Thế Tôn bèn hỏi: “Ông làm gì ở đây?” Tôn giả thưa: “Con đang đợi Thế Tôn! Thấy lâu quá mà Ngài vẫn chưa trở về nên con ra đây đón Thế Tôn trở về Tinh xá Kỳ-hoàn.” Đức Phật bảo: “Tốt! Thế thì tốt! Ông theo Như Lai trở về nhé!”
Tôn giả muốn trốn về, nhưng lần này không có cách nào trốn thoát, đành phải theo Phật trở về. Thọ trai xong, Đức Phật hỏi Tôn giả: “Ông có muốn đến tham quan các nơi không? Như Lai sẽ dẫn ông đi!” Nan-đà thầm nghĩ: “Mình còn lòng dạ nào để đi chơi? Suốt ngày chỉ muốn chạy về nhà thì làm gì có tâm tư để đi chơi kia chứ?” Có điều Phật đã nói, Tôn giả phận làm em, nên cũng không dám trái lời, thế là Tôn giả đành miễn cưỡng đi theo Phật. Đến một ngọn núi, nhìn thấy có rất nhiều Di hầu[2], Phật liền bảo: “Ông thử so sánh xem Tôn-đà-la xinh đẹp hay những chú khỉ này xinh đẹp?” Nan-đà trả lời: “Đương nhiên là Tôn-đà-la xinh đẹp! Những con khỉ này xấu kinh dị như thế, làm sao có thể đem so sánh với Tôn-đà-la chứ? Làm như thế chẳng phải là sỉ nhục Tôn-đà-la sao?” Phật bảo: “A! Ông thật là thông minh! Biết được cái nào đẹp, cái nào xấu. Tốt! Chúng ta trở về thôi!” Thế là Đức Phật dẫn Tôn giả trở về.
Tôn giả càng nhớ Tôn-đà-la đến nao lòng; mấy ngày sau lại muốn trốn về, nhưng cũng không có cơ hội. Đức Phật hỏi Tôn giả: “Như Lai thấy ông ngày nào cũng ưu sầu không vui như vậy, không biết ông đang nghĩ điều gì? Như Lai muốn dẫn ông lên trời dạo chơi một chốc, ông thấy thế nào?” Tôn giả nghĩ: “Trên trời? Trên trời là nơi như thế nào nhỉ? Được lắm!” Thế là Tôn giả lại cùng Đức Phật lên trời. Lên đến nơi, Tôn giả trông thấy cung trời thật là lộng lẫy, thật là xinh đẹp; lại thấy có rất nhiều tiên nữ bên trong một cung điện, Ồ! Những tiên nữ này đều xinh đẹp tuyệt trần.
Đức Phật lại hỏi Tôn giả: “Ông nói thử xem, các tiên nữ này xinh đẹp chứ? Hay Tôn-đà-la xinh đẹp?” Tôn giả thưa: “Đương nhiên là các tiên nữ này xinh đẹp! Tôn-đà-la so với các tiên nữ cũng giống như Di hầu so với Tôn-đà-la vậy. Tôn-đà-la làm sao có thể bì được với các tiên nữ chứ?” Đức Phật thốt lên: “Ồ!” Nhìn thấy những tiên nữ xinh đẹp như vậy, Tôn giả đi sau Phật nhưng len lén hỏi các nàng rằng: “ Ở đây ai là chủ nhân của các cô vậy?” Các tiên nữ trả lời: “Chủ nhân của chúng tôi là em trai của Đức Thế Tôn, tên Tôn-đà-la Nan-đà, hiện tại người này đang xuất gia tu hành theo Phật. Hết một kiếp này, tương lai người ấy sẽ sanh lên đây; các tiên nữ chúng em đều sẽ theo hầu người ấy.” Nghe thế, Tôn giả Tôn-đà-la Nan-đà rất vui mừng, A! Được nhiều mỹ nữ trên trời theo hầu như thế, lần này mình nhất định phải ra sức tu hành! Phải quên đi Tôn-đà-la, sẽ không nhớ đến cô ta nữa, chỉ nghĩ đến những tiên nữ này thôi; thế là sau chuyến trở về này, Tôn giả dụng công tu hành, cầu được sanh lên cõi trời.
Tôn giả ra sức tu hành, dành rất nhiều thời gian dụng công tu tập; Phật thấy suốt được tâm niệm của tôn giả, “Ồ! Bây giờ không nghĩ đến Tôn-đà-la nữa, lại vướng vào nỗi nhớ các tiên nữ. Được! Như Lai sẽ cho ông nhìn thấy một việc kinh sợ!” Vào một hôm, Đức Phật lại bảo Tôn giả: “Này Tôn-đà-la Nan-đà! Trên trời ông đã đi rồi, nhưng địa ngục thì chưa đi. Như Lai sẽ dẫn ông đi thăm địa ngục, chịu chứ?” Hằng ngày Đức Phật thường giảng địa ngục là nơi xấu ác, Tôn giả biết nơi đó chẳng có gì tốt cả, nên vừa nghe nói đến chuyện đi xem địa ngục, vội thưa: “Địa ngục thì có gì đáng xem thưa Thế Tôn?” Đức Phật khuyến khích: “Đi xem nào, tham quan một chút! Ông chưa từng thấy địa ngục mà!” Tôn giả đành theo Phật đến địa ngục.
Đến nơi, chỉ thấy đâu đâu cũng toàn là núi đao, rừng kiếm, chảo dầu, lửa hừng hực…, trong địa ngục có gì đều nhìn thấy hết. Tôn giả thấy ở một ngục nọ đặt một chảo to đựng đầy dầu, có hai con quỷ ở cạnh trông coi; lửa bên dưới chảo dầu dường như đang cháy, lại dường như sắp tắt. Hai con quỷ, một con ngồi bên cạnh chảo dầu mắt lim dim, gục gật, có vẻ như buồn ngủ lắm; còn con quỷ kia thì nằm dài ngủ ngon lành. “Hai con quỷ này thật là lười biếng! Có nhiệm vụ đun chảo dầu, nhưng không đun cho sôi, chỉ toàn muốn ngủ!” Tôn giả liền hỏi con quỷ đang ngủ gật rằng: “Này anh quỷ! Anh làm công việc này, có người giám sát anh không, hay không có ai giám sát cả? Vì sao các anh có thể tự do ngủ ở đây như thế ?” Con quỷ ngáp dài một cái: “A—”, dụi dụi mắt hỏi lại: “Ông nói cái gì?” “Tôi hỏi anh, anh làm việc ở đây, tại sao không chăm chỉ làm, mà toàn là ngủ không vậy? Anh đun chảo dầu, đáng ra nên đun cho sôi mới đúng chứ.” Con quỷ này đáp: “Ông biết cái gì! Thời gian người chịu tội bị quẳng vào chảo dầu này hãy còn xa lắm!” “Vì sao còn rất xa?” Quỷ đáp: “Vì Đức Phật có một người em trai tên Tôn-đà-la Nan-đà, hiện nay đã xuất gia theo Phật. Người ấy tu phước cầu sanh lên cõi trời, tương lai sẽ được sanh lên trời; đợi đến khi hưởng hết phước trời, năm tướng suy hao hiện ra, ông ta sẽ phải đọa xuống địa ngục, bị quẳng vào chảo dầu này. Bởi vì người ấy không thật tâm tu đạo, nên sẽ phải vào trong đây, bị dầu chiên đến chín! Nhưng thời gian từ đây đến đó còn cả mấy trăm năm, cho nên bây giờ chúng tôi cần gì phải gấp gáp đun sôi chảo dầu chứ? Bởi vậy mà công việc của chúng tôi rất nhàn nhã, hằng ngày đều có thể ngủ.”
Vừa nghe thế, Tôn giả Tôn-đà-la Nan-đà sợ đến nỗi toàn thân toát mồ hôi lạnh: “Ồ! Thì ra chảo dầu này chính là để dành cho mình! Phải làm sao đây?” Ngay sau đó Đức Phật dẫn Tôn giả quay trở về, thuyết cho Tôn giả nghe bài pháp sanh lên trời là “Khổ, không, vô thường, vô ngã”; Tôn giả tu theo pháp quán này, liền chứng được quả vị A-la-hán.
Tôn giả Tôn-đà-la Nan-đà này rất thương yêu vợ mình, nhưng khi nhìn thấy các tiên nữ xinh đẹp gấp bội thì không còn yêu vợ mình nữa. Biết được cái khổ trong địa ngục, Tôn giả liền phát tâm tu đạo; nếu như không biết được cái khổ chốn địa ngục thì Tôn giả sẽ không phát tâm. Vị Tôn giả Nan-đà này cũng gọi là “Hoan Hỷ”, giống như cách gọi của Tôn giả Nan-đà ở trước; có điều vị Nan-đà này là Nan-đà của Tôn-đà-la, lấy tên vợ để làm tên cho mình.
“Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử”. Phú-lâu-na, Trung Hoa dịch là “Mãn” (tràn đầy), là tên của cha Tôn giả; Di-đa-la-ni là tên mẹ của Tôn giả, Trung Hoa dịch là “Từ” (từ bi); tên của Tôn giả chính là con trai của “Mãn Từ” (Mãn Từ Tử). Ở trong số các đệ tử của Phật, Mãn Từ Tử giỏi về thuyết pháp, được tôn xưng là “Thuyết pháp đệ nhất”. Lúc hạ sinh Tôn giả, trời giống như đổ mưa, nhưng là mưa xuống rất nhiều châu báu vào trong nhà của Tôn giả, đây là một điềm rất tốt lành.
“Tu-bồ-đề”. Vì sao Tôn giả có tên là “Tu-bồ-đề”? Vì khi Tôn giả vừa chào đời, tất cả châu báu trong nhà đều biến mất, cho nên đặt tên cho ngài là “Không Sanh” (sanh ra không có gì cả). Cha Tôn giả tìm một ông thầy xem bói đến gieo quẻ, quẻ ứng hiện “đã vừa lành lại vừa tốt”, vô cùng tốt lành, cho nên Tôn giả còn được gọi là “Thiện Kiết”. Bảy ngày sau, châu báu trong nhà đều xuất hiện trở lại, cho nên Tôn giả còn có tên là “Thiện Hiện”. Trong số các đệ tử của Phật, Tôn giả là “Giải không đệ nhất”.
“A-nan”. Đây chính là Tôn giả A-nan, vị thị giả của Phật, người trùng tuyên lại tất cả lời Phật dạy trong cuộc kết tập kinh tạng lần đầu tiên. Tôn giả được gọi là “Khánh Hỷ”, vì ra đời đúng vào ngày Đức Phật thành đạo, cho nên cha của Tôn giả rất vui mừng, bèn đặt tên cho Tôn giả là “Khánh Hỷ”, ý nói cả nước đều chúc mừng sự kiện Đức Phật thành đạo. Trong số các đệ tử của Phật, Tôn giả là “Đa văn đệ nhất”.
“La-hầu-la”. Tôn giả là con trai của Đức Phật. Trong số quý vị, có ai biết Đức Phật có mấy người vợ không? Đức Phật có ba người vợ. Vợ cả tên là “Câu Y”, vợ thứ hai là “Da-du-đà-la”, vợ thứ ba là “Lộc Dã”. La-hầu-la là con của người vợ thứ hai. Da-du-đà-la vì sinh ra đứa con trai này mà chuốc lấy thị phi rất lớn, phiền phức rất nhiều. Vì sao vậy? Vì Đức Phật đã đi xuất gia lâu rồi, trong khi bụng của người vợ lại to lên, cho nên những người trong dòng họ Thích – thân quyến của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đều rất tức giận, bảo: “Người đàn bà này chắc chắn là không giữ tiết hạnh! Nếu không thì Đức Phật đã xuất gia được sáu năm, làm sao cô ta có thể sinh ra đứa trẻ được chứ?” Vì La-hầu-la ở trong bụng của mẹ suốt sáu năm; Đức Phật không có ở hoàng cung thì không lý gì nói xa cách đã sáu năm mà vẫn có con. Do vậy mà những người trong dòng họ Thích vô cùng tức giận, vừa muốn trị tội công chúa, lại vừa muốn giết chết nàng.
Lúc này tiếng xấu đồn xa, loan truyền khắp hang cùng ngõ hẻm, khiến mọi người đều biết được sự việc này. Tiếng đồn rằng Đức Phật không có ở hoàng cung suốt sáu năm mà người vợ lại sinh con. Ở trước mặt nhà vua, tuy các cung nữ đều cam đoan công chúa chưa hề làm việc gì sai trái, đứa trẻ này đích thực là con của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhưng không một ai tin, vì cho rằng trên thế gian này làm gì có chuyện như thế. Trong tình thế bất đắc dĩ, công chúa Da-du-đà-la đã phát nguyện rằng: “Nếu như tôi là người không giữ tiết hạnh, thì nay nhảy vào hầm lửa, tôi và con trai đều bị chết thiêu; còn như tôi không làm việc gì sai, thì xin các vị thần trên trời ủng hộ, khiến cho tôi nhảy vào trong lửa mà không bị thiêu chết!” Thế là công chúa liền chuẩn bị một hầm lửa thật lớn, bên trong chất rất nhiều củi, sau khi dùng lửa nhen cháy lên, công chúa Da-du-đà-la ôm La-hầu-la nhảy vào đó. Công chúa vừa nhảy vào hầm lửa, liền xảy ra một việc rất kỳ diệu! Hầm này vốn toàn là lửa, lại lập tức liền biến thành một hồ nước; bên trong mọc lên một đóa hoa sen, đỡ lấy hai mẹ con công chúa. Từ đó về sau, nhà vua mới biết được nàng dâu bị oan, tất cả nhân dân trong nước cũng đều biết được sự việc phi thường này, nên không còn ai chê bai công chúa nữa.
La-hầu-la tiếng Trung Hoa dịch là “Phú Chướng”; phú là che đậy; chướng là chướng ngại. Tại sao gọi là phú chướng? Vì trong kiếp quá khứ, khi còn là một đứa trẻ, Tôn giả đã dùng khúc cây lấp ngang miệng hang chuột suốt sáu ngày mới bỏ ra. Cho nên kiếp này, Tôn giả phải ở trong bụng mẹ suốt sáu năm, đó chính là quả báo phải nhận của sáu ngày kia. Mỗi người chúng ta phải nên suy nghĩ, nhân quả tuần hoàn thật là lợi hại! La-hầu-la là con trai của Phật, trong kiếp quá khứ đã lấp miệng hang chuột, nên phải ở trong bụng mẹ suốt sáu năm, phải nhận lấy quả báo sáu năm này, cho nên gọi là phú chướng. Phú chướng chính là đối với Da-du-đà-la mà nói; vì có La-hầu-la mà khiến cho Da-du-đà-la phải chịu phiền phức rất nhiều, trở ngại rất lớn, cho nên mới gọi là Phú Chướng. Chướng này chính là vì đứa con trai mà ra.
Rốt cuộc con trai của Đức Phật có mặt trên cuộc đời này như thế nào? La-hầu-la có phải là con trai của Đức Phật hay không? Đúng vậy! Thế nhưng những việc làm của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có giống như những cặp vợ chồng thông thường hay không? Không giống! Vì công chúa Da-du-đà-la thích có một đứa con trai, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bèn dùng ngón tay chỉ vào bụng một cái, thế là Da-du-đà-la liền thọ thai. Cách nói này giống như thần thoại, nhưng trong Phật giáo, thần thoại rất nhiều chứ không chỉ có một việc này. Cho nên đây là một cảnh giới không thể nghĩ bàn, quý vị muốn nhất định phải kiểm chứng, nhưng không có cách nào kiểm chứng được; chỉ có dụng công tu hành, đạt đến cảnh giới đó thì quý vị mới biết được rằng: Cảnh giới của chư Phật là vi diệu khó lường, là không thể nghĩ bàn.
Mỗi ngày chúng ta đến nghe kinh, điều này không phải dễ, ngồi ở đây nghe kinh, thật sự phải là người có căn lành lớn, mới có thể ngồi yên được; nếu không thì khi ngồi ở đây, quý vị sẽ cảm thấy toàn thân bứt rứt, chỉ muốn đứng dậy đi.
Những vị đại A-la-hán như thế là hàng tri thức trong chúng.
Như thị chúng sở tri thức đại A-la-hán đẳng.
“Như thế” là chỉ cho hai mươi mốt vị đại A-la-hán ở trên; là “hàng tri thức trong chúng”. Chúng là “đại chúng”; trong tâm hiểu rõ gọi là “tri”; mắt nhìn thấy rõ gọi là “thức”; tâm và mắt quý vị đều thấy biết rõ gọi là “tri thức”. Tri thức là đối với “ngu si” mà nói; ngu si chính là không thấy không biết; tri thức chính là người có trí tuệ. Nhưng đạo lý này phải đề cập đến cả hai mặt, nếu quả thật quý vị không thấy không biết thì đó mới là trí tuệ thật sự; thật sự không thấy không biết, quý vị mới có thể không suy nghĩ; có thể không suy nghĩ, thì trí tuệ vốn có của quý vị nhất định sẽ hiển bày, đó mới là tri thức thật sự, trí tuệ thật sự. Cho nên khi giảng đạo lý, phải làm nổi bật được mặt chính của đạo lý, đồng thời cũng phải tìm cho ra mặt trái của vấn đề.
“Đại A-la-hán”: Những vị này đều là những đại A-la-hán. Đại A-la-hán tức không phải là tiểu A-la-hán. Ở Hồng Kông có một vị “tiểu A-la-hán”. Vị này chỉ là một chú tiểu với dáng vẻ rất ngây thơ, suốt ngày luôn cười hi hi, không nhận bất cứ vật cúng dường nào, cho dù có nhận thì cũng tiện tay tặng lại cho người khác ngay, cho nên mọi người đều đặt cho vị này một cái tên, gọi là “Tiểu La-hán”. Nếu là một bậc đại A-la-hán thì sao? Thì sẽ thọ nhận sự cúng dường của trời người – vốn là một trong ba nghĩa của A-la-hán: ứng cúng, sát tặc, vô sanh. Lúc trước tôi chưa giảng qua những ý nghĩa này sao? La-hán giết giặc (sát tặc), không chỉ giết giặc, mà không phải giặc, La-hán cũng giết. Có lẽ quý vị sẽ nói: “Vị này thật là không biết phải quấy!” Là một vị đại A-la-hán chính là không kể gì đến đạo lý cả. La-hán có phép thần thông biến hóa, quý vị nói đạo lý với Ngài, Ngài chẳng màng đến; cho nên “không phải giặc”, La-hán cũng phải giết. Cái mà trong cảnh giới của A-la-hán cho là không phải giặc, thì trong cảnh giới của Bồ-tát lại cho là giặc; cho nên đối với La-hán, không phải giặc, vẫn phải giết, phải bỏ nhỏ mới có thể hướng đến lớn được.
G2. CHÚNG HỮU HỌC
Lại có bậc hữu học và vô học hai ngàn người.
Phục hữu học, vô học nhị thiên nhân.
Trong hội Pháp Hoa này, không chỉ có những vị đại A-la-hán, mà còn có hàng Nhị thừa “hữu học và vô học”. Hữu học chính là “còn có chỗ học” (hữu sở học), trước khi chưa chứng được quả A-la-hán thứ tư đều gọi là “giai vị hữu học”; khi đắc được quả A-la-hán thứ tư thì gọi là “giai vị vô học”, tức là “không còn chỗ học” (vô sở học). Chúng hữu học và vô học hợp lại có hai ngàn người; hai ngàn người này còn biểu thị cho “Thập như thị”. Thập như thị tức có mười loại như thị: “Tướng như thị, tánh như thị, thể như thị, lực như thị, tác như thị, nhân như thị, duyên như thị, quả như thị, báo như thị, bổn mạt cứu cánh như thị”. Mỗi một “như thị” này lại biến thành mười như thị, mười lại biến thành trăm, trăm lại biến thành ngàn, đó là biểu thị cho “hai ngàn người hữu học và vô học”.
F2. CHÚNG TỲ-KHEO-NI
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với sáu ngàn quyến thuộc câu hội. Mẹ của La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cũng cùng với quyến thuộc câu hội.
Ma-ha Ba-xà-ba-đề Tỳ-kheo-ni, dữ quyến thuộc lục thiên nhân câu. La-hầu-la mẫu Da-du-đà-la Tỳ-kheo-ni, diệc dữ quyến thuộc câu.
“Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề”. Ma-ha là “đại”; Ba-xà-ba-đề, Trung Hoa dịch là “ái đạo”; Ba-xà là “ái”, Ba Đề là “đạo”, hợp lại gọi là Đại Ái Đạo. Bà là dì của Phật. Đức Phật chào đời được bảy ngày thì mẹ của Ngài vãng sanh lên cõi trời, chính người dì này đã nuôi dưỡng Phật khôn lớn. Không những Bà là dì của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, mà còn là dì của một ngàn Đức Phật khi các Ngài xuất thế, chăm nuôi các Ngài khôn lớn. “Cùng với sáu ngàn quyến thuộc câu hội”: cùng với quyến thuộc của Bà – quyến thuộc chính là những thân thích, bạn bè, hơn sáu ngàn người.
“Mẹ của La-hầu-la”: thân mẫu của La-hầu-la. “Tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la”: Sau này công chúa Da-du-đà-la cũng xuất gia, làm đệ tử của Phật, trở thành Tỳ-kheo-ni. Tỳ-kheo có ba nghĩa là: “khất sĩ, bố ma, phá ác”, Tỳ-kheo-ni cũng có ba ý nghĩa ấy, chẳng qua vị này là người nữ. “Cũng cùng với quyến thuộc câu hội”: Tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cũng cùng với rất nhiều quyến thuộc của mình đến dự pháp hội.
E2. CHÚNG BỒ TÁT (chia làm 3 phần)
F1. Nêu Con Số Tiêu Biểu
F2. Nêu Quả Vị Để Khen Ngợi Đức
F3. Liệt Kê Tên Và Tóm Kết
F1. NÊU CON SỐ TIÊU BIỂU
Tám vạn vị đại Bồ-tát.
Bồ-tát Ma-ha-tát bát vạn nhân.
Lại có tám vạn Bồ-tát Ma-ha-tát. Bồ-tát là giác hữu tình; Ma-ha-tát là đại Bồ-tát. Bồ-tát là tên gọi tắt mà pháp sư Cưu-ma-la-thập chọn dùng, nói một cách đầy đủ là “Bồ-đề-tát-đỏa”. Bồ-đề là giác, tát-đỏa là hữu tình, chính là một vị Bồ-tát làm cho các loài hữu tình được giác ngộ. Bồ-tát cũng chính là một hữu tình đã giác ngộ, đem đạo lý và phương thức đã giác ngộ này đi giác ngộ lại các hữu tình khác, người như vậy được gọi là Bồ-tát. Bồ-tát còn có một tên gọi nữa là “Đại đạo tâm đích chúng sanh”, Bồ-tát cũng là một chúng sanh, có điều đây là một chúng sanh có tâm đạo lớn. Bồ-tát lại có một tên gọi khác là “Khai sĩ”.
Bồ-tát Ma-ha-tát tức là Đại Bồ-tát, có đầy đủ bảy thứ “đại”: đủ đại căn, có đại trí, tin đại pháp, hiểu đại lý, tu đại hạnh, trải đại kiếp, cầu đại quả.
Thứ nhất, “Đủ đại căn” (Cụ đại căn). Căn cơ của Bồ-tát phải vô cùng sâu dày. Sâu, cũng có nghĩa là lớn; lớn, cũng có nghĩa là sâu. Vì sao gọi căn này là pháp lớn? Nghĩa là Bồ-tát đã từng gieo trồng các cội công đức. Bồ-tát trải qua nhiều đời nhiều kiếp đã gieo trồng rất sâu các căc lành; căn lành này chính là cội đức, nghĩa là cội nguồn của đạo đức. Bồ-tát gieo trồng nhiều vô lượng vô biên căn bổn của đức hạnh, cho nên gọi là “thực chúng đức bổn”. Chúng là chúng đa, nghĩa là rất nhiều rất nhiều. Bồ-tát đã gieo trồng rất nhiều thiện pháp, như trong “Kinh Kim Cang” nói: “Bất ư nhất Phật, nhị Phật, tam tứ ngũ Phật, nhi chủng thiện căn; dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở, chủng chư thiện căn.” (Không chỉ gieo trồng căn lành ở nơi một, hai, ba, bốn, năm vị Phật; mà đã từng trồng các căn lành ở chỗ vô lượng ngàn vạn vị Phật). Bồ-tát trồng các cội đức, không phải chỉ gieo căn lành nơi một vị Phật, mà đã trồng các cội lành nơi vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức hằng hà sa số vị Phật, cho nên gọi là “đủ đại căn”.
Thứ hai, “Có đại trí” (Hữu đại trí). Có trí tuệ lớn. Vì sao gọi trí tuệ này là pháp lớn? Chính là vì Bồ-tát có thể phát tâm Bồ-đề lớn; vì có thể phát được tâm Bồ-đề lớn, cho nên tự mình phải có trí tuệ lớn. Phát tâm Bồ-đề lớn, Bồ-tát muốn rộng độ tất cả chúng sanh, độ khắp tất cả chúng sanh mà không trụ chấp vào tướng độ chúng sanh. Điều này trong “Kinh Kim Cang” có nói: “Nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô dư Niết-bàn nhi diệt độ chi; như thị diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả.” (Các loài hoặc sanh từ trứng, hoặc từ bào thai, hoặc từ nơi ẩm thấp, hoặc từ biến hóa; hoặc loài có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tư tưởng, hoặc không có tư tưởng, hoặc chẳng phải có tư tưởng, chẳng phải không có tư tưởng ta đều độ cho vào Vô dư Niết-bàn; vô lượng vô số vô biên chúng sanh được độ như thế, kỳ thật không có chúng sanh nào được diệt độ cả). Tuy độ tất cả chúng sanh, nhưng không có một chúng sanh nào được Phật độ cả, đều là do chúng sanh tự độ lấy; đây gọi là “Tuy có độ sanh mà không chấp vào tướng độ sanh”. Không giống như chúng ta, làm được một việc gì tốt, liền chấp vào đó như: “Tôi đã độ được biết bao nhiêu người xuất gia! Tôi đã độ được biết bao nhiêu người phát tâm tin Phật! Người này là do tôi độ, người kia là do tôi khuyên tin Phật, người nọ là do tôi giới thiệu đến!” Vì sao lại chấp vào tướng? Là vì do ngu si; nếu là người có trí tuệ lớn, thì sẽ không chấp vào tất cả tướng. “Bồ-tát ưng ly nhất thiết tướng, tức đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.” (Bồ-tát nên xa rời tất cả tướng, liền đắc được quả vị Vô thượng Bồ-đề). Nếu quý vị không lìa tướng, thì đó không phải là Bồ-tát. Cho nên Bồ-tát phải có đầy đủ trí tuệ lớn.
Thứ ba, “Tin đại pháp” (Tín đại pháp). Tin pháp lớn, pháp lớn là pháp Đại thừa; chính là quý vị nên tin vào pháp môn Đại thừa – quý vị nên tin sâu các pháp môn như Bát-nhã, Nhân quả, Thật tướng Đại thừa, phải nên có lòng tin lớn này. Phật pháp mênh mông giống như biển cả, chỉ có một chữ “tin” này mới có thể vào được trong biển Phật pháp. Nếu như quý vị không có lòng tin thì Phật pháp tuy rộng lớn cũng không thể độ được quý vị. Vì sao vậy? Vì quý vị không có lòng tin! Cho nên nói: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.”(Lòng tin là người mẹ đầu tiên sanh ra các công đức lành tu đạo, nuôi lớn tất cả các căn lành). Căn lành này của quý vị từ đâu có? Chính từ lòng tin mà có; từ lòng tin mới có thể sinh ra công đức. Lòng tin này là mẹ của các công đức trên con đường tu tập của quý vị; cho nên ở loại thứ ba này, chính là phải tin vào pháp Đại thừa. Bồ-tát Ma-ha-tát tin tất cả pháp Đại thừa, tin tất cả diệu pháp vô thượng, đặc biệt là đối với bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, Bồ-tát có lòng tin vô cùng sâu sắc. Cho nên chúng ta phải tin vào pháp Đại thừa. Đối với Phật pháp, nếu chúng ta thật sự có lòng tin sâu sắc thì chúng ta cũng chính là Ma-ha-tát, cũng chính là Bồ-đề-tát-đỏa.
Trong “Kinh Kim Cang” nói: “Nãi chí nhất niệm”, cho đến chỉ có một niệm “sanh tịnh tín giả”, khởi lên niềm tin trong sáng nhất; thì phước đức của người ấy nhiều hơn người đem bảy báu bố thí cho khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới. Các Đức Như Lai nhất định sẽ biết được tâm niệm này của quý vị, quý vị sẽ không uổng công vô ích; cho nên người học Phật pháp chúng ta, mỗi một người đều phải khởi phát được lòng tin chân chánh, mới có thể đạt được cảm ứng tương thông này.
Như trong pháp hội giảng Kinh này của chúng ta, có vài người bị cảm, cứ ho mãi. Ý của tôi vốn là muốn vị ấy nên nghỉ ngơi một chút; nhưng có người vẫn cố gắng nỗ lực mạnh mẽ, trong thời gian pháp hội giảng Kinh, không hề vắng mặt, dù bệnh vẫn đến đây nghe Kinh. Điều đó đủ thấy người này có một lòng tin chân chính. Chúng ta tin Phật pháp, cũng nên có một lòng tin chân chính như thế. Lúc trước, khi tôi còn trong quá trình cầu học Phật pháp, cũng có lúc bị bệnh; khi bệnh, tôi cũng không vắng mặt. Lúc đó, tôi có quan niệm thế nào quý vị biết không? “Mình học tập Phật pháp, trừ phi hơi thở này không còn nữa; nếu như hơi thở vẫn còn, mình nhất định phải học! Hoặc khi nào không thể cử động, lúc đó mình mới nghỉ ngơi.” Không ngờ hôm nay tôi gặp được nhiều tri âm như vậy, cũng có thể mang bệnh đi nghe pháp; có điều không nên gắng gượng, nếu như quý vị thật sự không cầm cự được thì có thể nghỉ ngơi.
Thứ tư, “Hiểu đại lý” (Giải đại lý). Sao gọi là “đại lý”? Muốn hiểu rõ được chân lý lớn, ắt phải dựa vào lòng tin này. Trong “Kinh Hoa Nghiêm” giảng về “Tín, giải, hành, chứng”: Đầu tiên phải tin; kế đến là phải hiểu rõ, đó chính là giải; hiểu rồi, quý vị phải áp dụng, phải thực hành; có thực hành, sau đó mới có thể chứng đắc; đây gọi là “Tín, giải, hành, chứng”.
Thế nào gọi là “hiểu đại lý”? Bây giờ tôi sẽ giảng cho quý vị nghe. Quý vị phải hiểu rõ câu “Nhất thiết chúng sanh bổn lai thị Phật” (tất cả chúng sanh vốn là Phật), đây là một chân lý lớn, cũng chính là “Lý tức Phật” trong “Lục tức Phật”. Căn cứ vào lý thì mỗi người chúng ta đều là Phật; nhưng quý vị phải dụng công tu hành mới có thể thành Phật. Nếu như quý vị không tu hành, mà luôn bảo: “Tôi là Phật! Phật, Phật, Phật!” Điều đó cũng vô ích. Giống như quý vị tự phong mình làm vua, “Ô! Ta là vua! Ta là vua đấy!” Nhưng có các quan văn, võ đại thần bảo vệ quý vị không? Có thần dân trăm họ ủng hộ quý vị không? Không hề có! Quý vị là một vị hoàng đế cô độc thì có lợi ích gì? Quý vị nói quý vị là Phật, không sai! Theo lý mà nói thì quý vị là Phật; nhưng trên thực tế, quý vị phải tu hành. Nếu quý vị không tu hành thì không thể trở về được nguồn cội, không thể nhận biết được mặt mũi xưa nay của quý vị. Vì sao phải hiểu rõ tất cả chúng sanh vốn là Phật? Vì “trí tuệ thật tướng” này không rời tâm của chúng sanh, trong tự tánh của mỗi người đều có đầy đủ.
Thứ năm, “Tu đại hạnh” (Tu đại hạnh). Phải chuyên cần tu Lục độ vạn hạnh, đó là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và bát nhã.
(1). Bố thí. Đầu tiên là phải bố thí, bố thí cho người, chứ không phải người bố thí lại cho mình. Có người luôn miệng giảng về “bố thí”, là để kêu gọi người khác bố thí cho mình, trong khi bản thân thì không bố thí cho người khác; đây chính là không chỉ không đủ tư cách làm Bồ-tát, mà ngay cả làm La-hán cũng không xứng đáng! Bố thí có ba loại là: Tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Tài thí, lại chia ra “nội tài” và “ngoại tài”. Ngoại tài là chỉ cho tất cả châu báu, đất nước và vợ con; những thứ này đều có thể bố thí cho người. Căn bản của việc hành Bồ-tát đạo là không thấy có “người”, không thấy có “ta”, cho nên cái của tôi cũng là của quý vị; cái của quý quý vị, tôi cũng không nhất thiết muốn có. Do không thấy có tướng nhân tướng ngã, nên Bồ-tát có thể xả bỏ đất nước, xả bỏ gia đình, thậm chí đến vợ con cũng không màng! Giống như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vốn sẽ làm hoàng đế, nhưng Ngài không làm, mà làm tu sĩ. Đức Phật vốn có ba người vợ rất xinh đẹp, Ngài đều bỏ hết; bỏ đi sự vinh hoa của một vị quốc vương, đến núi Tuyết tu đạo. Nội tài chính là cái mà bản thân quý vị có. Chẳng hạn như đầu, có người cần cái đầu này phải không? Chỉ cần quý vị muốn, Bồ-tát liền cho. Mắt, có người cần cặp mắt này chứ gì? Bồ-tát liền bố thí. Đầu, mắt, não, tủy, da, máu, thịt, gân, xương… bất kỳ bộ phận nào trên thân, Bồ-tát cũng đều có thể bố thí.
Pháp thí, chính là thuyết pháp làm lợi ích cho chúng sanh; thuyết giảng Phật pháp, giáo hóa hết thảy chúng sanh. Nên nói “ Chư cúng dường trung, pháp cúng dường tối”, trong tất cả các cách cúng dường, cúng dường pháp là cao thượng nhất. Cúng dường pháp là tuyên dương Phật pháp rộng rãi cho tất cả mọi người biết; cho nên người học Phật pháp đều phải học cách thuyết giảng Kinh pháp, không nên “hoài bảo mê bang”. Sao gọi là hoài bảo mê bang? Chính là tự mình mang theo rất nhiều châu báu, đến ở đất nước này mà không chịu cứu tế cho dân nghèo, khiến cho những người dân nghèo ở đây đều bị chết đói. Chúng ta là người biết Phật pháp, nhất định phải đem Phật pháp giới thiệu cho mọi người cùng nghe; tôi biết một chút, tôi sẽ giảng cho người khác nghe một chút; biết được mười phần sẽ giảng mười phần. Đem Phật pháp mà tôi biết được, giảng nói cho mọi người, đây gọi là pháp thí – bố thí pháp cho người.
Vô úy thí, mỗi người chúng ta đều sẽ có lúc gặp phải tai bay họa gởi, khiến cho quý vị vô cùng sợ hãi; chính lúc họ đang sợ hãi, quý vị đến an ủi họ: “Anh không nên sợ! Không nên căng thẳng, mọi việc đều có cảm ứng. Tâm của anh tốt như vậy, tương lai nhất định sẽ không có kết quả gì xấu đâu!” Làm cho người đó không còn tâm trạng sợ hãi, đây gọi là Vô úy thí (bố thí sự không sợ hãi).
(2). Trì giới. Mỗi người chúng ta đều biết có năm giới, tám giới, mười giới, mười giới nặng bốn mươi tám giới nhẹ, Tỳ-kheo hai trăm năm mươi giới, Tỳ-kheo-ni ba trăm bốn mươi tám giới; giới luật có nhiều loại phải giữ gìn, phải nghiêm trì như thế.
(3). Nhẫn nhục. Nhẫn nhục này là một phương pháp tốt nhất, nếu nhẫn nhục được thì quý vị sẽ có bảo bối. Nên nói “Nhẫn thị vô giá bảo, nhân nhân sử bất hảo”, “nhẫn” này là món châu báu vô giá; nhưng vật báu vô giá này, không ai biết dùng cả. Vì sao thế? Vì nhẫn một lần thì còn có thể, nhẫn lần hai thì tạm miễn cưỡng, nhưng nhẫn đến lần thứ ba thì liền nổi nóng: “Hừ! Tại sao anh ức hiếp tôi đến thế? Anh cho rằng tôi sợ anh sao? Chẳng qua là tôi nhịn anh thôi! Anh ăn hiếp tôi hết lần này đến lần khác, được nước lấn tới, đó chẳng phải là đuổi cùng giết tận hay sao? Anh thật quá đáng!” nổi nóng lên, liền tranh đấu lại. Đó là vì không áp dụng được chữ “nhẫn” này.
Hình như trước kia tôi đã giảng qua, có một vị tu tập lâu năm hành hạnh nhẫn nhục, trước cửa phòng vị ấy treo một tấm biển đề ba chữ “Tánh như khôi”; ý nói tánh nguội lạnh giống như tro tàn vậy, một chút nóng giận cũng không có. Suốt ngày vị này ở một chỗ dụng công tu hành, không hề biết nổi giận, tánh tình rất nhu hòa, linh hoạt giống như nước vậy. Bấy giờ, có một vị Bồ-tát muốn thử vị này, đã đến chỉ vào tấm biển và hỏi: “Mấy chữ này của ngài viết là chữ gì vậy?” Vị này đáp: “Tánh như khôi”. Vài phút sau, người này lại hỏi: “Mấy chữ này của ngài viết là chữ gì vậy?” Vị này lại đáp: “Tánh như khôi”. Chẳng được mấy chốc, người này lại hỏi tiếp: “Mấy chữ này của ngài là chữ gì vậy? Tôi không nhớ rõ!” Vị này vẫn điềm tĩnh đáp: “Tánh như khôi”. Vị Bồ-tát cứ thế mà hỏi đến mấy chục, mấy trăm lần, cuối cùng đã khiến cho vị này nổi nóng lên: “Tánh như khôi, tánh như khôi! Sao ngươi cứ lải nhải hoài không chịu dứt vậy! Ta ở đây tu đạo, ngươi đến làm phiền ta mãi thế!” Vị Bồ-tát bảo: “Ồ! Thì ra trong tro vẫn còn lửa!” Nói xong, Bồ-tát liền vọt bay lên không. Vị Bồ-tát này vốn là ai vậy? Đó là Bồ-tát Quán Thế Âm đến thử vị kia. Kết quả lần này cho thấy, tu hành “Tánh như khôi” mấy chục năm trời, Bồ-tát Quán Âm vừa đến thử thì đã không thể vượt qua. Bồ-tát Quán Thế Âm bảo: “Ông vẫn phải tiếp tục gia công tu tập. Đợi hai mươi năm sau, ta sẽ lại đến thử ông!” Quý vị xem, tu hạnh nhẫn nhục không phải dễ; nhẫn, phải không còn một chút tánh nóng nào.
Lúc trước, khi còn làm một người đệ tử, tôi không bao giờ dám nổi nóng; cho dù có hay không có mặt sư phụ, tôi đều không dám nổi giận. Vì sao vậy? Vì vị sư phụ của tôi, không hề có tánh xấu giống như tôi, sư phụ rất mực từ bi. Nếu như thấy tôi nổi nóng, sư phụ liền không dùng cơm; ngài bảo: “Ta dạy đệ tử chưa tốt! Chao ôi! Ta không đáng ăn cơm.” Vì sư phụ bỏ cơm, cho nên tôi không dám nổi nóng nữa.
Thế thì tôi có tánh nóng giận không? Tánh nóng giận của tôi lớn hơn bất kỳ người nào, người nóng tánh nhất cũng không bằng tôi; nhưng vì đã xuất gia tu hành, nên tôi đã sửa đổi tánh xấu này. Giờ đây đến nước Mỹ, mới thâu nhận ba đệ tử người Mỹ, những người Mỹ này, khi chưa xuất gia đều không có tánh nóng giận; vừa xuất gia xong, chưa học cách đùm bọc lẫn nhau thì lại học được cách nổi nóng, biết nổi nóng. Hôm qua, có hai người đến chỗ tôi nhờ phân xử; người này nói người kia nổi nóng, người kia nói người này nổi nóng. Rốt cuộc ai nổi nóng? Tôi cũng không quan tâm! Lần này tôi đưa ra một quy luật.
Quy luật như thế nào? Là tôi không quan tâm ai nổi nóng, ai phải, ai quấy; tóm lại người nào nổi nóng thì phải quỳ gối trước Phật một ngày một đêm, trong suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ không được phép đứng dậy, không được phép đi đại tiểu tiện, không được phép ăn cơm, không được phép uống nước, không được phép ngủ. Đây là quy luật tôi đưa ra, nếu như quý vị không chấp hành theo, không chịu quỳ gối trước Phật, tôi sẽ quỳ thế cho quý vị, tôi sẽ làm đúng như quy luật đã đưa ra. Quý vị thử xem! Nhưng không chỉ một người quỳ, vậy phải như thế nào? Bất luận một người nào nổi nóng – hiện tại tôi có ba đệ tử người Mỹ, thì cả ba phải cùng quỳ; cho dù hai người kia không nổi nóng, cũng phải quỳ theo. Có người hỏi: Một người nổi nóng, hai người phải quỳ theo? Điều này chẳng công bằng tí nào! Thì là không công bằng như thế đấy! Nếu nói công bằng, thì trên thế gian này không có việc gì công bằng cả. Nếu như quý vị sợ, thì mọi người đều không nên nổi nóng; Nếu giấu không cho tôi biết ai đã nổi nóng, thì cũng bị phạt như thế. Quý vị không cho tôi biết à? Tôi có thiên lý nhãn, có thuận phong nhĩ, sẽ có người bảo cho tôi biết. Lúc đó, quý vị phải chấp hành theo quy luật. Tất cả đều nghe rõ cả chứ? Đây cũng là một cách tu tập “hạnh nhẫn”.
Vì sao lại bắt quý vị quỳ? Không cho ăn, không cho uống, không cho ngủ, đó cũng là một cách “tu tập hạnh nhẫn”. Chẳng phải quý vị nổi nóng sao? Người có tánh nóng, nên tu tập việc “nhẫn” này. Đây cũng là một “hạnh nhẫn” – quỳ gối trước Phật, phải chịu đựng đầu gối đau. Bây giờ quý vị đều nghe rõ cả rồi chứ? Nghe rõ cả rồi thì sau đó sẽ lập ra luật lệ này. “Vị sư phụ này thật là lợi hại! Tôi không dám xuất gia với ông ta nữa.” Có vài người muốn xuất gia, rốt cuộc lại không dám xuất gia. Nếu như quý vị sợ thì đừng nổi nóng, sẽ chẳng có việc gì. Đây không phải là quy luật do tôi lập ra, mà đây là do người có lỗi tự chuốc lấy; quỳ hay không quỳ là ở chỗ người đó, chứ không phải do tôi.
Vì sao phải lập ra quy luật này? Nếu như tôi không lập ra thì sau này có nhiều đệ tử rồi, anh đánh tôi, tôi đánh anh, người này đến nhờ phân xử, người kia cũng đến chỗ sư phụ kiện cáo, phải nói ai đúng, ai sai đây, ngay cả quan tòa xử suốt ngày cũng không xong những việc rắc rối như thế. Người tu đạo, làm sao có thể nóng nóng được chứ? Không thể được. Nếu như có đệ tử, vì dạy dỗ mà quý vị nổi nóng với họ, việc đó vẫn còn có thể thông cảm; đằng này lại nổi nóng với các sư huynh đệ thì không thể được. Cho nên nói: “Nhẫn là vật báu vô giá, nhưng không ai biết cách sử dụng; nếu ai có thể sử dụng được nó, thì mọi việc đều trở nên tốt đẹp.” Nếu quý vị biết cách áp dụng chữ “nhẫn” này thì mọi việc đều sẽ tốt đẹp, bằng không thì bất luận làm việc gì cũng đều gây ra lầm lỗi.
(4). Tinh tấn. Tinh tấn có “thân tinh tấn” và “tâm tinh tấn”. Thân tinh tấn là chỉ cho sự dụng công tu hành như lễ Phật, tụng Kinh, trì Chú v.v… mỗi thời mỗi khắc đều không giải đãi, cũng không ngủ nhiều. Tâm tinh tấn chính là không vọng tưởng (niệm tư tại tư), “chuyên cần tu giới định tuệ, diệt trừ tham sân si”, dẹp sạch tâm tham, tâm sân, tâm si trong lòng; quý vị phải tinh tấn, sau mới có thể tu hành, tham thiền tĩnh tọa. Làm người tu không phải dễ, không thể ngày ngày nằm dài ngủ, phải đêm ngày tinh tấn, tinh tấn dụng công một cách thật sự; không phải chỉ toàn tu cho người khác, gọi người ta đến xem mình dụng công tu hành. Dù có người hay không có người nhìn thấy, cũng đều phải dụng công tu; dụng công tu hành là tu cho mình, chớ không phải tu cho người khác xem.
(5). Thiền định. Chính là phải dụng công tham thiền tĩnh tọa, tu tập thiền định. Để tham thiền tĩnh tọa, cần phải có sự tinh tấn hỗ trợ. Nếu quý vị không tinh tấn, hôm nay hoa sen, ngày mai lại hoa mẫu đơn, cứ thay đổi mãi. Cho nên nói “Nhất nhật bộc chi, thập nhật hàn chi” (một ngày phơi nóng, mười ngày để lạnh), giống như đồ vật, quý vị phơi nó một ngày, lại để đông lạnh mười ngày, như thế có ích gì? Tu hành cũng thế, quý vị tu một ngày, lại nghỉ mười ngày; “tu (修) và nghỉ (休)” đều có âm tiếng Hoa là “xiū”, nhưng một cái là “xiū” của “xiū xíng” (tu hành), một cái là “xiū” của “xiū xi” (nghỉ ngơi); tu hành như thế thì không thể đạt được công phu của thiền định.
(6). Bát-nhã. Bát-nhã độ cũng là cái vô cùng quan trọng. Chúng ta tu hành nhất định phải có trí tuệ; nếu không có trí tuệ sẽ không có cách nào để tu hành. Người ngu si tu hành, dù dụng công tiến tới như thế nào cũng không thể thành công; người có trí tuệ thì cho dù ở đâu, vào lúc nào cũng đều là dụng công, đều thấy được bát-nhã thực sự. Cho nên nói “Thúy trúc hoàng hoa, vô phi bát-nhã” (trúc biếc hoa vàng, không cái nào chẳng phải là bát-nhã); người ấy nhìn thấy cái gì cũng đều là trí tuệ. Giống như Quả Ninh thưa với tôi là: Quả Hiện nói Quả Ninh vừa mở miệng ra là mắng Quả Hiện. Mắng “ai”? Đây há chẳng phải là ngu si sao? Nếu là người có trí tuệ thì làm sao bị người ta mắng? Cho dù Quả Ninh có mắng Quả Hiện, nếu Quả Hiện là người có trí tuệ thì sẽ không tiếp nhận lời mắng ấy, lời mắng này sẽ trả về lại chủ nhân của nó.
Trong “Kinh Tứ Thập Nhị Chương” nói, có người mắng Phật, Phật vẫn thản nhiên và bảo người ấy: “Ông mắng Như Lai, Như Lai không tiếp nhận, thì lời mắng ấy sẽ trở về với ông! Giống như ông ngẩng mặt lên trời mà phun nước bọt, thì bãi nước bọt này sẽ lại rơi xuống mặt của ông!” Cho nên chớ bảo người ta đừng mắng quý vị, cho dù người ta có mắng, nếu quý vị không nhận, thì lời mắng ấy xem như không có. Khi người ta mắng quý vị, quý vị nên nghĩ rằng: “Ồ! Anh ta đang hát cho mình nghe.” Hoặc “Ồ! Mình không hiểu lời anh ta đang mắng. Anh ta đang nói tiếng Nhật chăng? Hoặc đang nói tiếng Hoa chăng? Lại càng không phải nói tiếng Pháp?” Vì lời anh ta nói, quý vị không hiểu, nên xem như không có chuyện gì; như vậy mới chính là có trí tuệ thật sự! Nếu quý vị hiểu được “anh ta mắng mình”, xét cho cùng “mình” là ai? Đã là Bồ-tát thì không còn “tướng mình, tướng người, tướng chúng sanh và tướng thọ giả”, thế tại sao vẫn còn một cái “tôi” chứ? Người xuất gia nên quăng bỏ cái “tôi” này xuống Thái Bình Dương, không cần đến nó nữa; phải không còn có cái “tôi”, thế mới được!
Đây là “Tu đại hạnh” thứ năm; đang giảng về phần tu “Lục độ”, ngoài ra lại có “Vạn hạnh”. Vạn hạnh là ý nói Bồ-tát thực hành nhiều pháp môn. Nếu nói tường tận hơn thì không dừng lại ở “Vạn hạnh”, pháp môn thực hành có đến tám vạn bốn ngàn loại; nhưng do thời gian có hạn, nên tôi không thể phân tích từng cái một.
Bây giờ chúng ta giảng đến “ba tâm”. Bồ-tát phải “quét sạch ba tâm, không còn bốn tướng” (tảo tam tâm, phi tứ tướng). Quét, giống như trên đất có bụi, dùng một cây chổi, quét sạch những bụi bặm đó. Chúng ta cũng nên quét sạch ba tâm này của mình. Sao gọi là ba tâm? Đó là tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai. Tâm quá khứ đã trôi qua; mà đã trôi qua thì sẽ không còn “quá khứ” nữa. Tâm hiện tại, quý vị nói bây giờ là hiện tại phải không? Nhưng hiện tại không dừng lại, cho nên cái “hiện tại” này cũng trôi qua và trở thành “quá khứ”. Cái quá khứ thì đã đi qua; cái hiện tại thì không dừng lại; quý vị bảo còn “tâm vị lai”, tâm vị lai thì vẫn chưa đến! Mà chưa đến thì quý vị đi đâu để tìm tâm vị lai này chứ? Cho nên nói: “Tâm quá khứ không thể đạt được, tâm hiện tại không thể đạt được và tâm vị lai cũng không thể đạt được” (quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm dã bất khả đắc). Nếu như ba tâm “quá khứ, hiện tại, vị lai” này quý vị đều không thể đạt được, thì còn có gì đáng để chấp vào chứ? Không có gì đáng để chấp vào cả, chính là đạt được giải thoát; quý vị đạt được giải thoát, đó mới là tự do thật sự.
Bồ-tát còn phải thực hành “Tứ nhiếp pháp”, Tứ nhiếp pháp gồm những gì? Đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.
(1). Bố thí. Bồ-tát phải luôn có tâm bố thí. Bố thí là cho cùng khắp tất cả chúng sanh; bố thí có “tài thí, pháp thí và vô úy thí”.
(2). Ái ngữ. Bồ-tát phải thực hành lời nói từ ái; nhưng phải là Bồ-tát thì mới có thể nói lời từ ái, còn không phải là Bồ-tát thì không thể. Bồ-tát nên nói lời từ ái, phải luôn có tấm lòng từ ái đối với tất cả chúng sanh. Vì sao Bồ-tát có tấm lòng từ ái? Vì Bồ-tát không còn tướng “ta”, nên xem tất cả chúng sanh và mình như nhau. Không chỉ xem chúng sanh giống như mình, mà mình cũng giống như tất cả chúng sanh; không chỉ giống mà còn trở thành một, không còn sự phân chia giữa ta và người; cho nên Bồ-tát sẵn lòng cứu độ tất cả chúng sanh, cũng là cứu độ chính mình. Ái ngữ chính là luôn có lời nói từ ái với tất cả chúng sanh.
(3). Lợi hành. Tất cả chúng sanh đều thích lợi ích, cho nên đối với chúng sanh, quý vị luôn phải đem lại một chút lợi ích cho họ; việc làm có lợi ích rất nhiều rất nhiều, những việc làm nào mang lại lợi ích cho chúng sanh, Bồ-tát đều nên làm.
(4). Đồng sự. Bồ-tát nên hóa ra ngàn vạn ức thân, nhìn thấy loại chúng sanh nào cần thì hiện ra thân đó để độ. Bồ-tát sẽ biến hóa ra loại thân này để giáo hóa loại chúng sanh này. Bởi vậy, khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn đang hành đạo Bồ-tát, nếu phải độ loài hươu thì Phật sẽ biến thành hươu để giáo hóa chúng, đây là một cách của “đồng sự”.
Hành đạo Bồ-tát là phải “ Nan hành năng hành”, những việc vốn không dễ làm mà quý vị lại làm, đó là đang hành đạo Bồ-tát. “ Nan xả năng xả”, những vật không dễ xả bỏ, quý vị phải xả bỏ; những đồ đạc và tiền bạc châu báu càng khó bỏ hơn, nếu quý vị bỏ được, đó mới thật là “nan xả năng xả”. “ Nan nhẫn năng nhẫn”, những việc không dễ nhẫn mà phải nhẫn, đây là một loại Bồ-tát đạo của Bồ-tát tu đại hạnh cần phải làm. “ Nan nhượng năng nhượng”, những việc không thể nhường mà quý vị cũng có thể nhường. Tôi thường nói: “Phải ăn những thứ mà người ta không thể ăn, phải tiếp nhận những cái mà người ta không thể tiếp nhận.” Ăn những thứ mà người ta không thể ăn, không hề có ý nói là những thức ăn người ta chưa ăn, tôi phải ăn trước; cũng không phải nói những thức ăn quý hiếm nhất trên thế gian này, chưa ai được ăn, tôi phải ăn trước! Không phải có ý như thế; mà là những thứ người ta không thích ăn, Bồ-tát đều có thể ăn.
Tôi bảo các vị, tôi không phải là Bồ-tát, nhưng cũng có thể ăn những món mà người ta không muốn ăn. Việc đó là như thế nào? Tôi nhớ một việc vào mùa đông năm đó, khi tôi mười bảy tuổi, ở phương Bắc của tôi có một “Hội Đạo Đức”; hội Đạo Đức này chuyên giảng về đạo đức, nói về nhân nghĩa.
Năm mười sáu tuổi, tôi đã tham gia vào hội Đạo Đức; đến năm mười bảy tuổi thì làm chủ nhiệm lớp thực tập giảng; chủ nhiệm lớp thực tập giảng tức là làm giáo thọ, làm giáo thọ cho tất cả học viên. Tuổi tôi còn rất trẻ, học viên thì có khoảng sáu-bảy mươi người kể cả nam lẫn nữ, tuổi từ bốn-năm mươi, năm-sáu mươi. Người ở hội này phải tiết kiệm, tức phải dè sẻn, vật gì cũng đều phải dè sẻn. Tiết kiệm đến mức độ nào? Ăn thì ăn khoai tây, không phải loại ngon, mà là loại khoai tây thông thường. Bình thường khi ăn khoai tây, người ta vốn không ăn vỏ nên lột bỏ, không ăn vỏ khoai này; những người ở hội Đạo Đức đều giảng về đạo đức, phải ăn những thứ mà người ta không thể ăn. Thế nên tôi bảo với mọi học viên: “Mỗi người chúng ta đều phải ăn vỏ khoai tây, không được nhả ra; phải ép mình một chút, ăn hết những vỏ khoai. Những vật mà chúng ta không thể ăn cũng phải ăn, thể hiện chúng ta có công phu thực hành.”
Do tôi giảng như thế, nên tôi cũng ăn những vỏ khoai này, nhưng những học viên thông thường thì sao? Có người nghe rồi giống như gió thổi bên tai, nghe mà như không nghe, vẫn nhả vỏ khoai ra – sau khi đã nhai xong trong miệng, có người nhả ra trên bàn, có người nhả xuống dưới đất. Khi đang ăn cơm, mọi người đều không được nói chuyện, nên tôi cũng phớt lờ, cứ để họ nhả.Tôi đã tuyên bố “Không nên nhả bỏ vỏ khoai tây” rồi, thế mà có một số học sinh vẫn nhả bỏ như thường. Thế là ăn cơm xong, tôi nhặt tất cả vỏ khoai tây mà học viên đã nhả ra trên bàn hoặc dưới đất bỏ vào một cái chén, và đã ăn hết những vỏ khoai ấy trước mặt họ.
Sự việc lần ấy, khiến các học viên đều cảm thấy ái ngại; từ đó về sau tôi thấy không ai dám nhả bỏ vỏ khoai tây nữa. Nếu tôi không làm như vậy, không tự mình làm gương thì những học viên này sẽ không nghe lời tôi dạy! Họ nhả từ trong miệng ra, tôi lại dùng miệng để ăn thứ đó, khiến cho những học viên này đều cảm thấy vô cùng xấu hổ. Đây gọi là “Cái người ta không thể ăn, mình có thể ăn; cái người ta không thể tiếp nhận, mình có thể tiếp nhận”. Cái gì người ta không thể tiếp nhận được? Đó là “khí” (nóng giận)! Không ai chịu đựng được sự nóng giận. Nếu quý vị nóng giận với anh ta một chút, anh ta sẽ đùng đùng lên. Nếu quý vị có thể nhẫn được sự nóng giận, thì có ai nổi nóng với quý vị, quý vị sẽ xem như người đó đang hát cho quý vị nghe, hoặc đang nói tiếng nước ngoài, như vậy sẽ không có chuyện gì. Có thể tiếp nhận, có thể nhẫn nhục, có thể nhường nhịn, có thể xả bỏ, đây đều là những điều kiện Bồ-tát nên chuẩn bị đầy đủ khi tu đại hạnh.
Thứ sáu, “Trải đại kiếp” (Kinh đại kiếp). Là trải qua bao nhiêu đại kiếp? Để tôi bảo cho quý vị biết nhé! Một “kiếp” là “mười ba vạn chín ngàn sáu trăm năm”; hợp một ngàn kiếp lại là một “tiểu kiếp”; hợp hai mươi tiểu kiếp lại, tính là một “trung kiếp”; hợp bốn trung kiếp lại, gọi là một “đại kiếp”. Thế thì “trải qua đại kiếp” là trải qua ba đại kiếp nhiều không thể tính đếm như thế. Quý vị nhẩm xem số lượng là bao nhiêu? Trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp không có số lượng! A-tăng-kỳ là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa gọi là “vô lượng số”. Quý vị nói xem, theo thời gian thông thường thì đại kiếp vô lượng số này phải trải qua bao lâu? Cho nên làm Bồ-tát không phải dễ, phải trải qua nhiều đại kiếp rất lâu rất lâu như thế.
Thứ bảy, “Cầu đại quả”. Điều Bồ-tát cầu là một quả vị lớn, đó là quả “A-nậu-đa-la tam-miệu tam-Bồ-đề”, chính là “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, cũng chính là “thành Phật”.
Bồ-tát do đầy đủ bảy thứ đại này, nên được gọi là “Ma-ha-tát”
E 3. TÁM BỘ CHÚNG (phân 7 phần)
F1. Chúng Chư Thiên
F2. Chúng Long Vương
F3. Chúng Khẩn Na La
F4. Chúng Càn Thát Bà
F5. Chúng A Tu La
F6. Chúng Ca Lầu La
F7. Chúng Người
F1. CHÚNG CHƯ THIÊN
Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân[1] cùng quyến thuộc, gồm hai vạn vị thiên tử câu hội.
Lại có thiên tử Minh Nguyệt, thiên tử Phổ Hương, thiên tử Bảo Quang, bốn Đại Thiên Vương[2] cùng quyến thuộc, gồm một vạn vị thiên tử câu hội.
Thiên tử Tự Tại, thiên tử Đại Tự Tại cùng quyến thuộc, gồm ba vạn vị thiên tử câu hội.
Thế giới Ta-bà có chủ Phạm Thiên Vương, Thi-khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm .v.v… cùng các quyến thuộc, gồm một vạn hai nghìn vị thiên tử câu hội.
Nhĩ thời, Thích-đề-hoàn-nhân dữ kỳ quyến thuộc nhị vạn thiên tử câu. Phục hữu Minh Nguyệt thiên tử, phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, Tứ Đại Thiên Vương, dữ kỳ quyến thuộc vạn thiên tử câu. Tự Tại thiên tử, Đại Tự Tại thiên tử, dữ kỳ quyến thuộc tam vạn thiên tử câu. Ta-bà thế giới chủ Phạm Thiên Vương, Thi Khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm đẳng, dữ kỳ quyến thuộc vạn nhị thiên tử câu.
“Bấy giờ”: ngay lúc ấy. Lúc này, chính là lúc Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói bộ “Kinh Pháp Hoa”, có tám vạn vị Bồ-tát đến pháp hội cùng một lúc. Tám vạn Bồ-tát này đều là những vị Đại Bồ-tát, đều là con của Phật – Phật là đấng Pháp Vương, Bồ-tát chính là Pháp Vương tử (con của đấng Pháp Vương). Vì vậy, trong “Kinh Di Đà” có nói: “Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương tử”. Trong bộ “Kinh Pháp Hoa” đây, những vị Đại Bồ-tát này đều là Pháp Vương tử.
Đức Phật có ba hạng con: chân tử, nội tử và ngoại tử. Chân tử: con chân truyền của Phật, chính là Bồ-tát Pháp Vương tử. Nội tử: chỉ cho tất cả hàng tỳ-kheo và La-hán; là quyến thuộc trong đạo của Phật, là đứa con trong đạo chân chính của Phật. Ngoại tử: con bên ngoài của Phật, là quyến thuộc bên ngoài của Phật, là người hộ trì bên ngoài của Phật. Tất cả những chúng sanh phàm phu cũng đều là con của Phật, là ngoại tử của Phật. Vì sao vậy? Vì chúng sanh phàm phu, có người ở bên ngoài pháp của Phật, vẫn chưa tu tập pháp Phật; có người tuy học tập pháp Phật, nhưng lại không chứng quả, vẫn ở địa vị phàm phu, chưa đạt đến địa vị Thánh hiền, vì vậy đều gọi là ngoại tử.
Phật có ba hạng con như thế, ba hạng con này bao quát tất cả hàng Bồ-tát, La-hán và chúng sanh trong sáu nẻo. Chúng sanh trong lục phàm hợp chung với chúng sanh trong hàng tam thánh, chính là chúng sanh trong chín pháp giới; chúng sanh trong chín pháp giới phân ra ba hạng con.
“Thích-đề-hoàn-nhân”: Thích-đề-hoàn-nhân là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Năng Tác (hay làm). Năng tác gì? Năng tác thiên chủ. “Thích-đề-hoàn-nhân” này chính là thượng đế, là vua cõi trời mà hàng ngoại đạo sùng bái; cũng chính là Lão Thiên gia (ông trời). Trong “Chú Lăng Nghiêm”, có câu “Nam mô Nhân-đà-la-gia”; Nhân-đà-la-gia là Nhân-đà-la vương, cũng chính là Thích-đề-hoàn-nhân.
Thích-đề-hoàn-nhân làm thiên chủ tầng trời thứ ba mươi ba, cũng chính là thiên chủ cõi trời Đao-lợi; cũng là Thượng Đế, là Ngọc Hoàng Đại Đế mà người Trung Hoa cung kính. Tuy Ngọc Hoàng Đại Đế là một thiên chúng làm Hoàng đế trên trời, nhưng ngài vẫn còn ở trong pháp giới của lục phàm, không thể xem là thánh nhân được; Thích-đề-hoàn-nhân là vị hộ pháp trong Phật giáo, là vị hộ trì Phật giáo. Bởi vì vị Thích-đề-hoàn-nhân này ở trước Phật hộ giáo, cho nên ngay cả một chỗ ngồi cũng không có, chỉ có thể đứng. Vì vậy khi đến hộ giáo trước Phật, vị Thích-đề-hoàn-nhân này ngay cả một chỗ ngồi cũng không có, chỉ có thể đứng thôi! Đã không có chỗ ngồi, vì sao mọi người lại tôn kính Ngài như thế? Lại tin tưởng Ngài như thế? Sao lại tin Ngài là vị chúa tể thật sự trong trời đất như vậy? Đây có phải là ý của Ngài? Đúng vậy! Ở trong Phật giáo, tuy Ngài không có chỗ ngồi, chỉ có thế đứng ở đấy để hộ trì Phật giáo, chỉ là một vị hộ pháp; nhưng trong phạm vi Ngài cai quản, thì Ngài là nhân vật độc nhất vô nhị, là một vị lĩnh tụ tối cao. Mọi người chúng ta đều rất sùng bái Ngài. Tôi sẽ nêu ra một ví dụ cụ thể.
Đất nước chúng ta, có những xóm làng ở vùng thôn quê xa xôi hẻo lánh. Có một thôn trang vẫn chưa được khai hóa, dân chúng còn sống ở trong núi non. Khu vực này cách biệt hẳn với mọi sinh hoạt ở bên ngoài; vì vị trưởng thôn thường ra tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nên đất nước này cũng thừa nhận ông ta là trưởng thôn.
Thế nhưng ông ta nói với dân chúng ở vùng ấy thế nào đây? Vì tất cả bọn họ đều chưa từng ra thành thị, đều là những người quê mùa, vì vậy ông ta bảo họ: “Ta là người lớn nhất thế giới này, bất luận ai cũng đều phải nghe theo sự chỉ huy của ta. Ta chính là hoàng đế, chính là tổng thống, cũng chính là chủ nhân ông quản lý cả thế giới này.” Vừa nghe thế, những người dân kia liền tin ngay, cho rằng ông ta là thủ lĩnh thì đương nhiên lời nói phải đúng; họ không biết bên trên trưởng thôn còn có trưởng huyện, trưởng tỉnh, lại có cả tổng thống hoặc là hoàng đế nữa. Vì sao họ không biết? Vì họ sống trong hang núi nơi vùng xa xôi hẻo lánh, chưa hề tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nên cho rằng trưởng thôn này là người có quyền hạn cao nhất, lớn nhất trên thế giới, vì vậy ai cũng sùng bái ông ta, tin tưởng lời nói của ông ta.
Vị Thiên chủ này cũng giống vậy; người không hiểu Phật pháp cũng giống như những người quê mùa ở chốn xa xôi hẻo lánh kia. Họ chưa từng biết qua thế giới rộng lớn bên ngoài, chưa từng thấy qua phố thị to lớn, không biết thế giới này rốt cuộc là thế nào, vì vậy đã cho trưởng thôn của họ là vị lĩnh tụ cao nhất. Cũng thế, phàm phu chúng ta, trước kia không hiểu rõ Phật pháp, cũng chỉ biết có Thượng đế, có Thiên chúa mà không hiểu rằng trên Thiên chúa còn có Phật, có Bồ-tát. Vì sao lại không biết? Chính vì vị Thiên chúa này không muốn dạy cho những người bị ông ta thống lĩnh biết được còn có ai đó lớn hơn ông ta; cũng giống như người trưởng thôn kia, ông ta không chỉ bảo cho người trong thôn ấy cách tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Nếu như họ được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, sẽ biết được ngay ông ta chỉ là một trưởng thôn cỏn con, thế là sẽ không còn tin tưởng ông ta như trước nữa. Thích-đề-hoàn-nhân cũng giống như vậy.
Vị Thích-đề-hoàn-nhân này từ đâu mà đến? Trong đời quá khứ rất lâu rất lâu về trước, vào thời Đức Phật Ca-diếp, ông ta là một người nữ. Không chỉ làm thân người nữ, mà còn là một cô gái rất nghèo; không chỉ là cô gái nghèo, mà còn là một cô gái ăn mày. Vì nhìn thấy vàng phết trên tượng Phật Ca-diếp bị bong tróc, cô gái này bèn phối hợp với ba mươi hai người, cùng nhau trùng tu lại ngôi chùa và đắp lại vàng trên thân tượng. Nhờ công đức thù thắng này, sau khi qua đời, cả ba mươi ba người này đều được sinh lên trời làm Thiên chủ: cô gái nghèo là người khởi xướng công việc, nên được làm Thiên chủ cõi trời Đao-lợi; còn lại ba mươi hai người kia, tám vị ở phương đông, tám vị ở phương tây, tám vị ở phương nam và tám vị ở phương bắc, đều làm thiên chủ của ba mươi hai tầng trời.
Vậy có bao nhiêu cõi trời? Số lượng các cõi trời là vô số, không tính đếm hết được; chẳng qua trời Đao-lợi ở trên đỉnh núi Tu-di; bốn vị Thiên Vương thì ở lừng chừng núi Tu-di.
“Thích-đề-hoàn-nhân cùng quyến thuộc”: và quyến thuộc của ngài; quyến thuộc tức là đồng loại với Ngài, người nhà của Ngài. Có bao nhiêu? Có “hai vạn thiên tử câu hội”: có đến hai vạn thiên tử cùng đến hội Pháp Hoa này. Không chỉ là Thích-đề-hoàn-nhân, mà còn có quyến thuộc của Ngài đến hai vạn người.
“Lại có thiên tử Minh Nguyệt”: lại có một vị thiên tử tên Minh Nguyệt.
“Thiên tử Phổ Hương”: vị thiên tử này thích hương thơm, vì vậy trên người ngài tỏa ra một làn hương, lan tỏa khắp pháp giới. Thiên tử Phổ Hương thích ngửi mùi thơm, vì biết tất cả chúng sanh cũng đều thích nó, nên ngài phát ra một loại phổ hương. Nếu như không nhờ vị thiên tử này phát ra hương thơm, thì thế gian này của chúng ta sẽ hôi thối không thể chịu nổi, nhờ ngài phát ra mùi thơm trên thế giới này, nên tất cả mùi hôi thối đều bị trừ khử.
“Thiên tử Bảo Quang”: vị thiên tử này rất thích bảo bối, vì vậy trên người ngài có một luồng ánh sáng báu. Thiên tử Bảo Quang biết tất cả chúng sanh đều có tâm tham, đều tham những thứ quý giá, nên ngài đã phát ra một thứ ánh sáng báu làm thỏa mãn sự hy vọng của chúng sanh; khi hy vọng đã được thỏa mãn, họ mới phát tâm bồ-đề.
Hai vị thiên tử này, không phải bản thân ngài thích ngửi hương thơm, chỉ vì tất cả chúng sanh đều thích ngửi hương thơm, nên ngài mới phát ra mùi thơm; không phải bản thân ngài thích vật quý giá, nhưng vì tất cả chúng sanh đều thích vật quý giá, nên ngài mới phát ra ánh sáng báu. Điều này biểu hiện thế gian này có cảnh giới bất khả tư nghì, khiến chúng sanh phát tâm bồ-đề vô thượng. Hương là trì giới thanh tịnh, báu chính là bố thí vô tướng.
“Bốn Đại Thiên Vương”: chính là Đông Thiên, Nam Thiên, Bắc Thiên và Tây Thiên. Bốn Đại Thiên Vương này ở ngay lưng chừng núi Tu-di. Đông Thiên Vương ở phía đông núi Tu-di, Nam Thiên Vương ở phía nam núi Tu-di, Tây Thiên Vương ở phía tây núi Tu-di, Bắc Thiên Vương ở phía bắc núi Tu-di. Vị Thiên Vương ở phương đông tên là Trì Quốc Thiên Vương; vị Thiên Vương ở phương nam tên là Tăng Trưởng Thiên Vương; vị Thiên Vương ở phương tây tên là Đa Văn Thiên Vương; vị Thiên vương ở phương bắc tên là Quảng Mục Thiên Vương. Bốn vị Đại thiên Vương đây bảo hộ thế giới này, vì vậy các ngài còn được gọi là Hộ Thế Thiên Vương; hiện tại tất cả chúng ta đây đều ở dưới sự bảo hộ của các ngài.
“Cùng quyến thuộc, gồm một vạn vị thiên tử câu hội”: và quyến thuộc đồng loại của ngài, có đến hơn một vạn thiên tử đều cùng đến pháp hội này nghe giảng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
“Thiên tử Tự Tại”: vị thiên tử này vô cùng tự tại, ngài ở tại cõi trời Hóa lạc. Sự vui sướng của cõi trời Hóa Lạc là do tự biến hóa mà có; ngài cũng có thể đem sự sui sướng của cõi trời khác biến hóa đến cõi trời của mình để hưởng thụ, cho nên gọi là Hóa Lạc.
“Thiên tử Đại Tự Tại”: đây chính là thiên tử ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Sự tự tại của ngài vốn không phải là thứ sẵn có ở cõi trời của ngài, mà do ngài hóa hiện lấy từ các cõi trời khác mà ra. Ngài cũng có thể đem sự vui sướng của cõi trời khác biến hóa đến cõi trời của mình.
“Cùng quyến thuộc, gồm ba vạn vị thiên tử câu hội”: và quyến thuộc đồng loại của ngài, có đến ba vạn thiên tử, nhiều hơn so với số lượng ở trên. Thích-đề-hoàn-nhân chỉ có hai vạn thiên tử, ngài có đến ba vạn, nhiều hơn một vạn.
“Thế giới Ta-bà”: Sao gọi là thế giới Ta-bà? Ta-bà (hoặc Sa-bà) là âm Phạn, cũng có khi đọc là “Sa-ha”; tiếng Anh dịch là “Saha World”, chính là thế giới Ta-bà này. Thế giới Ta-bà là thế giới thế nào? Là thế giới ngọt ngào, thế giới này rất ngọt ngào. Có người bảo: “Pháp sư à! Tôi đã nghe ngài giảng lâu lắm rồi, chưa hề thấy ngài giảng kinh nhầm lẫn bao giờ, nhưng lần này thì thật sự ngài đã giảng nhầm rồi! Tôi thấy dịch nghĩa Ta-bà là khổ đau, sao bây giờ ngài lại giảng là ngọt ngào?” Nếu quý vị biết nó là cõi khổ thì lý ra không nên lưu luyến chứ! Vì sao quý vị vẫn không thể bỏ được thế giới này? Vì sao tôi lại nói là cõi ngọt ngào? Chính vì tôi thấy quý vị bỏ không nổi thế giới này; quý vị đã bỏ không nổi, thì đương nhiên là nó ngọt ngào rồi còn gì! Nếu là khổ (đắng), thì quý vị phải sớm bỏ đi chứ! Người kia bảo: “Pháp sư đã giảng như vậy, tôi cũng chẳng còn gì để nói!” Quý vị không có gì để nói, nhưng tôi lại có cái để nói. Có gì để nói nào? Thế giới Ta-bà này không phải là khổ (đắng), cũng không phải là ngọt, là một thế giới chẳng có mùi vị gì cả; mùi vị gì cũng đều chẳng có, nhưng phiền não thì rất nhiều. Phiền não gì? Là (cái) phiền não rất đau khổ.
Vì vậy “Ta-bà” này được dịch là kham nhẫn, có thể chịu đựng được; có thể chịu đựng được tất cả hoàn cảnh khổ bên ngoài. Hoàn cảnh khổ này có ba khổ, tám khổ, vô lượng các khổ.
Ba khổ gồm những gì?
(1). Khổ khổ: chính là nỗi khốn khổ của nghèo túng; đã không có cơm ăn, lại chẳng có quần áo để mặc, cũng không có nhà để ở? Quý vị bảo xem có khổ không chứ? Đây là khổ ở trong khổ.
(2). Hoại khổ: có cơm ăn, có nhà ở, cũng có quần áo để mặc; chẳng những có nhà để ở, vả lại còn ở trong nhà cao cửa rộng, nhà cửa rất là sang trọng; không chỉ có quần áo để mặc, mà còn mặc những bộ y phục rất đẹp, rất mốt, rất sang; chẳng những có cơm để ăn, mà còn ăn những món sơn hào hải vị quý hiếm, những món mà mọi người ở thế giới này chưa từng được nếm qua, họ đều đã thưởng thức hết. Quý vị nói sao nào? Tình cảnh tốt đẹp ấy không được lâu dài, thình lình có khi thì gặp phải hỏa hoạn, có khi thì bị giặc cướp, hoặc là chịu sự tổn thất nào đó ngoài ý muốn…; dù cho có giàu sang sung sướng cỡ nào đi nữa, cũng bị tiêu tan hết, đây là nỗi khổ vì sự hoại diệt.
(3). Hành khổ: không có sự khốn khổ của nghèo túng, cũng không có hoại khổ của giàu sang, vậy thì có thể nói là chẳng có khổ gì ư? Không đúng, vẫn khổ như nhau. Khổ gì nào? Từ thiếu niên đến trai tráng, từ trai tráng đến già, từ già đến bệnh, từ bệnh đến chết; niệm niệm lưu chuyển, niệm niệm không dừng, giống như sóng nước, đợt sau đuổi theo đợt trước, lớp sóng trước vừa dứt, lớp sóng sau liền sinh ra, cứ thế mà chạy đuổi theo nhau, sanh sanh diệt diệt, không có chỗ cùng tận – đời người, từ bé đến già, không ngừng biến chuyển, không ngừng dời đổi trong từng niệm từng niệm, đây là hành khổ.
Tám khổ, là:
(1). Sanh khổ
(2). Già khổ
(3) Bệnh khổ
(4). Chết khổ
(5). Ái biệt ly khổ: quý vị rất yêu mến người này, không muốn rời xa anh ta; nhưng hoàn cảnh bắt buộc không thể nào không xa, quý vị nói xem có khổ hay không chứ? Phải chia tay với người mình yêu thương nhất, thật không có nỗi khổ nào bằng.
(6). Oán tắng hội khổ: quý vị rất ghét người này, “Hừ! tôi ghét anh ta thậm tệ, tôi muốn tránh xa anh ta, không thích chung đụng với hạng người như thế!” Hà! Đi đến nơi khác lại gặp phải một người cũng giống hệt như thế, cũng đáng ghét y như vậy, đây gọi là oán tắng hội khổ. Quý vị oán ghét loại người này, dời đến nơi khác, quý vị cho là đã được thoát nợ, kết quả lại gặp phải một người chẳng khác nào anh ta, đây là nỗi khổ phải gặp mặt người mình oán ghét.
(8). Cầu bất đắc khổ: thứ mình luôn mong muốn, ước ao nhưng lại không được toại nguyện, quý vị nói xem có khổ hay không?
(8). Ngũ ấm xí thạnh khổ: cái khổ này còn ghê gớm hơn! Nó luôn theo sát quý vị, ở ngay trong thân quý vị, nó cùng đi đứng nằm ngồi với quý vị. Ngũ ấm chính là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Ngũ ấm xí thạnh, ý nói năm ấm này giống như lửa, thiêu đốt quý vị rất mạnh, đây cũng là khổ.
Nhiều khổ như thế, vẫn có thể chịu đựng được; Ồ! Thật là khó khăn thế mà quý vị vẫn nhẫn chịu được đấy nhỉ? Ý này chính là những thứ vốn không thể nhẫn chịu, vậy mà vẫn nhẫn chịu được; trong tình cảnh khổ như vậy, quý vị vẫn bình thản, quý vị vẫn có thể nhẫn chịu, vẫn không bỏ được thế giới này. Quý vị bám giữ thế giới này, xem nó như cái gì nào?
Vì sao tôi nói đây là thế giới ngọt ngào[3]? Vì mọi người đều cố bám víu vào thế giới này, đều cho rằng nó giống như quả táo vậy! Quả táo rất ngọt, họ cho rằng thế giới này bao giờ cũng ngọt ngào; kỳ thật một khi nuốt vào, sẽ cảm thấy thế giới này là đắng, đắng như Hoàng liên vậy – còn đắng hơn cả Hoàng liên nữa! Khi đã biết thế giới này đắng (khổ), quý vị vẫn chấp nhận chịu đựng, đây không phải là điều dễ dàng.
Quý vị tu đạo, nếu có thể nuốt được nhiều thứ đắng (khổ) như thế, thế thì nhất định sẽ thành Phật.
Trước kia, khi còn ở Đông Bắc, tôi có một đệ tử tên Quả Thuấn. Anh ta bảo: “Con làm công cho người Nhật, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, đêm ngủ cũng không đủ giấc. Nếu người nào chỉ cần có sức chịu đựng khổ nhọc một nửa như đi làm lao công trong vấn đề tu tập, thì nhất định sẽ thành Phật.” Vì vậy, sau khi xuất gia, mỗi ngày anh ta chỉ ăn một bữa, không ăn nhiều; tọa thiền suốt từ sáng đến tối, không ngủ nằm. Ăn một bữa đúng ngọ, thường ngồi không nằm, hành hạnh đầu-đà. Trong số các đệ tử của tôi, anh ta là người giữ hạnh đầu-đà bậc nhất.
Về sau, vì không muốn ở lại cõi Ta-bà- này nữa, anh ta đã dùng lửa tự thiêu. Sau khi lửa tắt, thân thể anh ta vẫn ngồi ngay ngắn; đợi khi có người đến xem, vừa đưa tay sờ vào, thân xác lập tức biến ra tro. Thiêu chết rồi mà vẫn ngồi, điều này cho thấy anh ta có được định lực; nếu như không có công phu thiền định, khi vừa bị lửa đốt nóng, nhất định sẽ nẩy người lên. Đối với những người bình thường, nếu quý vị dí một que diêm vào người họ, người này nhất định sẽ giật nẩy lên. Vì vậy, với bất kỳ một người nào, nếu họ tự xưng có định lực, đã nhập định, quý vị có thể thử họ. Quý vị hãy lấy một đốm lửa nhỏ dí vào người họ, nếu người này không nhảy cẫng lên, thì đúng là họ có định lực thật; thậm chí đốt cháy hết, đã hóa ra tro mà vẫn ngồi yên, đó mới là định lực chân chính! Không có định lực như thế, thì chớ khoe khoang là mình có định lực. Vì vậy mà tôi không dám nói mình có định lực. Nếu nói mình có định lực, thế thì phải khảo nghiệm một chút mới biết được là thật hay giả!
“Thế giới Ta-bà”, thế (đời), có ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Đây là khái niệm mang tính thời gian; giới (cõi), tách biệt bằng một ranh giới. Đây là khái niệm mang tính không gian. “Chủ Phạm Thiên Vương”: chủ tức là làm chủ; Phạm là Đại Phạm Thiên Vương, ngài cư trú trên cõi trời Đại Phạm. “Thi-khí Đại Phạm”: Thi-khí là âm tiến Phạn, Trung Hoa dịch là Đa Kế, trên đầu ngài có rất nhiều búi tóc. “Quang Minh Đại Phạm”: lại có một thiên tử tên Quang Minh Đại Phạm. “Vân vân”: tức là các thiên tử khác. “Cùng các quyến thuộc, gồm một vạn hai nghìn vị thiên tử câu hội.”: và các quyến thuộc của ngài, nhiều đến một vạn hai nghìn vị thiên tử, đều đến hội Pháp Hoa.
F2. CHÚNG LONG VƯƠNG
Có tám vị long vương: long vương Nan-đà, long vương Bạt-nan-đà, long vương Sa-già-la, long vương Hòa-tu-kiết, long vương Đức-xoa-ca, long vương A-na-bà-đạt-đa, long vương Ma-na-tư, long vương Ưu-bát-la v.v… mỗi vị dẫn theo vô số trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Hữu bát long vương: Nan-đà long vương, Bạt-nan-đà long vương, Sa-già-la long vương, Hòa-tu-kiết long vương, Đức-xoa-ca long vương, A-na-bà-đạt-đa long vương, Ma-na-tư long vương, Ưu-bát-la long vương, các dĩ nhược can bách thiên quyến thuộc câu.
“Có tám vị long vương”: long (rồng), xưa kia có rất nhiều rồng, ai ai cũng có thể nhìn thấy; đến nay, rồng không còn xuất hiện nữa. Vì sao vậy? Vì con người quá đông, đã làm cho rồng khiếp sợ, đến nỗi không dám xuất hiện. Rồng thuộc chủng loại súc sanh. Loài súc sanh này không giống với những loài khác, nó có thần thông. Thần thông thế nào? Nó có thể biến hóa khiến thân to ra, lại có thể thâu thân hình nhỏ lại; có thể để cho người khác trông thấy, cũng có thể khiến cho mọi người không thấy được nó. Thế vì sao nó lại làm thân rồng? Quý vị chớ có xem thường nó, đừng nghĩ nó là súc sanh rồi xem nó không ra gì.
Đời trước, rồng là người tu đạo. Trong khi tu tập, vị này “thừa cấp giới hoãn”, vì vậy phải đọa làm thân rồng. “Thừa” chính là pháp Đại thừa của Phật; “giới” chính là giới luật. Vị này tu hành rất khẩn trương, nhưng không giữ giới luật, tức là chưa diệt trừ được lòng ham muốn, đặc biệt là chưa thể dứt bỏ được niệm dâm dục. Do vì chưa bỏ được ý niệm dâm dục này, nên tuy có ra sức tu đạo, dốc lòng nghiên cứu pháp Đại thừa của Phật, nhưng chính vì không giữ giới luật, nên vị này phải đọa làm thân rồng; nhưng nhờ tinh tấn dõng mãnh tu tập Phật đạo Đại thừa, nên vị ấy có được thần thông; có thần thông thì có, nhưng biến thành loài súc sanh.
Còn có hạng “giới cấp thừa hoãn”, tức người này giữ giới luật rất nghiêm túc, nhưng lại không tinh tấn tu tập pháp Đại thừa; hạng người tu đạo này, đời sau cũng có thể làm người. Làm người như thế nào? Làm người rất giàu sang, nhưng không được thông minh lắm; tuy rất giàu nhưng ngu si. Vì họ tu trì giới luật rất nghiêm ngặt, nên được làm một người giàu sang, nhưng vì không chịu đọc tụng kinh điển Đại thừa, không nghiên cứu pháp Phật, nên họ không có trí thông minh, có chút ít ngu si – không phải hoàn toàn ngu si, nhưng không được thông minh lắm.
Có hạng “thừa giới câu cấp”, tức người này rất nỗ lực tu tập pháp Đại thừa; nghiêm trì giới luật rất tốt, nghiên cứu Phật pháp cũng rất tận tâm. Hạng người tu đạo này có thể chứng quả; nếu như không chứng quả, cũng được sanh lên cõi trời hưởng phước.
Có hạng “thừa giới câu hoãn”, hạng người này không tu pháp Đại thừa, cũng không giữ giới luật, suốt ngày lười biếng. Người không xuất gia, không nghiên cứu Phật pháp, không hành trì Phật pháp, đây là hạng lười biếng; người xuất gia, họ cũng không nghiên cứu Phật pháp, cũng rất là lười nhác, buổi sáng thì ngủ một giấc đến mười giờ mới thức dậy, buổi tối lại nghỉ rất sớm. Họ bảo: “Nắng lên ba sào chưa muốn dậy, xem ra danh lợi chẳng bằng nhàn”. Một sào cao khoảng mười mấy trượng, ba sào tức cao ba mươi mấy trượng; mặt trời đã lên cao ba sào, ý nói mặt trời đã mọc cao ba mươi mấy trượng rồi, nhưng hòa thượng này vẫn còn nằm ngủ trên giường chưa chịu dậy! So với những kẻ cầu danh cầu lợi kia, vẫn chẳng thể sánh bằng ta, được nhàn rỗi thế này, chẳng làm gì cả, so ra làm người lười biếng vẫn tốt hơn!
“Thừa giới câu hoãn” là hạng lười biếng. Loại người này không giữ giới luật, cũng không nghiên cứu Phật pháp; tuy mang danh nghĩa là xuất gia, nhưng trên thực tế họ chẳng tu hành, chẳng dụng công. Hoặc là thích trốn việc hưởng nhàn, bất luận có việc gì, họ cũng đến sau trốn lánh, không đi làm; nhưng có thức ăn gì ngon, họ len lén ăn trước một ít. Thích ăn lười làm, tương lai sẽ phải đọa vào địa ngục thôi! Sẽ phải chạy vào trong địa ngục, từ sáng đến tối, cai ngục đều bảo quý vị ăn hòn sắt nung cháy đỏ. Quý vị thích ăn thì sẽ cho quý vị ăn thứ đó. Quý vị không thích làm, chẳng thích nghiên cứu gì cả; đến chỗ đó, chẳng cần quý vị phải làm gì, chỉ kêu quý vị thọ tội. Hoặc đem quý vị rán trong dầu, hoặc bỏ quý vị lên núi đao, lên rừng kiếm, trong vạc dầu, bảo quý vị nếm các mùi vị đó. Tại sao lại bảo quý vị nếm các mùi vị đó? Chính vì các vị lười biếng, xem quý vị còn lười biếng nữa không?
Trong hội Pháp Hoa này, có tám vị vua rồng, ngoài ra còn có rất nhiều thần dân của vua rồng.
Giảng đến đây, tôi lại nhớ đến Quả Thuấn khi còn ở Đông Bắc, trước đó tôi không phải đã nói anh ta đã tự thiêu là gì? Quả Thuấn này là hạng “thừa giới câu cấp”, anh ta đã tuân thủ giới luật, lại còn tu pháp Đại thừa. Anh ta dựng một ngôi lều tranh, chính là kết cỏ tranh làm nhà; nhà này không lớn lắm. Nhà dựng xong, anh ta mời tôi đến khai quang, cũng chính là khai mạc. Tôi dẫn theo mấy vị đệ tử, một vị tên Quả Năng, một vị tên Quả Chí, một vị tên Quả Tá cùng đến khai quang. Tối hôm ấy, chúng tôi nghỉ lại trong lều cỏ của anh ta.
Trong đêm đó, có mười chú rồng đến xin quy y Tam bảo. Bấy giờ đang lúc hạn hán, đã lâu lắm rồi không có mưa; tôi hỏi mười chú rồng ấy: “Rồng phụ trách việc làm mưa, vì sao hiện giờ các vị không cho đổ mưa? Các vị lại còn muốn quy y ư?”. Rồng thưa: “Đổ mưa, phải do trời Đế Thích chỉ thị” Trời Đế Thích chính là Thích-đề-hoàn-nhân, họ bảo phải có lệnh của ông ta thì mới có thể làm mưa; nếu như chưa được lệnh, họ không dám tùy tiện làm mưa. Khi ấy, tôi đã bảo với các chú rồng ấy: “Các vị hãy đến chỗ của Thích-đề-hoàn-nhân, thay ta thỉnh cầu; ta muốn trong vòng chu vi bốn mươi dặm quanh đây có mưa. Ngày mai, nếu như các vị có thể thỉnh xin Ngọc Đế cho phép giáng mưa, ngày mốt ta sẽ quy y cho các vị, nhận quý vị làm đệ tử nhà Phật.” Tôi bảo họ thế, quả nhiên ngày hôm sau trời liền đổ mưa; trận mưa này, đúng là chỉ xuất hiện trong vòng chu vi bốn mươi dặm nơi tôi ở, vùng đất ngoài bốn mươi dặm không hề rơi một hạt mưa. Vì vậy, đến ngày thứ ba, tôi đã truyền tam quy cho mười chú rồng này. Quy y rồi, bọn họ đều tu hành.
Nói ra những lời này, giống như là kể chuyện thần thoại vậy; trên thật tế không có chút gì là thần thoại cả, đây là câu chuyện mà bản thân tôi đã trải nghiệm. Trước khi quy y, những chú rồng kia đã làm mưa; vì vậy, tôi đã đặt tên cho ngôi lều tranh của Quả Thuấn là “Long Vũ Mao Bồng”. Những chú rồng này, tuy quý vị không nhìn thấy, nhưng nó vẫn tồn tại. Rồng có thể biến hóa vô cùng, có được một loại thần thông. Tôi đã đặt pháp danh cho mười chú rồng này là gì nào? Là “Cấp Tu”, các vị phải tu mau mau lên.
Hiện tại ở trong pháp hội Pháp Hoa có tám vị vua rồng, ngoài ra còn có rất nhiều rồng nhỏ nữa. Tám vị vua rồng này đều có tên.
“Long vương Na-đà”: Nan-đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Hoan Hỷ, là vị đứng đầu trong hàng Long thần Hộ pháp.
“Long vương Bạt-nan-đà”: Bạt-nan-đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Thiện Hoan Hỷ. Vị long vương này với long vương Nan-đà là hai anh em. Trước kia, họ không tuân theo quy củ, về sau nhân được tôn giả Ma-ma Mục-kiền-liên hàng phục, đã trở thành những vị hộ pháp của Phật giáo, vì vậy hiện tại họ cũng đến hội Pháp Hoa nghe kinh.
Anh em vị long vương này giúp đỡ nước Ma-yết-đề mưa thuận gió hòa, mưa gió đúng thời sẽ giúp ngũ cốc được mùa; họ rất có ích cho con người.
“Long vương Sa-già-la”: Sa-già-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Hàm Hải, vị này chính là hải long vương ở trong biển mặn, còn gọi là long vương Sa-kiệt-la.
“Long vương Hòa-tu-kiết”: Hòa-tu-kiết là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đa Đầu. Vị long vương này có rất nhiều đầu, một thân mình mà thậm chí có khi mọc ra chín cái đầu, có khi mọc ra mười hai đầu, lại có khi mọc ra mười lăm đầu, nhưng cũng có khi chỉ mọc ra ba đầu, bảy đầu, vì vậy mà có tên là Đa Đầu.
“Long vương Đức-xoa-ca”: Đức-xoa-ca là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Hiện Độc. Vị long vương này có khí độc, có thể thổi ra rất nhiều khí độc. Nếu người nào hít nhằm hơi độc này sẽ chết ngay.
“Long vương A-na-bà-đạt-đa”: A-na-bà-đạt-đa là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vô Nhiệt Não. Vị long vương này không bị phiền não của nóng bức.
“Long vương Ma-na-tư”: Ma-na-tư là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Thân; vì thân hình của vị này rất to, nên gọi là Đại Thân long vương (long vương mình to).
“Long vương Ưu-bát-la”: Ưu-bát-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Thanh Liên Hoa (Hoa Sen Xanh).
“Vân vân”: tức không chỉ có tám vị long vương này, mà còn có rất nhiều rất nhiều những vị khác nữa. “Mỗi vị dẫn theo vô số trăm nghìn quyến thuộc câu hội”: mỗi vị vua rồng lại dẫn theo rất nhiều rồng con, rồng cháu, cùng đến hội Phấp Hoa để nghe Phật giảng kinh.
F3. CHÚNG KHẨN NA LA
Có bốn Khẩn-na-la vương: Pháp Khẩn-na-la vương, Diệu Pháp Khẩn-na-la vương, Đại Pháp Khẩn-na-la vương, Trì Pháp Khẩn-na-la vương, mỗi vị đều dẫn theo vô số trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Hữu tứ Khẩn-na-la vương: Pháp Khẩn-na-la vương, Diệu Pháp Khẩn-na-la vương, Đại Pháp Khẩn-na-la vương, Trì Pháp Khẩn-na-la vương, các dữ nhược can bá thiên quyến thuộc câu.
“Có bốn Khẩn-na-la vương”: không chỉ có rồng, còn có cả Khẩn-na-la, cũng là một trong tám bộ trời rồng. Khẩn-na-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Nghi Thần. Vì sao gọi là Nghi thần? Vì tướng mạo vị này giống người, nhưng trên đầu mọc một cái sừng, vì vậy được gọi là Nghi thần hoặc Nghi nhân. Vị này là thần pháp nhạc của Ngọc Đế, thường tấu nhạc cho Thích-đề-hoàn-nhân nghe. Có bốn vị Khẩn-na-la vương:
“Pháp Khẩn-na-la vương”: vị này có nhiều pháp thức tấu nhạc.
“Diệu Pháp Khẩn-na-la vương”: vị này không chỉ có nhiều pháp thức tấu nhạc mà nhạc tấu cũng rất diệu. Âm nhạc vị này tấu lên rất hay và êm tai, ai cũng thích nghe; không những khiến cho mọi người thích học tập pháp Phật, hơn nữa âm nhạc do vị này diễn tấu đã biểu hiện pháp âm rất vi diệu.
“Đại Pháp Khẩn-na-la vương”: Âm nhạc do vị này diễn tấu nói về pháp Phật đều rất lớn – pháp cũng lớn, âm thanh cũng lớn.
“Trì Pháp Khẩn-na-la vương”: còn có một nghi thần, mỗi khi vị này tấu âm nhạc, không những khiến người khác rất thích nghe, mà còn khiến họ phát khởi một thứ tâm thích tu hành, thích nương theo pháp tu hành, thọ trì.
Bốn vị Khẩn-na-la vương này, “mỗi vị đều dẫn theo vô số trăm nghìn quyến thuộc câu hội”: vô số tức là số lượng rất nhiều. Có bao nhiêu? Có vị dẫn theo một trăm, có vị dẫn theo một nghìn, hoặc dẫn theo một vạn quyến thuộc cùng đến pháp hội này.
F4. CHÚNG CÀN THÁT BÀ
Có bốn Càn-thát-bà vương: Nhạc Càn-thát-bà vương, Nhạc Âm Càn-thát-bà vương, Mỹ Càn-thát-bà vương, Mỹ Âm Càn-thát-bà vương, mỗi vị đem theo vô số trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Hữu tứ Càn-thát-bà vương: Nhạc Càn-thát-bà vương, Nhạc Âm Càn-thát-bà vương, Mỹ Càn-thát-bà vương, Mỹ Âm Càn-thát-bà vương, các dữ nhược can bá thiên quyến thuộc câu.
“Có bốn Càn-thát-bà vương”: Càn-thát-bà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Khứu Hương. Loại thần này chuyên thích ngửi hương vị, lấy hương vị làm thức ăn. Đây là thần tục nhạc của Ngọc Đế, thường tấu âm nhạc nhẹ nhàng cho Thích-đề-hoàn-nhân nghe. Khi nào Ngọc Đế muốn vị này đến tấu nhạc, liền chấm một ít hương Ngưu-đầu Chiên-đàn. Nghe được mùi thơm này, vị này lập tức đến ngay. Vị này tấu âm nhạc rất hay. Có người nghe nói Khẩn-na-la và Càn-thát-bà đều là thần tấu nhạc, thì lại đắm trước âm nhạc này, nên bảo: “Ở trong Phật giáo, Khẩn Na-la và Canh-thát-bà đều là thần tấu âm nhạc.” thế là họ cũng đi học âm nhạc. Quý vị nên biết, âm nhạc này là để diễn tấu cho Ngọc Đế nghe, chứ không phải là ở trong Phật giáo. Sau khi quy y với Phật, họ trở thành hộ pháp của Phật giáo, gọi là trời rồng tám bộ quỷ thần; có vị là quỷ, có vị là thần, làm hộ pháp cho Phật giáo. Quý vị không nên khăng khăng phải đi học âm nhạc. Có bốn Càn-thát-bà vương:
“Nhạc Càn-thát-bà vương”: âm nhạc do vị này tấu rất êm tai.
“Nhạc Âm Càn-thát-bà vương”: âm nhạc do vị này tấu lại còn hay hơn cả vị trên.
“Mỹ Càn-thát-bà vương”: có một Càn-thát-bà vương tên “Mỹ”. Mỹ tức là tốt đẹp; nghĩa là nhạc do vị này tấu không những hay mà còn tươi đẹp.
“Mỹ Âm Càn-tát-bà vương”: vị này có thể tấu ra loại âm nhạc tươi đẹp, rất vi diệu, rất vui tai.
Bốn vị Càn-thát-bà vương này, “mỗi vị đem theo vô số trăm nghìn quyến thuộc câu hội”: cũng cùng với quyến thuộc của họ, tức các Càn-thát-bà nhỏ khác, đến hội Pháp Hoa này, nghe Phật nói pháp. Chúng ta không nên học ca hát, giống như chim vậy, vừa gặp mặt người khác, liền muốn hát cho họ nghe. Không nên học theo thái độ đó. Người đó còn muốn biện chứng với tôi, biện chứng gì nào? Họ nói: “Đây cũng là một trong tám vạn bốn nghìn pháp môn.” Họ cho rằng tấu âm nhạc cũng là một loại pháp môn, thật không biết hổ thẹn! Tự mình đắm trước nơi âm nhạc, còn muốn kêu gọi người khác giống như mình. Hạng người này thật đáng thương!
F5. CHÚNG A TU LA VƯƠNG
Có bốn A-tu-la vương: Bà-trĩ A-tu-la vương, Khư-la-khiên-đà A-tu-la vương, Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương, La-hầu A-tu-la vương, mỗi vị đem theo vô số trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Hữu tứ A-tu-la vương: Bà-trĩ A-tu-la vương, Khư-la-khiên-đà A-tu-la vương, Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương, La-hầu A-tu-la vương, các dữ nhược can bá thiên quyến thuộc câu.
“Có bốn A-tu-la vương”: Có bốn loại A-tu-la vương. A-tu-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vô Tửu, họ không có rượu để uống. Còn dịch là Vô Đoan Chính, tướng mạo của nam A-tu-la rất xấu xí, nhưng tướng mạo của nữ lại rất xinh đẹp. Vì sao họ có tên Vô Tửu? Vì họ có thiên phước của cõi trời, nhưng không có thiên quyền.
Trên trời có A-tu-la, nhân gian cũng có A-tu-la, trong loài ngạ quỷ, súc sanh cũng đều có A-tu-la. Bản chất của loại A-tu-la này chuyên thích đánh nhau, nhất định phải đánh bại kẻ khác, đấu tranh kiên cố, rất thích hơn thua. A-tu-la cũng có bè phái, bè phái của họ rất lợi hại, thường đánh nhau, thường đấu tranh với binh tướng nhà trời.
A-tu-la vương này có một cô con gái đã kết hôn với Ngọc Đế; vì sao Ngọc Đế lại kết hôn với con gái A-tu-la vương? Vì Ngọc Đế vẫn còn có thân xác, nên vẫn còn niệm dục; vì có niệm dục này nên chưa đoạn trừ được tâm dâm dục, cũng thích các cô gái đẹp. Một hôm, trông thấy nhan sắc cô con gái A-tu-la vương cực kỳ xinh đẹp, Ngọc Đế liền mê đắm ngay, xin được kết tình thông gia với A-tu-la vương. Vì nghĩ thế lực của Ngọc Đế cũng rất lớn, nên A-tu-la vương liền vui vẻ gả con gái ngay.
Sau khi kết hôn, do vì Ngọc Đế thích nghe Tiên nhân nói pháp, nên mỗi ngày đều đến chỗ của vị thần tiên này nghe pháp. Nhưng con gái A-tu-la vương lại sinh lòng hoài nghi, hoài nghi gì nào? Ồ! Ngày nào ông ta cũng đi ra ngoài, và trở về rất muộn, có lẽ đã chung chạ với cô gái khác rồi! Nên cô đã hỏi Ngọc Đế: “Ngày nào chàng cũng đi đâu vậy? Có phải chàng đã làm việc gì bất chính?” Ngọc Đế phủ nhận: “Không phải thế! Ta đến chỗ một vị thần tiên để nghe kinh, nên trở về rất muộn. Nàng chớ có đa nghi!”
Thế nhưng cô ta không tin Ngọc Đế đi nghe kinh, vẫn hoài nghi ông không giữ khuôn phép. A-tu-la nữ cũng có một thứ thần thông, có thuật tàng hình, tuy cô ta đang ở tại đây, nhưng mắt thịt của hạng phàm phu không nhìn thấy cô ta, ngay cả thiên nhãn của Ngọc Đế cũng không nhìn thấy. Thế là một hôm, khi Ngọc Đế ngồi xe đi nghe kinh, cô ta tàng hình cũng vào ngồi trong xe; đến nơi, Ngọc Đế xuống xe, cô cũng xuống xe. Ngọc Đế liền hỏi cô: “Nàng đến đây làm gì?” “Thế chàng đến đây làm gì?” “Ta đến nghe kinh!” “Thiếp cũng đến nghe kinh!” Vì còn là phàm phu, chưa phải người chứng quả thánh, nên Ngọc Đế vẫn có phiền não; ông ta liền cầm cọng hoa sen đánh A-tu-la nữ. Bị đánh, cô ta nổi giận trở về mách cha.
Khi Ngọc Đế kết hôn với A-tu-la nữ, trong lần đầu tiên thỉnh A-tu-la vương đến dự tiệc; để bày tỏ lòng cung kính đối với cha vợ, Ngọc Đế đã cho thiên binh thiên tướng dàn hai hàng đón tiếp.Nhưng A-tu-la vương đa nghi, nghi thế nào? Ông ta nghĩ: “Hừm! Ông muốn ra oai với ta à? Ta còn chưa thấy qua thiên binh thiên tướng này ư?” và có ý không vừa lòng về người con rể này. Cộng thêm lần này, khi cô con gái về mách: “Ngọc Đế hiện nay càng không giữ lề thói, mỗi ngày đều ra ngoài tìm những cô gái khác; con vừa mở miệng can ngăn, ông ta lại đánh con!” Nghe con gái nói thế, A-tu-la vương nổi cơn thịnh nộ “Được lắm! Ngọc Đế! Ta sẽ đấu với ông đến cùng!” thế là ông ta liền phát động binh chúng A-tu-la, đánh nhau với Ngọc Đế.
Thiên binh thiên tướng của Ngọc Đế xáp trận với binh chúng A-tu-la, thật kỳ lạ! Đánh trận nào cũng đều thua; Ngọc Đế không cách gì thắng được A-tu-la, bèn đến cầu xin Phật giúp đỡ. Đức Phật dạy: “Ông trở về, dạy thiên binh thiên tướng của ông đồng loạt niệm câu “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa” thì có thể thắng trận!”
Ồ! Quả nhiên khi họ niệm câu “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa”, quân A-tu-la đánh trận nào là thua trận nấy; thua đến nỗi không có nơi để trốn, phải trốn trong gương sen rỗng.
Vì sao A-tu-la không chịu nổi câu “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa” này? Lý này cần nghiên cứu. Trước khi chưa niệm “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa”, mỗi lần đánh là mỗi lần thắng; nhưng sau khi thiên binh thiên tướng nệm câu “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa” Phật dạy, thì quân A-tu-la bị thất bại dồn dập. Tại sao vậy? Vì tư tưởng của thiên binh thiên tướng và A-tu-la đều giống nhau, không có trí tuệ, nên đánh nhau loạn ngầu; đến khi niệm “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa”, thiên binh thiên tướng có được trí tuệ. A-tu-la là loại không có trí tuệ, ngu si rất nặng; kẻ không có trí tuệ đánh nhau với người có trí tuệ, nhất định phải thua thôi. Do đó, người có trí tuệ đánh nhau với người ngu si, trước sau gì người ngu cũng sẽ thất bại – đạo lý, nguyên lý của A-tu-la và thiên binh thiên tướng này cũng giống như vậy.
A-tu-la rất thích đánh nhau, bây giờ chúng ta có thể so sánh một chút, trên thế giới của chúng ta, người nào thích đánh nhau thì kẻ đó chính là A-tu-la. Không nhất định là A-tu-la trên trời mới thích đánh nhau, người ở nhân gian mà thích đánh nhau đều là A-tu-la hóa thân thành; ở trên trời, họ luôn sẵn sáng đánh nhau, khi đến nhân gian, họ vẫn cứ thích đánh nhau.
Có bốn A-tu-la vương, thứ nhất là “Bà-trĩ A-tu-la vương”: Bà-trĩ là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Bị Phược. Bị Phược chính là bị thiên binh thiên tướng trói. Hoặc dịch là Tối Thắng, vì có thể thắng tất cả cảnh tình dục.
“Khư-la-khiên-đà A-tu-la vương”: Khư-la-khiên-đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Quảng Kiên Giáp; kiên giáp chính là bả vai người. Ý nói bả vai của vị A-tu-la vương này rất rộng lớn, rất có sức mạnh, có thể gánh vác pháp.
“Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương”: vị A-tu-la vương vừa mới giảng chính là vị Tỳ-ma-chất-đa-la này. Tướng mạo của vị này cực kỳ xấu xí, nhưng con gái ông ta lại vô cùng xinh đẹp. Sau khi đánh nhau với Ngọc Đế, vị này bị thua trận phải bỏ trốn, nấp trong đài của hoa sen. Tỳ-ma-chất-đa-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Hải Thủy Ba Âm, âm thanh của loại sóng biển.
“La-hầu A-tu-la vương”: La-hầu là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Chướng Trì. Chướng là nghiệp chướng, trì là chấp trì (nắm giữ). Nói cách khác, vị này có thể dùng tay nắm lấy mặt trời mặt trăng, có thể dùng tay che khuất ánh sáng mặt trời mặt trăng, do vậy vị A-tu-la vương này có tên là Chướng Trì. Ông ta có thể ngăn che phiền não, cũng có thể nói ông ta bị phiền não ngăn che. Ông ta có thể ngăn che phiền não, tức là không có phiền não, đây là một cách giảng; lại có một cách giảng khác, là ông ta bị phiền não ngăn che, vì vậy suốt ngày luôn nóng nảy, muốn đánh nhau. Ý này thấy rất nhiều.
“Mỗi vị cùng với vô số trăm nghìn quyến thuộc câu hội.”: mỗi vịt A-tu-la vương dẫn theo rất nhiều quyến thuộc, cùng đến hội Pháp Hoa nghe Phật pháp.
F6. CHÚNG CA LẦU-LA
Có bốn Ca-lầu-la vương: Đại oai đức Ca-lầu-la vương, Đại Thân Ca-lầu-la vương, Đại Mãn Ca-lầu-la vương, Như Ý Ca-lầu-la vương, mỗi vị cùng với vô số trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Hữu tứ Ca-lầu-la vương: Đại oai đức Ca-lầu-la vương, Đại Thân Ca-lầu-la vương, Đại Mãn Ca-lầu-la vương, Như Ý Ca-lầu-la vương, các dữ nhược can bá thiên quyến thuộc câu.
“Có bốn Ca-lầu-la vương”: Ca-lầu-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Bàng Kim Sí Điểu. Quý vị còn nhớ con chim Đại Bàng kia không? Chính là nó đấy! Loại chim Đại Bàng cánh vàng này không nhất định đều là loài sanh từ trứng; thế nó sanh từ đâu? Có khi sanh từ thai, có khi do hóa sanh. Thân nó rất lớn, khi xòe cánh ra, phủ rộng đến ba trăm do-tuần; một do tuần bằng tám mươi dặm, ba trăm do-tuần là bao nhiêu dặm? Khi nó quạt cánh thế này, có thể tát cạn hết nước biển. Nước trong biển bị tát cạn, lộ ra đáy biển; rồng sống dưới đáy biển đều bị nó ăn thịt, từng con từng con một, như ăn mì sợi vậy. Quý vị thấy gà, chim nhỏ mổ trùng chưa? Trùng là thuộc chủng loại của rồng; phàm vua loài trùng đều là rồng. Chim nhỏ ăn trùng nhỏ, chim Đại bàng này thì ăn trùng lớn – ăn rồng; rồng cũng là trùng, chẳng qua nó lớn. Nó ăn thịt rồng đến khiến cho sắp tuyệt chủng. Quý vị xem, hiện giờ trên thế giới, chúng ta không còn thấy rồng nữa, vì sao vậy? Vì đã bị chim Đại Bàng cánh vàng ăn thịt hầu như sắp tuyệt chủng rồi!
Không còn rồng nữa, chim Đại Bàng cánh vàng cũng sẽ bị chết đói. Hiện giờ chúng ta không còn thấy chim Đại Bàng cánh vàng, đấy là vì không có rồng. Nó không có thức ăn, nên cũng không thể tồn tại. Do vậy trên thế gian này, nếu con người không có thức ăn thì cũng không thể tồn tại. Như thế, chim Đại Bàng cánh vàng phải ăn rồng, vua rồng đã đến chỗ Phật cầu cứu: “Hiện tại chủng loại rồng của chúng con sắp bị giết sạch rồi! Chính vì loài chim Đại Bàng cánh vàng này! Chúng con thật sự không thể chống cự lại. Sức mạnh của loại chim này có thể tát khô cả biển cả, để bắt các con cháu loài rồng chúng con ăn thịt, đến nỗi bây giờ loài rồng của chúng con sắp tuyệt chủng rồi! Xin Phật từ bi, giúp đỡ cho!”
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền cho vua rồng một mảnh ca-sa cũ của mình, bảo: “Ngươi hãy cầm lấy mảnh ca-sa cũ này, xé chia cho mỗi con rồng một sợi. Nếu các ngươi có sợi dây ca-sa này của Như Lai, chim Đại Bàng cánh vàng sẽ không bắt được các ngươi, không nhìn thấy các ngươi nữa!” Vua rồng trở về, làm theo lời Phật dặn. Quả nhiên, chim Đại Bàng lại tát cạn nước trong biển, nhưng không có rồng để ăn. Biết ngay là Phật đã giúp đỡ, không cho nó ăn thịt rồng; thế là chim Đại Bàng cánh vàng liền đến tìm Phật, đấu lý với Ngài. Nó hỏi Phật: “Ngài giúp đỡ những con rồng này, khiến cho chúng con không có thức ăn, bây giờ chúng con sắp chết đói rồi, Ngài liệu tính sao đây?”
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đáp: “Các ngươi sẽ không chết đói, cũng không cần phải ăn thịt rồng! Từ nay về sau, vào giờ ngọ mỗi ngày, các đệ tử của ta, trong khi dùng cơm, sẽ nhường một ít thức ăn cho các ngươi dùng!” Do vậy, khi chúng ta cúng ngọ buổi trưa, đã niệm: “Đại bàng kim sí điểu, khoáng dã quỷ thần chúng, La-sát quỷ tử mẫu, cam lộ tất cúng dường” (chim Đại Bàng cánh vàng, các quỷ thần đồng trống, mẹ con quỷ La-sát, cam lộ thảy cúng dường) đây chính là đem thức ăn cho chim Đại Bàng cánh vàng dùng. Từ đó về sau, chim Đại Bàng cánh vàng này quy y Tam bảo, không còn ăn thịt rồng nữa; nhưng rồng đã bị nó xơi gần hết, chẳng còn lại mấy con, hoặc giả vẫn còn lại bốn năm con, mỗi biển cũng chỉ có một con; bây giờ chúng ta cũng không còn trông thấy rồng nữa!
Chim Đại Bàng cánh vàng tuy có thân hình to lớn như thế, nhưng nó cũng có thần thông, có thể biến ra lớn hoặc nhỏ, cũng giống như rồng vậy. Quý vị nghĩ xem, rồng có thể biến hóa, nhưng lại trở thành một loại thức ăn của chim Đại Bàng cánh vàng; rồng mà nó ăn đều có thể biến hóa, đều có thần thông, từ đó cho thấy thần thông của nó cũng không thể lường được. Quý vị chớ cho rằng chỉ rồng mới có thần thông, thần thông của chim Đại Bàng cánh vàng còn lớn hơn!
“Đại Oai Đức Ca-lầu-la vương”: Ca-lầu-la vương này tên là Đại Oai Đức. Nó bay trong hư không, có thể che trời phủ đất, uy phong ấy, uy thế ấy thật rất lớn!
“Đại Thân Ca-lầu-la vương”: thân hình Ca-lầu-la vương vốn đã rất to rồi, vị Ca-lầu-la vương này lại còn đặc biệt to, to hơn cả thân hình những vị Ca-lầu-la vương khác! Nó cư ngụ trên cây to ở núi Kim Cương, hai cánh dang rộng đến ba trăm ba mươi sáu do-tuần.
“Đại Mãn Ca-lầu-la vương”: Đại Thân Ca-lầu-la vương vẫn chưa lớn khắp, Ca-lầu-la vương này đúng là lợi hại rồi! Chỉ cần nó ngồi vào biển cả, liền lấp đầy cả biển, nước biển sẽ phải đổ dồn đến nơi khác; hơn nữa, khi cánh của nó quạt thế này, sẽ khiến nước biển rẽ ra, nó vào biển ăn thịt rồng, vừa với ý mình.
“Như Ý Ca-lầu-la vương”: trên cổ vị Ca-lầu-la vương này có một hạt bảo châu như ý. Như ý, chính là thỏa ý vừa lòng; nó muốn thế nào thì được như thế ấy. Vì vậy khi nó muốn ăn rồng, rồng sẽ tự chạy vào trong miệng nó; không cần phải dùng cánh quạt nước biển, mới có rồng để ăn. Vừa muốn ăn, rồng liền tự động chui vào miệng nó; đại khái nó bảo: “Ngươi đến đây, đến đây! Cho ta ăn thịt nào!” con rồng này cũng rất nghe lời, liền cho nó ăn luôn!
“Mỗi vị cùng với trăm nghìn quyến thuộc câu hội”: mỗi Ca-lầu-la vương còn dắt theo rất nhiều rất nhiều quyến thuộc, cùng đến hội Pháp Hoa nghe pháp.
F7. CHÚNG NGƯỜI
Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi, cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội
Vi-đề-hi tử A-xà-thế vương, dữ nhược can bá thiên quyến thuộc câu.
“Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi”: Vi-đề-hi là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Tư Duy; trong lòng nghĩ đến vua A-xà-thế, con của họ. A-xà-thế là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vị Sinh Oán. Oán, là oán hận;Vị Sinh Oán, tức là khi vị vua này chưa sanh ra, đã xảy ra một sự việc bất lành. Ông ta còn có một tên nữa, là “Vô Chỉ”, tức không có ngón tay. Vì sao không có ngón tay? Khi ông ta ra đời, một vị thầy xem tướng đã tiên đoán vị thái tử này về sau sẽ giết cha. Nghe thế, Vua Tần-bà-sa-la, cha thái tử, vô cùng kinh sợ, rất ghét cậu ta, nên đã ném cậu ta từ trên lầu cao xuống, định giết chết, thế nhưng cậu ta chỉ bị gãy một ngón tay út mà không bị chết.
Vua A-xà-thế này, việc gì cũng từng làm qua, “giết cha”, tức giết cha của mình; “giết mẹ”, tức giết mẹ của mình; “giết A-la-hán”, người chứng quả A-la-hán, ông ta cũng đã giết luôn; “làm thân Phật chảy máu”, ông ta ném một hòn đá vào bàn chân Phật, khiến chân Phật bị rách da chảy máu, đây gọi là làm thân Phật chảy máu. Ồ! Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật chảy máu, năm tội nghịch ông ta đều làm đủ cả! Trong “Kinh Thập Lục Quán” có nói về câu chuyện này.
Sở dĩ vua A-xà-thế đại nghịch bất đạo như thế, chính vì khi còn làm thái tử, đã kết bạn với Đề-bà-đạt-đa; Đề-bà-đạt-đa là anh em chú bác với Phật, nhưng ông ta lại chuyên phá hoại Phật, chuyên phỉ báng Phật, những việc ông ta làm đều rất cổ quái. Biết A-xà-thế sau này sẽ làm hoàng đế, nên ông ta đã kết đảng với A-xà-thế, xui A-xà-thế giết cha, và giết cả mẹ mình; đợi khi A-xà-thế lên làm vua, ông ta sẽ lại xui vị hoàng đế này giết luôn cả Phật. Đề-bà-đạt-đa muốn làm tân Phật; hai người họ dự bị tân Phật và tân vương sẽ cùng nhau cai trị thiên hạ. Quý vị xem! Uy đức của Phật lớn như thế, vậy mà anh em chú bác của Ngài lại phản đối, chuyên tìm cách hại Ngài.
A-xà-thế nghe theo lời xúi dục của Đề-bà-đạt-đa, chính là kiểu gây chia rẽ, thế là bắt cha của mình là vua Tần-bà-sa-la giam vào trong ngục. Nhà ngục có bảy lớp tường, phải đi qua bảy lần cửa mới có thể gặp được vua cha, có thể nói là còn kiên cố hơn cả tường đồng vách sắt. A-xà-thế bỏ tù cha ở chỗ đó, không cho thức ăn, cũng không cho nước uống, để cho vua cha phải chết đói, cũng không cho phép bất cứ ai đến thăm. Ông ta là một thái tử, bắt nhốt vua cha lại, thế thì ông ta được làm hoàng đế rồi; ông ta hạ lệnh, bất cứ ai cũng không được phép đến thăm vua cha.
Hoàng hậu Vi-đề-hi rất kính yêu chồng, nên đã len lén đến ngục thăm vua Tần-bà-sa-la. Trên đầu người nữ thời xưa đều có đội một số chuỗi ngọc, ruột của những hạt chuỗi này rỗng; bà đã đổ nước ép nho vào trong ruột của những hạt chuỗi, rồi đội chuỗi bảo châu này lên đầu, len lén đem đến cho chồng uống.
Các vị nói xem, bà sanh ra đứa con như thế, muốn cha mình chết đói! Khi Vi-đề-hi đem nước ép quả nho đến cho vua Tần-bà-sa-la, cả hai cùng khóc trong ngục. Với hoàn cảnh hiện tại, quá ư đau khổ, vua Tần-bà-sa-la đã hướng về núi Kỳ-xà-quật vọng bái đức Phật Thích-ca Mâu-ni: “Phật ơi! Ngài là đấng Đại giác, đầy đủ tất cả trí, Ngài nhất định biết được hiện tại con đang chịu nỗi đau khổ này, xin hãy đến cứu con với!” Họ vừa vọng bái Phật, Ngài liền biết ngay, thế là Ngài phái Đại Mục-kiền-liên đến đấy nói pháp cho Vi-đề-hi và vua Tần-bà-sa-la nghe.
Về sau biết được việc làm của mẹ, vua A-xà-thế vô cùng tức giận, định giết chết bà, nhưng nhờ sự can gián của đại thần Kỳ-bà, Vi-đề-hi mới thoát chết, nhưng cũng bị giam trong ngục. Ở trong ngục, với những gì phải nếm trải, bà vô cùng đau khổ, cũng lại vọng bái đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Phật ẩn khỏi núi Kỳ-xà-quật, xuất hiện nơi vương cung. Vi-đề-hi lễ bái xong, vừa ngẩng đầu lên đã thấy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, thân màu vàng tía đang ngự trên hoa sen kết bằng trăm thứ báu, tôn giả Mục-kiền-liên hầu bên trái, tôn giả A-nan hầu bên phải.
Trông thấy đức Thế Tôn, bà Vi-đề-hi nằm lăn ra đất gào khóc, thưa: “Bạch Thế Tôn! Thế giới này quá khổ! Con không muốn làm người ở thế giới này nữa! Con mong muốn đến một thế giới tốt đẹp khác, không phải chịu nhiều nỗi đau khổ như thế này nữa. Rốt cuộc đời trước con đã tạo tội lỗi gì, vì sao lại sanh ra một đứa con như thế, muốn giết chết cha mẹ của mình, thế giới này có gì tốt đẹp chứ? Xin Phật hãy chỉ cho con một con đường sáng, để con được sanh đến thế giới đó.”
Thế là đức Phật liền dạy “Kinh Thập Lục Quán”, dạy bà cách dụng công tu tập. “Kinh Thập Lục Quán” này có mười sáu kiểu quán pháp, chính là niệm “Nam mô A-di-đà Phật”, là dạy người cầu sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Bà Vi-đề-hi liền y theo pháp này mà tu hành, quả nhiên sau đó liền được sanh về thế giới Cực Lạc.
Vua A-xà-thế này đã giết cha, giết mẹ, lại còn phá hòa hợp tăng, giết A-la-hán, và còn làm thân Phật chảy máu, tội ngũ nghịch này vốn không thể sám hối, không cách gì có thể cứu vãn được; nhưng vì sau đó ông ta biết mình đã sai, đến trước Phật khóc lóc thiết tha xin sám hối, tự sửa lỗi lầm, Phật cũng đã xá ông ta vô tội! Vua A-xà-thế là là người cực kỳ hung ác, nhưng ông ta vẫn có thể bỏ ác làm lành; vì vậy ở trong hội Pháp Hoa này ông ta cũng tham gia. Hiện ở tại nơi ấy, ông ta lại cùng “bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội”: cùng với họ hàng thân thuộc, với các đại thần và thần dân của ông ta đều đến nghe kinh.
[1] Hạnh Đầu-đà 頭陀行 (S: dhūta-guṇa): tu tập khổ hạnh, giảm thiểu tối đa ba nhu cầu ăn, ở, mặc. Người tu hạnh đầu-đà, phải tuân thủ mười hai hạnh: 1- Ở A-lan-nhã; 2- Thường hành khất thực; 3- Khất thực theo thứ tự; 4- Ngày ăn một bữa; 5- Không ăn quá nhiều; 6- Sau ngọ trai, không được uống nước trái cây; 7- Đắp y bá nạp; 8- Chỉ có ba y; 9- Ở trong nghĩa địa; 10- Ngủ dưới gốc cây; 11- Ngồi chỗ đất trống; 12- Thường ngồi không nằm.
[2] Bỏ Tiểu thừa, hướng tâm về Đại thừa.
[3] Diệu quan sát trí 妙觀察智 (S: pratyavekṣaṇā-jñāna): trí tuệ xảo diệu quán sát các pháp mà tự tại nói pháp.
[4] Chúng ảnh hưởng 影響眾: một trong bốn chúng. Vì để tán trợ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giáo hóa, chư Phật cùng với pháp thân Bồ-tát ứng hiện thân như bóng, như tiếng vang. Đấng Pháp chủ Thích-ca như âm thanh, các Bồ-tát như tiếng vang; giống như các ngôi sao vây quanh mặt trăng, tuy không thấy tạo tác nhưng làm lợi ích rất lớn.
[5] Di hầu 獼猴 (Cg: Mã hầu; S: markaṭa): một loài khỉ, lông đen xám, mặt đỏ, mõm nhô ra.
[6] Thích-đề-hoàn-nhân 釋提桓因 (S: Śakra-devānām-indra; Cg: Đế Thích thiên): vua cõi trời Đao-lợi, là một trong mười hai vị trời trấn giữ phương đông, chuyên thủ hộ Phật pháp.
[7] Tứ Đại thiên vương 四大天王: (Cg: Tứ hộ thế): bốn vị vua trời ở lưng chừng bốn phương núi Tu-di, chuyên giữ gìn Phật pháp, che chở chúng sinh trong bốn đại châu.
[8] Khổ (苦) còn có nghĩa là vị đắng. Ngược với “đắng” là “ngọt”.
D2. TỔNG KẾT CHÚNG VÂN TẬP
Mỗi vị đều lễ chân Phật, lui ngồi một bên.
Các lễ Phật túc, thoái tòa nhất diện.
Bốn chúng và tám bộ trời rồng đã nói ở trước, mỗi vị đều đảnh lễ Phật; sau khi đảnh lễ rồi liền lui ra ngồi một bên, đến chỗ họ nên ngồi.
B2. Tựa riêng (nói riêng hai môn Tích và Bổn). Phân 5 phần:
C1. Tựa về việc chúng vân tập;
C2. Tựa về việc hiện điềm lành;
C3. Tựa về tâm nghi;
C4. Tựa về việc thưa hỏi;
C5. Tựa về việc trả lời
C1. TỰA VỀ CHÚNG VÂN TẬP
Bấy giờ, bốn chúng nhiễu quanh Đức Thế Tôn, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen.
Nhĩ thời Thế Tôn, tứ chúng vi nhiễu, cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán.
Bấy giờ: tức là ngay trong lúc ấy. Thế Tôn: chính là Phật. Bốn chúng: là bốn chúng đệ tử. Bốn chúng này, có hai cách nói, có thể nói là bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di; cũng có thể nói là bốn chúng: chúng phát khởi, chúng đương cơ, chúng kết duyên và chúng ảnh hưởng.
Tỳ-kheo là người nam xuất gia; Tỳ-kheo-ni là người nữ xuất gia, đây là hai chúng xuất gia. Tỳ-kheo là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung Hoa có ba nghĩa: khất sĩ, bố ma và phá ác; Tỳ-kheo-ni cũng có ba nghĩa này. Vì vậy chúng Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo-ni là nội quyến thuộc của Phật, là hai chúng xuất gia, cũng là chúng hành pháp, là chúng tu hành cốt yếu. Ưu-bà-tắc là cư sĩ nam; Ưu-bà-di là cư sĩ nữ, đây là hai chúng tại gia. Hai chúng xuất gia hợp chung với hai chúng tại gia, gọi là bốn chúng đệ tử. Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hoa là cận sự nam và cận sự nữ; họ gần gũi chùa chiền, gần gũi Tam Bảo, có thể phụng sự Tam Bảo, đây gọi là hai chúng bên ngoài, là hộ pháp.
Chúng phát khởi – họ hiểu biết đạo lý của Phật, thấy cơ duyên đã chín mùi, bèn phát khởi thưa hỏi Phật về đạo lý này; họ có trí tuệ, lại có quyền mưu. Quyền mưu, chính là có loại trí tuệ phương tiện quyền xảo. Có trí tuệ, họ liền có thể thấy thời cơ, có thể hiểu rõ bây giờ là lúc nào, cần phải nói pháp nào; thế là họ liền phát khởi, thỉnh Phật nói pháp.
Chúng đương cơ – “đương cơ”, chính là Phật đối với hạng người này sẽ nói loại pháp này. Giống như chúng đương cơ của “Kinh Kim Cang” chính là Tu-bồ-đề; chúng đương cơ của “Kinh Di-đà” chính là Xá-lợi-phất và tất cả các vị Đại A-la-hán, Đại Bồ-tát. Chúng đương cơ của “Kinh Lăng Nghiêm” chính là A-nan và hai mươi lăm thánh tăng. Các kinh điển khác cũng đều như thế cả, đây là Phật tùy theo từng đối tượng mà thuyết pháp.
Chúng ảnh hưởng – họ vốn đã hiểu rõ pháp của Phật, vả lại cũng đã rất nhiều lần được nghe Phật nói pháp, nên hiện tại họ nghe hay không nghe đều được cả; nhưng họ vẫn muốn đến để ủng hộ pháp hội, làm chúng ảnh hưởng. Khi họ đến như thế, những người khác thấy liền tự nhủ: “Ồ! Những vị Đại Bồ-tát này đều đến nghe kinh!” thế là mọi người cũng hoan hỷ nghe kinh. Nếu như không có những vị Đại Bồ-tát này đến nghe kinh, họ sẽ sinh khởi một thứ tâm không tin: “Pháp hội này chẳng có ai đến nghe, chắc là kinh Phật giảng cũng chẳng có gì thú vị!”; các vị Đại Bồ-tát này đến nghe kinh, khiến cho các vị A-la-hán, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trông thấy, liền khởi lòng tin và lòng thành đối với pháp, chú mục ngưng thần, rửa tai kính nghe. Mắt không chớp động, tập trung chú ý vào một chỗ, gọi là chú mục ngưng thần. Rửa tai kính nghe, giống như rửa sạch lỗ tai, cung kính nghe Phật thuyết pháp. Vì sao lại như thế? Chính là chịu sự ảnh hưởng của chúng ảnh hưởng này, khiến họ phát tâm.
Chúng kết duyên – tự họ cảm thấy không có pháp duyên với những người trong pháp hội này, nên đã đến để kết duyên. Kết duyên thế nào đây? Ví dụ ở nước Mỹ, có rất ít pháp hội giảng kinh; nếu đến Trung Hoa, quý vị sẽ thấy có rất nhiều pháp hội giảng kinh, chỗ này giảng kinh, chỗ kia cũng giảng kinh. Có khi, người nghe giảng kinh mua theo một ít kẹo, người ba viên, kẻ năm viên chia cho mọi người cùng ăn; có khi có người mua một ít bánh tây, trước dâng cúng Phật, cúng Pháp, cúng Tăng sau đó chừa lại một số, phân chia cho mọi người để kết duyên. Có khi có người mua trái cây, chia cho mọi người cùng ăn vui vẻ để kết duyên. Vì sao họ muốn kết duyên? Vì họ nhận thấy không có duyên với ai cả, không thể chung sống với những người thân thích, với bạn bè cũng không thể sống chung, mọi người đều không thích anh ta; thế là anh ta muốn kết duyên với mọi người, nên mời người ăn một chút gì đó, hoặc tặng người một chút phẩm vật gì đó, cũng có khi cúng dường tiền, đây gọi là kết duyên. Ở Trung Hoa, người đi nghe kinh, không chỉ là người tại gia, mà phần lớn là người xuất gia; nên người tại gia, hoặc mua một ít vải, hoặc mua một ít đồ vật gì đó để cúng dường người xuất gia. Tóm lại là họ mua những vật dụng thường dùng hằng ngày để cúng dường cho người xuất gia, hoặc mua một ít gì đó để kết duyên với những người ở trong pháp hội, đây gọi là chúng kết duyên.
Bốn chúng đệ tử này đều có mặt đầy đủ trong hội Pháp Hoa này. Nhiễu quanh (vi nhiễu): vi là vây quanh, nhiễu là chuyển động vòng quanh. Giống như hôm chúng ta khai quang, vừa đi vòng quanh, vừa niệm “Nam mô A-di-đà Phật” vậy. Trong buổi lễ của Phật giáo, gọi là nhiễu Phật; nhiễu Phật ba vòng từ phải sang trái như thế này. Sau này, chúng ta có mở một bữa cơm chay gì, đều nhớ phải có một quy củ nhất định. Quy củ thế nào? Ví dụ như vào bữa ăn hôm qua, cần phải giống như nhiễu Phật thế này, bắt đầu từ bên phải, lấy thức ăn xong, đi ra phía bên trái; làm thế thì mọi người sẽ không đụng đầu nhau, không đâm vào nhau, anh đụng phải tôi, tôi đụng phải anh, chẳng có quy củ gì cả! Nếu như người đi bên phải, kẻ đi bên trái, tuy vẫn có thể đi được, nhưng mọi người sẽ va vào nhau, đây là vì không có quy củ, mạnh ai nấy chen.
Sau khi đức Phật thành Phật, ban đầu mọi người cũng không biết phải cư xử với Phật như thế nào, có lễ tiết như thế nào; khi ấy, vị trời ở Tịnh Cư thiên liền hóa thành người trần, đến trước Phật, nhiễu quanh Ngài ba vòng theo phía phải thế này, sau đó cúi lạy Phật sát đất rồi lui ra ngồi một bên. Ý của từ nhiễu quanh chính là như vậy đấy.
Cung kính cúng dường: Không chỉ cúi cầu lạy sát đất, mà còn cúng dường Phật. Nhiều người như vậy, cúng dường Phật thế nào đây? Đều phải dùng tâm thật sự cung kính để cúng dường Phật. Cung kính, tức năm vóc phải cúi lạy sát đất; trong Phật giáo, năm vóc gieo sát đất lễ lạy là một thái độ lễ phép kính trọng cực kỳ. Cung kính, phải là thân tâm đều cung kính, không phải nói thân cung kính mà tâm không cung kính; cũng không phải nói tâm cung kính mà thân không cung kính; cần phải trong ngoài hợp nhất.
Tôn trọng ngợi khen: vừa phải tôn trọng Phật, vừa khen ngợi Phật. Tôn trọng, là không xem thường; khen ngợi là dùng ngàn vạn bài kệ để ca ngợi Phật, tán thán Phật là hy hữu, trên đời này không một ai bằng Ngài cả. Giống như hiện giờ chúng ta tụng kinh, trong phần xướng tán có một câu “A-di-đà Phật thân kim sắc, tướng hảo quang minh vô đẳng luân” (Thân Phật Di-đà sắc vàng ròng, tướng tốt rạng ngời không gì sánh), để ca ngợi Phật, hoặc “Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới diệc vô tỷ; thế gian sở hữu ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả”(trên trời dưới thế không ai bằng, mười phương thế giới cũng như vậy; tất cả những người con tận thấy, không một ai bằng được Phật cả), đấy đều là những lời kệ dùng để ca ngợi Phật. Những lời lẽ dùng để ca ngợi Phật đều nói Ngài tối tôn, tối quý; tóm lại là ra sức ca ngợi Phật.
Giờ tôi lại giảng về “kết duyên”, kết duyên là điều rất quan trọng; nếu quý vị không kết duyên, cho dù quý vị đối xử với người khác tốt như thế nào, họ vẫn bất mãn với quý vị. Vì sao thế? Chính là vì không có duyên.
Trước đây, có một vị pháp sư rất thông minh, những kinh điển ông ấy xem qua một lượt liền nhớ ngay; không tối dạ như tôi, vì tôi phải xem qua ba lượt mới nhớ được. Vị ấy thông suốt các kinh và giảng kinh rất lưu loát, thậm chí chư thiên còn đến nghe vị ấy giảng kinh. Nhưng rồi thế nào? Người trên trời xuống nghe giảng kinh, nhưng người ở nhân gian lại không có ai đến nghe. Vì sao người trên trời xuống nghe? Vì vị ấy giảng quá thần diệu; Vì sao người ở nhân gian không có ai đến nghe? Vì vị ấy không có duyên với họ. Đã là người có trí tuệ, vị pháp sư này tất nhiên cũng hiểu rõ nhân duyên này, nhân quả này, nên ông ta đã mua rất nhiều gạo, sau đó vào trong núi, để làm gì thế? Cho chim ăn; từ sáng đến tối, ông ta niệm “chú Đại Bi”, “chú Lăng Nghiêm”, gia trì vào trong số gạo này. Ông ta quán tưởng: những con chim ăn nào những hạt gạo này, liền bỏ thân cầm thú, thác sinh làm người; thế là suốt ngày, ông ta cho chim ở quả núi này ăn. Quý vị xem, con chim này biết được nơi đây có người cho ăn, liền giới thiệu với một con chim khác, cứ một con giới thiệu với một con, cuối cùng có rất nhiều chim đã kéo đến núi này để kiếm ăn. Vị pháp sư đã làm việc này trong suốt hai mươi năm, sau đó ông ta lại ra giảng kinh.
Lúc này, khi ông ta giảng kinh, tình hình không còn như trước kia nữa! Tất cả thanh niên đều đến nghe, hơn nữa còn rất cung kính ông ta, cúi lạy sát đất; lại rất vâng lời, pháp sư nói gì thì họ nghe nấy, phải nói là tin đến cực điểm. Lai lịch của những người thanh niên kia thế nào? Họ chính là những con chim đã được vị pháp sư cho ăn trước kia, nay được thác sinh làm người cả. Vì nhận được pháp thực của pháp sư, nhận được lòng tốt của ngài đối với chúng, vì vậy sau khi được làm người, họ đã không quên ân đức của vị pháp sư, nên đã đến ủng hộ ngài.
Ở đây chúng tôi có ba vị Tăng, tính cả tôi là bốn; tôi giảng kinh, có người nghe hay không có người nghe, tôi cũng mặc. Nếu sau này quý vị giảng kinh mà không có người nghe, thì hãy đi cho chim ăn; cho chúng ăn rồi, thì hội chúng của quý vị sẽ rất đông. Đấy là vì quý vị đã kết duyên với một số chim, nên khi chúng thác sinh làm người, sẽ đến nghe Phật pháp. Quý vị nên chú ý điểm này, nên kết duyên với tất cả mọi người, không nên nổi giận; nếu như quý vị nổi cáu với người khác, tức là không có duyên. Không có duyên, quý vị sẽ trở thành một vị pháp sư cô độc, chẳng có ai tin tưởng quý vị; quý vị đi đến nơi nào, cũng chẳng có ai cúng dường, sau này không chừng còn bị chết đói nữa là khác.
Về việc “cúng dường”, quý vị nên dùng tâm chân thành để cúng dường, nên dùng tâm thành khẩn để cúng dường. Tâm chân thành, tức là những thứ vốn không thể buông xả, nếu quý vị đem cúng dường bố thí, đó là tâm chân thành; cũng như những vật quý vị rất yêu thích, không nỡ lìa bỏ, nếu quý vị có thể xả bỏ nó, đây gọi là tâm chân thành. Tâm thành khẩn, chính là không có tạp niệm, làm việc với tâm chân thực, thành khẩn; cũng chính là chuyên nhất, không có hai lòng khi cúng dường.
Trước kia, có một người ăn mày thấy mọi người đều cúng dường Tam Bảo để tu tạo công đức; bản thân ông ta lại chẳng có nhiều tiền, nhưng đã lấy toàn bộ số tiền có được mua một cân dầu, đem đến cúng dường thường trụ, cúng dường cho chùa. Cúng dường cho chùa, chính là cúng dường Tam Bảo – cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Vị hòa thượng Phương trượng ở đây đã đắc thiên nhãn thông, đợi khi ông ta vừa đến cổng liền ra đón tiếp, mời vào phòng Phương trượng, vui vẻ thăm hỏi, lại còn mời ông ta dùng cơm chay. Ngay lúc đó, cũng có một người nhà giàu đem một tĩnh dầu đến cúng; tĩnh này khoảng chừng hai ba trăm cân, so với một cân dầu của người ăn mày kia, nhiều gấp hai ba trăm lần. Người nhà giàu kia cũng đem đến chùa cúng dường Tam Bảo, nhưng hòa thượng Phương trượng chỉ bảo vị tri khách ra tiếp, chứ bản thân ngài không ra tiếp.
Các Tỳ-kheo và Sa-di trong chùa đều lấy làm lạ về chuyện này, nên đã thưa hỏi hòa thượng Phương trượng: “Vì sao một người nghèo như thế, chỉ mua một cân dầu đem đến mà Ngài lại đích thân ra cổng chào đón, lại còn mời ông ta vào phòng Phượng trượng dùng cơm chay? Trong khi một người khác đem đến hơn ba trăm cân dầu, nhiều gấp ba trăm lần so với người này, mà Ngài lại không ra đón tiếp, chào hỏi ông ta? Mọi người đều không thể nào hiểu được, xin Phương trượng hãy giải thích cho chúng con rõ vấn đề này ạ!”
Vị hòa thượng Phương trượng liền bảo: “Tại các vị không biết, người nghèo cúng dường một cân dầu này, ông ta chỉ có bấy nhiêu tiền, cũng chỉ có thể mua được bấy nhiêu dầu đó thôi để cúng dường. Các vị nói xem có phải là ông ta thành tâm hay không? Còn người mua ba trăm cân dầu kia, ông ta là người giàu có, không chỉ ba trăm cân, thậm chí còn thừa sức mua đến ba vạn cân; với thân phận của ông ta, đây là một chuyện rất bình thường. Còn người nghèo này, ông ta đã dùng lòng chân thành, với thứ khó xả lại có thể xả; ông ta đã xả bỏ toàn bộ tài sản của mình. Các vị bảo xem, nếu không phải là một vị đại hộ pháp, ông ta chịu làm thế à? Vì vậy ta tiếp đón ông ta, mời ông ta dùng cơm chay. Còn người kia, tài sản trong nhà ông ta nhiều vô số kể, ba trăm cân dầu ông ta bỏ ra cúng dường, chỉ là hạt cát trong sa mạt (nguyên văn: cửu ngưu nhất mao), ta hà tất phải tiếp đãi ông ta chứ?”
C2. TỰA VỀ VIỆC HIỆN ĐIỀM LÀNH (phân 2 phần)
D1. SÁU ĐIỀM LÀNH Ở CÕI NÀY (phân 6 phần)
E1. Điềm lành thuyết pháp; E2. Điềm lành nhập định; E3. Điềm lành mưa hoa; E4. Điềm lành đất chấn động; E5. Điềm lành chúng hoan hỷ; E6. Điềm lành phóng quang
E1. ĐIỀM LÀNH THUYẾT PHÁP
Vì các Bồ-tát thuyết kinh Đại thừa, tên Vô Lượng Nghĩa, là pháp dạy cho hàng Bồ-tát, được Đức Phật hộ niệm.
Vị chư Bồ-tát thuyết Đại thừa kinh, danh Vô Lượng Nghĩa, giáo Bồ-tát pháp, Phật sở hộ niệm.
Vì các vị Bồ-tát mà nói kinh Đại thừa này, tên của kinh này là “Vô Lượng Nghĩa”. Tức là trước khi nói “Kinh Pháp Hoa”, Đức Phật nói “Kinh Vô Lượng Nghĩa”, đây là pháp môn dạy cho hàng Bồ-tát, được Đức Phật hộ niệm.
Khi Phật sắp nói “Kinh Vô Lượng Nghĩa”, có sáu tướng điềm lành: điềm lành thuyết pháp, điềm lành nhập định, điềm lành mưa hoa, điềm lành đất chấn động, điềm lành đại chúng hoan hỷ và điềm lành phóng quang. Hiện tại đây, chính là điềm lành thuyết pháp. Thuyết pháp là một tướng của điềm lành. Có người nghe thế liền hỏi: “Phật vẫn thường thuyết pháp, thường nhập định, giống như ăn cơm hằng ngày, sao lại trở thành điềm lành chứ?” Vì lần thuyết pháp này không giống với những lần thuyết pháp khác. Sau lần thuyết pháp này, Ngài liền nhập định (điềm lành nhập định); sau khi nhập định, liền có mưa hoa (điềm lành mưa hoa); khi trời tuôn mưa hoa, mặt đất liền chấn động (điềm lành đất chấn động); mặt đất chấn động, mọi người đều vui mừng (điềm lành đại chúng hoan hỷ); sau đó, tướng lông trắng giữa hai chặn mày của Phật phóng ra ánh sáng (điềm lành phóng quang). Đây là một nhân duyên đặc biệt, tình hình đặc biệt; vì vậy sáu hiện tượng này được gọi là sáu tướng điềm lành.
Vì các Bồ-tát thuyết kinh Đại thừa: Phật nói kinh Đại thừa cho tất cả các vị Bồ-tát này. Các vị Bồ-tát ở trong đại pháp hội này, tức là “tám vạn người” đã nói ở đoạn kinh trước; những vị này đều là Đại Bồ-tát, các ngài đến nghe kinh điển Đại thừa này. Kinh điển Đại thừa có bảy ý nghĩa:
(1). Pháp đại: mười hai bộ kinh trong ba tạng giáo đều bao quát trong kinh điển Đại thừa. Tiểu thừa không thể bao quát Đại thừa, nhưng Đại thừa lại bao quát Tiểu thừa; vì vậy là bậc nhất, chính là Pháp đại.
(2). Phát đại tâm: phát tâm đại bồ-đề, không phải phát tâm tiểu bồ-đề. Tâm đại bồ-đề này, từ khi còn là phàm phu cho đến khi thành Phật, vĩnh viễn không lui sụt, tâm bồ-đề không lui sụt, gọi là tâm đại bồ-đề.
(3). Hiểu rõ đại tạng: các vị ấy có thể hiểu rõ nghĩa lý Bồ-tát tạng của Đại thừa, căn cứ theo pháp Bồ-tát tạng này mà tu tập đại tạng.
(4). Tịnh đại: các vị ấy có khả năng thấy được đạo, thấy đạo này rồi thì tâm thanh tịnh cũng lớn; Bồ-tát học pháp Đại thừa, tâm tịnh của các ngài rất lớn.
(5). Trang nghiêm đại: dùng gì để trang nghiêm? Phước trí trang nghiêm; các vị ấy dùng phước đức và trí tuệ để tự trang nghiêm.
(6). Thời gian đại: đức Phật đã tu trì trong suốt ba đại a-tăng-kỳ kiếp, đây cũng có thể nói là “nhân đại”.
(7). Cụ túc đại: cụ túc, tức là viên mãn Lục độ vạn hạnh, dùng tướng tốt để tự trang nghiêm mà được quả bồ-đề, vì vậy cũng có thể nói “quả đại”.
Vì có bảy ý nghĩa này, nên gọi là Đại thừa.
Có người nói Đại thừa là Mahayana! Thế nào là Mahayana? Tôi hỏi họ có bao nhiêu, tức là hỏi Đại thừa này có bao nhiêu ý nghĩa? Anh ta không biết. Bây giờ quý vị đã được nghe rồi đó, “Đại thừa” có bảy thứ đại, nhưng đại này so với bảy thứ đại của “Ma-ha-tát” có phần khác nhau. Thuyết kinh Đại thừa, “thuyết” là giảng nói. “kinh” là kinh điển. Kinh, tiếng Phạn là Tu-đa-la (Sutra), Trung Hoa dịch là khế kinh; trên khế hợp với đạo lý của chư Phật, dưới khế hợp với căn cơ của chúng sanh. Còn có rất nhiều ý nghĩa nữa, nhưng không cần thiết lặp lại.
Tên Vô Lượng Nghĩa: Trước khi nói “Kinh Pháp Hoa”, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã nói qua bộ “Kinh Vô Lượng Nghĩa”. Vô lượng nghĩa, tức là nghĩa nhiều không có số lượng. Nhưng, vô lượng này từ đâu có? Từ hữu lượng mà ra; hữu lượng từ đâu mà có? Là từ “một” mà ra; “một” từ đâu có? Từ vô tướng mà ra; vô tướng từ đâu có? Từ thật tướng mà ra. Vì vậy nói thật tướng chính là vô tướng (thật tướng vô tướng). Nghĩa vô lượng chính là từ nghĩa hữu lượng mà ra; nghĩa hữu lượng lại từ “nghĩa của một” – ý nghĩa đệ nhất (đệ nhất nghĩa) mà ra; ý nghĩa đệ nhất từ đâu có? Từ nghĩa vô tướng mà ra; nghĩa vô tướng chính là từ nghĩa thật tướng mà ra.
“Thật tướng là vô tướng” này không có tướng gì? Không có tướng sanh tử, không có tướng “không”, cũng không có tướng Niết-bàn. Không có tướng sanh tử, không có tướng Niết-bàn, gọi đó là thật tướng. Nhưng là không đâu mà không có tướng (vô sở bất tướng), vô lượng nghĩa đều là từ thật tướng mà ra; vì vậy: “Kinh Vô Lượng Nghĩa” cũng chính là kinh thật tướng nghĩa. Mấy hôm trước, vì sao tôi giảng chữ “các” thành chữ “một”? Chính là ý này đây, cũng chính là “Vô lượng là một, một là vô lượng”; thậm chí ngay cả “một” cũng chẳng có, đấy chính là thật tướng.
Vì sao có “một”? Là từ “không có một” mà ra; thế mà người ta cố ý chồng lên đầu thêm một cái đầu (đầu thượng an đầu), chính là kiếm ra cái “một”. Vốn không có việc lại kiếm việc để làm; vốn không có phiền phức, lại tự tìm một chút việc phiền phức để làm.
Hiện nói “Kinh Vô Lượng Nghĩa” này là để làm gì? Pháp dạy cho hàng Bồ-tát: đây là phương pháp giáo hóa hàng Bồ-tát Đại thừa hành Bồ-tát đạo. Bồ-tát học pháp Đại thừa, được Đức Phật hộ niệm: Pháp này, vốn Phật không muốn nói, im lặng đã lâu (cửu mặc) không nói – ‘mặc’, tức im lặng không giảng nói, ‘cửu mặc’ là rất lâu, Đức Phật vẫn không nói pháp Đại thừa này. Vì sao? “Kinh Vô Lượng Nghĩa” là do Phật tự chứng đắc, nên được Phật hộ niệm. Phật không muốn nói pháp Đại thừa này, vì nếu nói ra, sẽ khiến cho tất cả chúng sanh không tin tưởng; không tin tưởng, tức là không khế hợp căn cơ, vì vậy đã rất lâu mà Phật vẫn không giảng pháp này.
E2. ĐIỀM LÀNH NHẬP ĐỊNH
Phật thuyết kinh này rồi, ngồi kết-già, nhập Vô lượng nghĩa xứ tam-muội, thân và tâm đều không động.
Phật thuyết thử kinh dĩ, kết-già phu tọa, nhập ư vô lượng nghĩa xứ tam-muội, thân tâm bất động.
Đây là tướng thứ hai, điềm lành nhập định.
“Phật nói kinh này rồi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết xong bộ kinh này. Là bộ kinh nào? Có phải đã thuyết xong bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này? Không phải, đây là bộ “Kinh Vô Lượng Nghĩa”; chính là bộ kinh “Pháp dạy cho hàng Bồ-tát, được Đức Phật hộ niệm”. Khi Phật thuyết xong “Kinh Vô Lượng Nghĩa”, lý ra phải nghỉ ngơi; nhưng Phật không nghỉ, Thế Ngài làm gì?
Ngồi kết-già (kết-già phu tọa): ngồi kết-già, còn gọi là thế ngồi hoa sen, có hai cách ngồi: kết-già và bán già. Vì sao phải ngồi kết-già? Ngồi kết-già có thể giúp quý vị tu đạo. Ngồi kết-già cũng có thể nói là thế ngồi kim cang (kim cang tọa). Quý vị ngồi thiền theo tư thế kết-già sẽ ít bị hôn trầm, đây là cách tốt nhất. Sao gọi là hôn trầm? chính là ngồi thiền mà mơ mơ màng màng muốn ngủ. Quý vị ngồi với tư thế kết-già sẽ rất vững, không bị nghiêng ngã, dễ sanh ra định lực. Quý vị ngồi thiền muốn đạt được định lực, thì thế ngồi kết-già có thể giúp cho quý vị sanh ra định lực. Định lực của quý vị sanh rồi thì huệ lực cũng sẽ tăng thêm; huệ lực chính là từ định lực mà ra, định lực chính là từ giới lực mà ra. Quý vị ngồi kết-già, người ngay thẳng, đây vốn là một loại giới thể sẵn có (bổn hữu). Quý vị có giới, sẽ có định; có định, sẽ có được huệ. Tam vô lậu học: giới, định, huệ này đều do ngồi kết-già sanh ra. Lại nữa, quý vị ngồi kết-già, tất cả tám bộ: trời, rồng… đều đến ủng hộ quý vị, tất cả tà ma ngoại đạo, yêu ma quỷ quái hay ma vương tự nhiên đều tránh xa quý vị, bỏ chạy xa quý vị, vì vậy tư thế ngồi kết-già kim cang này là một cách ngồi tối quan trọng trong quá trình tu đạo.
Khi còn ở Đông Bắc (tức Mãn Châu), tôi từng gặp việc như thế. Quan Trung Hỷ là bạn của tôi, ông ta là thầy của các ngoại đạo, có hơn ba ngàn đồ đệ; nhưng ông ta tự biết không có đạo nghiệp, chẳng có đạo lực, cũng không có biện pháp xử lý đối với việc sanh tử của bản thân, vì vậy đã cuống cuồng đi khắp nơi cầu đạo. Nhưng, ông ta lại không dám cho các đồ đệ biết chuyện này. Vì sao thế? Nếu như để các đồ đệ biết mình không có đạo lực, thì họ sẽ không tin tưởng ông ta nữa! Tuy là thầy truyền bá pháp môn ngoại đạo, nhưng ông ta lại khẩn thiết đi các nơi tầm đạo, mất đến hai ba năm vẫn chưa tìm ra được bậc thiện tri thức khai mở mắt huệ cho mình. Về sau ông ta gặp tôi – làm thế nào gặp được tôi? Thật ra trước đó tôi và ông ta đã quen biết nhau, nhưng rất lâu rồi không gặp; lúc tôi thủ hiếu bên mộ mẹ, ông ta cũng nghe nói qua, nhưng không gặp mặt. Có một hôm, tôi đến nhà ông ta.
Ông ta có một người cháu tên Quan Chiêm Hải, là con của người anh; buổi tối hôm đó, Quan Chiêm Hải thấy một giấc mộng. Từ trước đến nay anh ta chưa hề gặp qua tôi, cũng không quen biết tôi; thế mà trong giấc mộng, anh ta thấy tôi, cũng không biết vì sao, anh ta liền cầu đạo với tôi. Quan Chiêm Hải nghe tôi nói: “Anh không thể cầu đạo, cũng không thể tu đạo; vì sao thế? Vì nghiệt bì trên người anh!” “Nghiệt bì” chính là tội nghiệp, lớp da của tội nghiệt. Khi ấy, anh ta vẫn muốn cầu đạo với tôi; anh ta liền thấy tôi dùng tay lột từ trên đỉnh đầu của anh ta xuống một lớp da, rồi ném xuống đất. Anh ta nhìn lại, chính là một lớp da lợn. Trong mộng, anh ta nghe tôi bảo: “Lớp da tội nghiệt này của anh, tôi đã lột bỏ dùm, bây giờ thì anh đã có thể tu đạo rồi!”
Hôm sau, tôi đến nhà anh ta. Anh ta hỏi người chú: “Đây là ai vậy? Đêm qua cháu nằm mộng, thấy vị này đến, đã lột bỏ một lớp da lợn của cháu!” Chú anh ta đáp: “Vị này là hiếu tử thủ hiếu ở Hoàng Kỳ, Lâm Tây mà ai ai cũng đều biết.”, anh ta rất vui mừng, liền thuật lại giấc mộng cho người chú nghe. Vì chú ông ta là một người sùng đạo, vừa nghe xong, liền cho rằng: “A! Chuyến này Đạo đến nhà ta rồi! Hai chúng ta mau cầu đạo với ngài!” Thế là hai người họ đều quỳ trước mặt tôi không chịu đứng dậy, muốn bái tôi làm thầy. Khi ấy, tôi chỉ mới hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi, tôi bảo: “Tôi không thể làm thầy mọi người được! Tôi không có đạo gì, hiện giờ tôi vẫn còn đang tìm đạo cơ đấy!” Họ nói: “Xin Ngài từ bi cho! Chúng con biết Ngài là người tu đạo, nhất định muốn bái Ngài làm thầy!” “Quý vị không cần lo, tôi sẽ dẫn quý vị đi khắp nơi tham vấn đạo, quý vị thấy vị nào đủ tư cách làm thầy quý vị, thì hãy bái vị ấy. Quý vị không nên bái tôi làm thầy!” Tôi đã từ chối họ.
Thế là họ theo tôi đi khắp nơi, đến chỗ những vị tu đạo có uy tín, tôi đều bảo họ đến tiếp kiến. Nhưng Quan Trung Hỷ đều không vừa ý, trở về lại xin cầu đạo với tôi. Tôi bảo: “Tôi không có đạo, tôi chỉ có thể dạy ông một phương pháp tu hành; chính là phải ngồi kết-già. Trước tiên ông hãy thử xem, ông có thể ngồi kết-già được không?”
Ông ta liền ngồi chéo hai chân lên nhau, chân bên phải vênh cao khoảng hơn nửa thước[1], không thể chạm xuống chiếc chiếu, cách giường khoảng chừng nửa thước, không thể sát giường được. Vì sao lại như thế? Vì ông ta sinh trưởng ở miền núi, người sống ở miền núi, đầu gối rất to, gọi là “đại cốt đầu tiết”, vì vậy ông ngồi kết-già rất khó khăn, nhưng gắng gượng thì cũng có thể tréo chân, cũng có thể ngồi được.
Sau khi dạy ông ta luyện tập ngồi như thế, tôi ra đi; khoảng hơn bảy mươi ngày sau, tôi lại đến nhà ông ta. Đầu gối của ông ta vốn đã rất to, bây giờ lại càng to hơn, nó sưng đến nỗi ngay cả đi cũng không thể đi được. Bánh xe ở vùng phương Bắc của tôi, bề ngang khoảng chừng hai tấc. Khi xe lăn bánh, nghiến xuống mặt đất, tạo thành một đường rãnh rộng khoảng hơn hai tấc tàu (tức 2 thốn hay 6,66 cm). Ông ta lúc này, ngay cả cái rãnh của bánh xe cũng không bước qua được, chân ông ta sưng như thế đấy! Nhìn thấy tình trạng nghiêm trọng này của ông ta, tôi liền bảo: “Ông chớ tập luyện ngồi thế này nữa! Ngồi như vầy, có thể ông sẽ không thành công. Ông nên ngừng luyện tập đi!”
Ông ta thưa: “Trừ phi tôi chết mới không luyện tập ngồi thế này; nếu như không chết, dù chân có sưng hơn thế này đi nữa, thì tôi cũng vẫn luyện tập! Vì tu đạo, nếu như không có tâm nhẫn chịu sự đau đớn, thì sao có thể tu đạo được chứ? Ngay cả ngồi kết-già mà còn tập không được, thế tôi còn tu đạo gì nữa chứ? Tôi nhất định phải luyện tập thành công!” Tôi bảo: “Ông đã như thế, tôi cũng không quan tâm đến ông nữa! Ông luyện thì luyện, không luyện thì thôi, tùy ông vậy!” và tôi bỏ đi.
Một trăm ngày sau, tôi lại đến nhà ông ta; bây giờ thì ông ta đã đi được rồi, và chân cũng không còn sưng nữa. Tôi hỏi: “Có phải là ông đã ngừng tập luyện ngồi kết-già rồi phải không?” Ông ta thưa: “Thưa không! Bây giờ không những không còn sưng, mà chân tôi cũng không đau nữa! Khi ngồi, chân đã có thể chạm chiếu, tôi ngồi trên ghế, chân cũng không vênh lên, và cũng không đau nữa!” Đấy là người có chí ắt việc sẽ thành. Ông ta có chí khí như thế, ông ta đã thành công. Thế là tôi dạy ông ta phương pháp tọa thiền; ông ta liền tu tập công phu tham thiền.
Quan Chiêm Hải, cháu ông ta cũng cùng chú đi khắp nơi cầu đạo; suốt ba năm, lại thêm hai năm nữa, tổng cộng mất năm năm, cũng không tìm được sư phụ. Anh ta rất quý tôi, vào ngày lễ tết, anh ta mua rất nhiều quà, hoặc thức ăn ngon, đem đến biếu tôi; nói tóm lại là anh ta biếu tôi rất nhiều thứ; khi ấy, tôi chỉ cho rằng anh ta có thiện cảm với tôi. Một lần nọ, tôi dẫn anh ta đến chùa Tam Duyên của tôi, để diện kiến hòa thượng Phương trượng. Khi gặp Hòa thượng, tôi nghĩ rằng anh ta sẽ bái Ngài làm thầy, nhưng anh ta đã không làm thế, lại cùng tôi trở về nhà anh ta.
Giữa đường, khi đi ngang qua một khu rừng, khoảng chừng được nửa dặm; lúc này anh ta bỗng nắm tay áo tôi, sau đó lại quỳ xuống. Tôi hỏi: “Anh làm gì vậy?” Anh ta thưa: “Con đã đi khắp nơi trong nhiều năm như thế, những người con đã từng gặp qua, người khiến cho con tin tưởng nhất chính là Ngài! Bây giờ con nhất định phải bái Ngài làm sư phụ!” Thấy anh ta níu tay áo tôi như vậy, tôi giả vờ nổi giận, giật tay áo lại rồi quay người bỏ đi. Đi được khoảng hơn nửa dặm, tôi quay lại nhìn, anh ta vẫn còn quỳ nguyên tại chỗ cơ đấy! Anh ta không đứng dậy, vẫn quỳ ở đấy mà quẹt nước mắt. Tôi quay lại, đến trước mặt anh ta và hỏi: “Anh làm gì vậy?” “Ngài nhất định phải thâu nhận con làm đệ tử, nếu không thì con sẽ quỳ ở đây cho đến chết, quyết không đứng dậy!” “Ờ! Anh quỳ ở đây cho đến chết cũng tốt thôi! Đấy chính là do anh tự nguyện, chẳng có ai phải đền mạng cho anh cả, vì anh tự nguyện quỳ mà!”
Tôi lại bỏ đi, để xem anh ta có chịu đứng dậy hay không? Đi được khoảng một dặm, anh ta vẫn quỳ ở đấy không chịu đứng dậy. Hà! Lúc này tôi không nỡ nhẫn tâm, bèn quay lại bảo: “Được rồi! Tôi đồng ý!” Đây là người đệ tử đầu tiên tôi thâu nhận ở Đông Bắc.
Trước khi quy y, anh ta đã ăn chay; quy y rồi, anh ta bắt đầu tập tọa thiền, chỉ ngồi không nằm, ngày ăn một bữa. Tu được khoảng năm năm, anh ta biết được ngày mình vãng sanh, nên đã với mọi người: “Vào ngày đó tôi sẽ đi, các vị chớ có khóc, cũng không nên kêu réo. Người tôi cảm kích nhất, rất muốn gặp nhất là ngài ‘Hiếu tử’.” Chính là đề cập đến tôi, anh ta nói: “Nếu như ngài ‘Hiếu tử’ có thể đến thì hay quá! Nhưng hiện giờ tôi không biết Ngài ở đâu? Cũng không cách nào liên lạc được với Ngài. Những việc khác, tôi đều có thể buông bỏ, chỉ có việc này là chưa thỏa được ước nguyện, tôi cảm thấy không được trọn vẹn!” Quả nhiên đến ngày đó, anh ta ngồi kết-già, chẳng bệnh đau gì mà vãng sanh.
Vào đêm anh ta vãng sanh, rất nhiều người trong làng đều mộng thấy chuyện kỳ lạ, kỳ lạ thế nào? Mọi người đều mộng thấy có hai đồng tử mặc áo xanh đi trước, dẫn anh ta đi về phương tây. Chuyện này về sau vợ anh ta đã kể lại với tôi. Ngồi kết-già, đối với người tu đạo rất quan trọng; vì vậy nếu có thể luyện tập ngồi kết-già là điều rất tốt đối với người tu đạo.
Sau khi nói “Kinh Vô Lượng Nghĩa” xong, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền ngồi kết-già, nhập tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ; nhập vào định Vô Lượng Nghĩa Xứ, cũng chính là nhập vào định thật tướng. Thân tâm không động; thân, là thân thể; tâm, chính là tâm của chúng ta. Có người hỏi, nói là thân không động, thì có thể nhìn thấy được; tâm không động, thì ai biết được chuyện này chứ? Thân quý vị không động, thì tâm sẽ không động; nếu thân quý vị động, thì tâm cũng sẽ động. Cho nên người đã nhập định, nếu thân không động thì tâm cũng sẽ không động. Tâm này, không phải là nhục đoàn tâm (trái tim), đây là chân tâm; chân tâm vốn là thứ không động, quý vị có nhập định hay không, thì nó cũng không động. Thân tâm không động. Vì sao không động? Vì khi vị ấy nhập định, thân tâm đạt đến cảnh giới thanh tịnh bổn nguyên, vì vậy thân tâm đều không động. Đây là điềm lành Phật nhập định, “điềm lành nhập định” chính là như thế đấy.
E3. ĐIỀM LÀNH MƯA HOA
Khi ấy, trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa ma-ha Mạn-thù-sa, rải lên Đức Phật cùng đại chúng.
Thị thời, thiên vũ Mạn-đà-la hoa, ma-ha Mạn-đà-la hoa, Mạn-thù-sa hoa, ma-ha Mạn-thù-sa hoa, nhi tán Phật thượng, cập chư đại chúng.
Đoạn văn này là điềm lành về mưa hoa.
Khi ấy: Ngay lúc Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập định, thân tâm không động. Trời mưa: mưa xuống; mưa gì nào? Hoa Mạn-đà-la: Mạn-đà-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là hoa màu trắng (bạch sắc hoa), lại dịch là hoa vừa ý (thích ý hoa), hoa vừa ý màu trắng (bạch sắc thích ý hoa). Hoa ma-ha Mạn-đà-la: đây là hoa Mạn-đà-la màu trắng lớn. Hoa Mạn-thù-sa: đây là hoa màu đỏ (hồng sắc hoa). Hoa ma-ha Mạn-thù-sa: đây là hoa màu đỏ rất lớn. Bốn loại hoa này, rải lên Đức Phật cùng đại chúng: rải lên người Phật, và các đại chúng có mặt trong pháp hội, cũng đều được cúng dường các loại hoa này.
Trời mưa bốn loại hoa này, nhằm biểu thị bốn giai vị “Trụ, Hạnh, Hồi Hướng, Địa”. Trụ, biểu thị giai vị Thập Trụ; Hạnh, biểu thị giai vị Thập Hạnh; Hồi hướng, biểu thị giai vị Thập Hồi Hướng; Địa, biểu thị giai vị Thập Địa. Hoa Mạn-đà-la biểu thị cho Thập Trụ, hoa ma-ha Mạn-đà-la biểu thị cho Thập Hạnh; hoa Mạn-thù-sa biểu thị cho Thập Hồi Hướng; hoa ma-ha Mạn-thù-sa biểu thị cho Thập Địa. Bốn loại hoa này biểu thị cho bốn giai vị, bốn trình độ của hàng Bồ-tát; tất cả những ai tu đạo Bồ-tát, đều phải trải qua Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng và Thập Địa này.
E4. ĐIỀM LÀNH ĐẤT CHẤN ĐỘNG
Khắp các cõi Phật đều chấn động sáu kiểu.
Phổ Phật thế giới, lục chủng chấn động.
Đây là điềm lành đất chấn động. Tất cả các thế giới có Phật, đều xuất hiện sáu kiểu chấn động này, vì sao? Chính vì Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sắp nói bộ “Kinh Pháp Hoa” này. Trước khi nói bộ “Kinh Pháp Hoa”, có các thứ cảnh giới hiện xuất để hình dung, biểu hiện cho tầm quan trọng “Kinh Pháp Hoa”, vì vậy mới có nhiều cảnh giới như thế xuất hiện.
Sáu kiểu chấn động, chính là chấn, hống, kích, động, dũng, khởi. “Chấn, hống, kích” là thanh, có âm thanh của sự rúng động, gầm rít, va chạm; “động, dũng, khởi” là hình; có hình tượng của chuyển động, có hình tượng vọt lên, có hình tượng trồi lên. Ba cái là thanh, ba cái là hình; sáu kiểu chấn động này cũng chính là biểu thị sáu căn, gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Chấn động có sáu kiểu, nếu giảng rộng ra, trong mỗi kiểu lại có ba kiểu, nhân ra thành mười tám kiểu. Mười tám kiểu biểu pháp này chính là biểu thị mười tám giới. Mười tám giới, là sáu căn, sáu trần và sáu thức. Sáu căn gồm: nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn; sáu trần gồm: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần; sáu thức gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Mỗi một kiểu vì sao lại có thể biến thành ba?
“Động” có: động, biến động, đẳng biến động.
“Chấn” có: chấn, biến chấn, đẳng biến chấn.
“Hống có: hống, biến hống, đẳng biến hống.
“Kích” có: kích, biến kích, đẳng biến kích.
“Dũng” có: dũng, biến dũng, đẳng biến dũng.
“Khởi” có: khởi, biến khởi, đẳng biến khởi.
Sao gọi là động? Sao gọi là biến động? Sao gọi là đẳng biến động? “Động”, chỉ là chấn động một địa phương này. “Biến động”, là một tứ thiên hạ đều chấn động. Một tứ thiên hạ, chính là bốn đại bộ châu do cùng một mặt trời. một mặt trăng chiếu soi, tức Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Hóa châu và Bắc Câu Lô châu. Bốn đại bộ châu này đều chấn động, đây gọi là biến động. “Đẳng biến động”, tức là ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động, tận hư không biến pháp giới đều chấn động, đây gọi là đẳng biến động.
Sáu loại động pháp này biểu thị cho Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác và Diệu Giác. Kiểu chấn động này biểu thị gì nào? Biểu thị phá vô minh của chúng ta. Vì nếu quý vị trải qua sáu giai đoạn này, sẽ phá vô minh sáu lần; quý vị phá một lần, vô minh sẽ ít đi một chút; một lần phá, sẽ ít một chút; phá sáu lần, nên gọi là sáu kiểu chấn động. Sáu kiểu chấn động này, người tu tập thiền định đều có, đều sẽ tự thân thể nghiệm; người không ngồi thiền cũng có, chính là biểu thị tịnh sáu căn, chỉ là sự chấn động của sáu căn mà thôi.
Đem chữ “dũng” ra giảng, từ phía đông vọt lên, phía tây sụt xuống – Đông trồi tây sụt, đây khởi đầu từ phương đông. Phương đông thuộc hành mộc, mộc là màu xanh; trên thân người màu xanh thuộc về gan, lại chủ về mắt, vì vậy đây là thuộc nhãn căn. Phương nam thuộc hành hỏa, hỏa là màu đỏ; màu đỏ chủ về tim người, lưỡi thuộc về tim, cũng là màu đỏ. Phương tây thuộc hành kim, kim là màu trắng, trên thân người màu trắng thuộc về phổi, trong sáu căn thuộc về tỉ (mũi), tỉ thuộc về phổi. Phương bắc thuộc hành thủy, thủy là màu đen, trên thân người màu đen chủ về thận, trong sáu căn thận thuộc về nhĩ căn (tai).
Đây nhằm biểu thị điều gì? Công đức của mắt sanh, thì phiền não của mũi diệt; Công đức của mũi sanh, thì phiền não của mắt diệt; công đức của lỗ tai sanh, thì phiền não của lưỡi diệt; công đức của lưỡi sanh, thì phiền não của lỗ tai diệt. Tức là công đức và phiền não của một căn, cùng trao đổi qua lại với năm căn khác. Sáu căn này, mỗi một căn đều có công đức; trong phần sau của “Kinh Pháp Hoa”, có giảng “con mắt có bao nhiêu công đức, lỗ tai có bao nhiêu công đức, lỗ mũi có bao nhiêu công đức, lưỡi có bao nhiêu công đức”; trong “Kinh Lăng Nghiêm” ở trước cũng có giảng qua. Vì vậy khi công đức sanh, phiền não liền diệt; khi phiền não sanh, công đức liền diệt, chấn động qua lại.
Thân là chủ về bốn phương, mắt – tai – mũi – lưỡi đều thuộc về thân; ý có công năng phan duyên bốn thứ này. Vì vậy, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác và Diệu Giác là sáu kiểu chấn động bên ngoài, có ba kiểu là thanh, ba kiểu là hình; còn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của chúng ta, là sáu kiểu chấn động bên trong.
Bên trong chấn động, chính là sáu căn; sáu kiểu chấn động này nhằm biểu thị chấn động ở sáu căn. Sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý này hỗ trợ lẫn nhau, cũng có thể nói chúng kết thành một phe, “lang bối vi gian.” Sao gọi là lang bối vi gian? Vì con lang và bối cần phải ở cùng nhau mới có thể đi được; nếu không kết hợp với nhau, chúng sẽ không thể đi. Vì sao vậy? Vì con lang và con bối này không giống như những con sói bình thường; hai chân trước của con lang dài, hai chân sau ngắn; ngược lại hai chân trước của con bối ngắn, hai chân sau dài, lang thiếu bối sẽ không thể đứng, bối không có lang cũng không thể đi, lang và bối thường nương vào nhau mà đi, vì vậy gọi là lang bối vi gian.
Sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý này cũng vậy, nó có thể làm ác, cũng có thể làm thiện. Đi xuống, nó có thể khiến cho pháp thân của quý vị đi theo chúng vào trong địa ngục, hoặc làm ngạ quỷ, hoặc chuyển làm thân súc sanh, đều do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý này kéo quý vị đi. Nếu như thành Phật? Cũng là do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý hợp tác với nhau; quý vị giúp nó, nó giúp quý vị. Như tôi đã nói, công đức của mũi sanh thì phiền não của mắt diệt; công đức của mắt sanh thì phiền não của mũi diệt. Cái gì là phiền não của mắt? Cái gì là phiền não của mũi? Cái mà quý vị mong muốn xem mà không được xem, khi thấy nó, liền khởi tâm tham, liền có một thứ phiền não; phiền não này bởi mắt mà ra, đây chính là phiền não của mắt.
Công đức của mắt là gì? Mắt thấy kinh điển, hà! Kinh điển này hay như vậy, tôi muốn đọc một chút! Đây cũng là do mắt giúp cho tâm quý vị hiểu rõ đạo lý của kinh điển này. Mắt tôi nhìn thấy tượng Phật, thế là liền lạy Phật; vì sao quý vị lạy Phật? Mắt quý vị nhìn thấy tượng Phật, liền “Tôi muốn cung kính, tôi muốn cúng dường”, mắt này đã có công đức, đã giúp quý vị. Mắt giúp quý vị như thế, mũi, tai cũng vậy; sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tất cả đều là như vậy, đều có năng lực này, có thể giúp đỡ quý vị, cũng có thể phá hoại quý vị, xem quý vị làm thế nào? Nếu quý vị căn cứ vào công đức thiện để làm, thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý sẽ giúp quý vị làm công đức thiện; nếu quý vị lấy tội chướng làm nền tảng, gây tạo tội chướng, thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng có thể giúp quý vị tạo tội chướng. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói, quý vị đọa địa ngục cũng là do nơi sáu căn của quý vị; quý vị thành Phật cũng là do nơi sáu căn của quý vị, không có điều gì khác. Vì vậy tôi nói “ngu si chính là trí tuệ”, cũng giống với đạo lý của sáu căn này vậy. Quý vị đã nghe nhiều kinh, chỉ cần thông một là thông tất cả, hiểu rõ một là hiểu rõ tất cả, biết một là biết tất cả, ngộ một là ngộ tất cả.
Tự tánh như hư không
Chơn vọng đều từ trong
Hiểu thấu lý hằng hữu
Một thông, tất cả thông.
(Tự tánh như hư không
Chơn vọng tại kỳ trung
Ngộ triệt bổn lai lý
Nhất thông nhất thiết thông.)
Tự tánh của chúng ta cũng giống như hư không. Bên trong hư không ấy, có đủ chơn vọng, hư không bao hàm hết thảy. Quý vị hiểu rõ đạo lý tự tánh vốn sẵn có, thông một thì thông tất cả; quý vị hiểu rõ một dạng thì tất cả các dạng đều hiểu rõ! Lấy việc ăn của chúng ta ra nói, con người vì sao phải ăn? Chính vì trị bệnh đói của cái bụng; tất cả những thức ăn uống đều nhằm trị bệnh đói bụng, bất luận là thức ăn ngon hay dở, đều có công dụng này. Mặc y phục là để chống lạnh; bất luận mặc y phục gì, cũng đều có thể phòng ngừa lạnh, có thể ngăn lạnh. Hiện tại mỗi người chúng ta đều phải ăn cơm, mặc y phục, ngủ nghỉ và cho rằng ba thứ này rất quan trọng; không có chúng, tính mạng chúng ta liền nảy sinh vấn đề. Hiện tại chúng ta muốn học Phật pháp, cũng nên xem nó quan trọng giống như ăn cơm, quan trọng giống như mặc y phục, quan trọng giống như ngủ nghỉ vậy; không có Phật pháp, tự tánh của chúng ta liền phát sanh vấn đề. Vì vậy, hiện giờ chúng ta lợi dụng sáu căn sẵn có này để cầu đạo giác vô thượng, đây đều gọi là sáu căn chấn động – mặt đất chấn động sáu phen.
Quý vị xem người ngồi thiền! Người chưa ngồi thiền qua sẽ không biết, người từng ngồi thiền, khi thì tay nhúc nhích, lúc thì mắt nhấp nháy, mũi cũng động đậy, tai cũng ve vẩy, đây là một biểu hiện của sáu căn chấn động. Chỗ gọi là “tịnh cực quang thông đạt”, quý vị tịnh, dụng công đến cực điểm; có một thế giới riêng, có một cảnh giới khác. Kỳ hè năm nay, có người ngồi thiền đã có một chút máy động, tay sẽ cử động; tay mình động đậy, quý vị không muốn nó động, nó vẫn cứ động, đây là thân thể có một sự biến hóa – động thì biến, biến thì hóa. Loại công phu này, cần phải là người đã từng dụng công mới hiểu rõ; còn phải có minh sư chân chánh chỉ điểm, mới không đi sai đường. Nếu như không có minh sư hoặc thiện tri thức chỉ bày, vào thời điểm này sẽ rất dễ lầm đường lạc lối, cũng rất dễ sanh tâm sợ hãi, không dám dụng công tiếp. Người nào trong số chúng ta nếu rơi vào tình cảnh này thì chớ có sợ hãi, đây chỉ là một trong những hiện tượng chấn động của sáu căn.
Đạo lý nói trong kinh, tất phải thuận hợp với tự thể, tự tánh của mỗi chúng ta. Vì sao phải có kinh? Chính là để chỉ cho mỗi người chúng ta một con đường nên đi. Vì vậy, những kinh này, những con đường này mà Phật đã nói, đều có đủ trong tự tánh của mỗi chúng ta; Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, chính là để đối trị tám vạn bốn ngàn thói xấu của chúng sanh. Bản thân chúng ta có những thói xấu mà không tự biết, còn đồng hành với chúng, bị chúng chuyển, cho đó là vui; trên thật tế, bản thân mỗi ngày một đọa lạc vẫn không hay biết. Vì vậy trong kinh, Phật đã chỉ rõ cho mỗi người chúng ta con đường này.
Sáu kiểu chấn động này, không rời sáu căn của quý vị; vì sao sáu căn của quý vị phải chấn động? Chấn động này chính là biểu thị sự phá vô minh của quý vị. Vì sao phải có sáu kiểu? Vì phải sáu phen phá vô minh – chính là phá vô minh của phàm phu, phá vô minh của hàng Sơ quả, vô minh của hàng Nhị quả, vô minh của hàng Tam quả, vô minh của hàng Tứ quả, sau đó lại phá vô minh của hàng Thập Địa, vô minh của hàng Đẳng Giác; sau khi phá vô minh của hàng Đẳng Giác rồi, chính là Diệu Giác, lúc này mới là thành Phật. Mặt đất sáu phen chấn động, cũng chính nhằm biểu thị sáu giai đoạn này, tức là Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả, Bồ-tát, Phật; là sáu trình tự thành tựu quả vị Phật. Đây là ý tóm lược của “sáu kiểu chấn động”.
E5. ĐIỀM LÀNH CHÚNG HOAN HỶ
Bấy giờ, trong chúng hội, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân phi nhân và các vị tiểu vương, Chuyển Luân Thánh vương, các đại chúng này đều được điều chưa từng có, vui mừng chắp tay, một lòng nhìn Phật.
Nhĩ thời, hội trung Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân phi nhân, cập chư tiểu vương, Chuyển Luân Thánh vương, thị chư đại chúng, đắc vị tằng hữu, hoan hỷ hợp chưởng, nhất tâm quán Phật.
Đây là điềm chúng hoan hỷ, điềm lành mọi người đều vui mừng.
“Bấy giờ”: Ngay lúc ấy. Lúc nào? Chính là ngay khi diễn ra sáu kiểu chấn động. “Trong chúng hội, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni”: Ở trong hội Pháp Hoa này, có một số Tỳ-kheo, có một số Tỳ-kheo-ni. Tỳ-kheo có ba nghĩa, chính là Khất sĩ, bố ma, phá ác. Tỳ-kheo-ni chính là người nữ xuất gia.
Có một người tu thiền, sau một thời gian tinh tấn tu tập liền khai ngộ. Sau khi khai ngộ rồi, vị này muốn cầu một bậc Đại đức cao tăng ấn chứng cho. Vị cao tăng liền hỏi: “Ông chứng đắc được gì?” Vị kia đáp: “Con không đắc gì cả!” Giống như hỏi: “Như Lai có đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề chăng?” (Kinh Kim Cang). Vị Tỳ-kheo đã khai ngộ đáp: “Con không đắc gì cả!” “Vậy ông ngộ ra điều gì?” Vị Tỳ-kheo đáp: “Con biết Tỳ-kheo-ni là người nữ.” Vị cao tăng liền bảo: “À! Ta xác nhận ông đã khai ngộ rồi! Ông thật sự là người đã khai ngộ.” Vị cao tăng này đã chứng được ngũ nhãn: Phật nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Thiên nhãn và Nhục nhãn. Tỳ-kheo kia đáp như thế, vị cao tăng liền biết ông ta không nói dối, đã khai ngộ rồi, nên liền ấn chứng cho.
Nếu như chúng ta nói như thế, có phải cũng đã khai ngộ rồi không? Nói theo người khác không phải là khai ngộ; người khai ngộ không phải bắt chước người ta nói, phải tự mình có một kiến giải riêng, không giống với người khác. Vì câu nói của vị này, trước nay chưa có ai nói, ông ta bảo: “Nay con biết chắc chắn một điều: Tỳ-kheo-ni là người nữ.” Nhân đó, ông ta mới được ấn chứng là đã khai ngộ. Quý vị cũng nói y như vậy, thế thì quý vị không phải là người đã khai ngộ, chẳng ai ấn chứng cho quý vị. Vì sao? Vì quý vị học (lớm) lại của người khác; đã là học lại thì tức là không phải là điều tự mình ngộ ra.
“Ưu-bà-tắc”: chính là cư sĩ nam; “Ưu-bà-di”: chính là cư sĩ nữ. Ở đây lại có hai cách nói, dịch là cận sự nam, cận sự nữ là một cách. Người ở luôn trong chùa, gọi là cận trụ nam, cận trụ nữ; trụ, chính là cư trú trong chùa. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di là bốn chúng đệ tử.
“Trời”: là những vị thiên nhân ở trên sáu tầng trời cõi Dục.
“Rồng”: là con trùng lớn. Trùng lớn này ăn những con trùng nhỏ; chim Đại bàng cánh vàng (Đại bàng kim sí điểu) vì báo thù cho loài trùng nhỏ, nên đã ăn thịt trùng lớn này.
“Dạ-xoa”: là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Tốc tật”. Tốc là rất nhanh; tật cũng là rất nhanh. Lại dịch là “Dũng kiện”. Dũng là dũng mãnh, kiện là tráng kiện; ý nói sức lực của loài quỷ thần này rất dũng mãnh, rất khỏe mạnh. Quỷ thần Dạ-xoa này có thể dời núi lấp biển; một tay có thể đẩy núi đi mấy trăm dặm, dời núi đi chỗ khác, tay kia lại có thể kéo núi trở lại. Quý vị nói xem có mạnh không chứ? Đây gọi là đại lực quỷ thần (loài quỷ thần có sức mạnh.)
“Càn-thát-bà”: Đây là một loài quỷ thần tấu nhạc.
“A-tu-la”: là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vô tửu, họ không có rượu để uống; lại dịch là Vô đoan chánh, tướng mạo của nam A-tu-la cực kỳ xấu xí, không có ai xấu như thế cả! Nhưng A-tu-la nữ lại rất xinh đẹp, khiến ai nhìn thấy cũng đều yêu thích. Không chỉ loài người, mà ngay Ngọc Đế trông thấy họ, cũng không khỏi khởi dục tình; vì vậy đã xin cưới con gái vua A-tu-la về làm vợ. A-tu-la có phước của trời, nhưng không có quyền của trời, không có quyền lực ở trên trời; họ chuyên đấu tranh, rất thích đánh nhau.
“Ca-lâu-la”: chính là chim Đại bàng cánh vàng. Có người đã từng thấy qua, nhưng có người chỉ nghe kể lại. Người từng thấy chim Đại bàng cánh vàng này thấy hình dáng nó thế nào? Chú Sa-di nhỏ Quả Hiện biết con chim này, chú gọi nó là Peng bird (chim Đại bàng).
“Khẩn-na-la”: là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Nghi thần; vì hình dáng loài này giống như người, nhưng trên đầu có một cái sừng, vì vậy thông thường người ta gọi họ là Nghi thần hoặc Nghi nhân. Nghi là hoài nghi; thần, là thần tiên. Hoài nghi họ là thần tiên, rốt cuộc họ có phải là thần tiên không? Không có bằng chứng nào xác định cả. Họ chuyên tấu nhạc cho Ngọc Đế, là vị thần tấu nhạc của Ngọc Đế.
“Ma-hầu-la-già”: là con trăn lớn (đại Mãng xà). Đây là một loài trăn rất lớn, rốt cuộc lớn cỡ nào? Chỉ nhỏ hơn Rồng một chút; nếu quý vị biết Rồng lớn đến đâu thì sẽ biết loài này lớn thế nào. Nhưng rồng có con lớn, có con nhỏ; vì vậy trăn cũng có con lớn, có con nhỏ.
“Nhân phi nhân”: là tám bộ quỷ thần. “Và các vị tiểu vương”: và vua các nước nhỏ.
“Chuyển Luân Thánh Vương”: Chuyển Luân Thánh Vương, có Kim Luân vương, Ngân Luân vương, Đồng Luân vương, Thiết Luân vương; Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nếu xuất gia muộn một ngày thì sẽ làm Kim Luân vương đấy! Nói đến Kim Luân vương, vị này thật sự có phước báo rất lớn; phước báo rất lớn như thế nào? Vị này có một ngàn người con, lại có bảy loại báu tự nhiên xuất hiện – kim luân báu, voi báu, ngựa báu, châu Như ý báu, ngọc nữ báu, chủ tàng báu, điển binh báu. Bảy loại báu này, cũng giống như châu Như ý báu vậy; Luân vương đến đâu, muốn dùng bao nhiêu vàng bạc, liền bảo lòng đất: “Hãy đem bạc đến đây!” Đất tự nhiên tách ra. Trong lòng đất này, quý vị cần dùng bao nhiêu vàng thì có bấy nhiêu vàng; cần dùng bao nhiêu bạc thì có bấy nhiêu bạc; chính là như thế, được vừa lòng toại ý. Luân vương còn có một cỗ xe, chỉ trong thời gian rất ngắn, có thể dạo khắp một Tứ thiên hạ. Chu vi một Tứ thiên hạ này, so với đường lên mặt trăng, e rằng còn xa hơn; thế mà chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn, đã có thể đi giáp vòng.
Kim Luân vương là người cai quản một Tứ thiên hạ; sao gọi là một Tứ thiên hạ? Chính là Nam Thiệm Bộ châu, Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hóa châu và Bắc Câu Lô châu; bốn đại bộ châu này đều thuộc quyền quản lý của vị này. Ngân Luân vương cai quản ba châu: Tây Ngưu Hóa châu, Nam Thiệm Bộ châu và Đông Thắng Thần châu. Đồng Luân vương cai quản hai châu: Nam Thiệm Bộ châu và Đông Thắng Thần châu. Thiết Luân vương chỉ cai quản Nam Thiệm Bộ châu.
Có người hỏi, thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, có Chuyển Luân Thánh Vương? Đúng vậy! Trên thế giới của chúng ta, bấy giờ không có Chuyển Luân Thánh Vương. Thế Chuyển Luân Thánh Vương từ đâu đến? Từ thế giới khác đến đấy! Quý vị không nên có nhãn quan nhỏ hẹp như vậy, chỉ biết khuôn viên ngôi nhà của mình. Quý vị vẫn còn có hàng xóm, còn có thành phố lớn nữa kìa! Quý vị chớ bảo rằng chưa từng thấy qua thì cho là không có; quý vị là người thôn quê, khi ra thành thị lớn thì quý vị vẫn giống người nhà quê mà thôi. Vì vậy, vào thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, ở thế giới Ta-bà này tuy không có Chuyển Luân Thánh Vương, những vẫn có Chuyển Luân Thánh Vương ở thế giới khác đến. Thế giới nào? Nếu như nghiên cứu về vấn đề này thì phải mất nhiều thời gian; nhưng bây giờ lại không có thời gian để cùng quý vị nghiên cứu vấn đề này.
“Các đại chúng này”: những đại chúng này; chính là số đông đã nói ở trước. “Được điều chưa từng có”: Trước nay chưa từng nghe qua Phật pháp như thế, “vui mừng chắp tay”: mọi người đều vui mừng. Giống như bây giờ, có người hiểu được điều tôi giảng, nên cảm thấy vui mừng; còn người không hiểu, “Chà! Họ cười điều gì thế? Có chuyện gì vậy?” Trong lòng họ cũng có ý muốn cười theo, nhưng lại sợ cười nhầm, vì vậy lại không dám cười; đợi khi dịch ra, tôi tin chắc quý vị cũng sẽ cười. “Một lòng nhìn Phật”: Mọi người cùng nhìn Phật, mắt không hề rời, mọi ánh mắt đều hướng về phía Phật.
E6. ĐIỀM LÀNH PHÓNG QUANG
Bấy giờ, Đức Phật phóng tướng ánh sáng từ giữa chặng mày, chiếu một vạn tám nghìn thế giới ở phương đông, không đâu mà không khắp.
Nhĩ thời, Phật phóng mi gian bạch hào tướng quang, chiếu đông phương vạn bát thiên thế giới, mĩ bất châu biến.
“Bấy giờ”: lại là khi nào? “Bấy giờ” này, cũng giống với “bấy giờ” ở sáu kiểu chấn động trước, nhưng không phải cùng một lúc. Vậy khi nào? Là khi đại chúng vui mừng, một lòng nhìn Phật. Lúc này, Phật nhìn thấy tất cả chúng trong pháp hội này đều vui mừng như vậy, Phật cũng vui mừng; Phật vui mừng, liền phóng ánh sáng, đây là điềm lành phóng quang thứ sáu.
Điềm lành phóng quang thứ sáu này là điềm lành phóng quang ở cõi này; bên dưới còn có điềm lành phóng quang thứ sáu ở cõi nước phương khác.
“Đức Phật phóng tướng ánh sáng từ giữa chặng mày”: giữa chặng mày, tức khoảng giữa cặp lông mày. Khoảng giữa cặp lông mày của Phật có một tướng bạch hào (một sợi lông trắng, phát ra ánh sáng); quý vị thấy giữa cặp lông mày của các tượng Phật đều cẩn một viên ngọc, đó chính là biểu thị cho tướng bạch hào này; nhưng vì hiện nay chúng ta hoặc dùng đất sét đắp làm tượng Phật, hoặc dùng gỗ điêu khắc thành tượng Phật, không cách gì thể hiện được tướng bạch hào vốn có của Phật, nên đã nạm một viên ngọc như vậy để tiêu biểu. Ánh sáng từ tướng bạch hào của Phật, có thể chiếu xa, cũng có thể chiếu gần; loại ánh sáng này giống như tia ngọc lưu ly trong suốt vậy. “Chiếu một vạn tám nghìn thế giới ở phương đông”: Phương đông thuộc mộc, mộc chủ về “sanh”, tượng trưng mùa xuân vạn vật sinh trưởng, vì vậy Phật phóng tướng ánh sáng giữa chặng mày, chiếu khắp một vạn tám nghìn thế giới ở phương đông. Một vạn tám nghìn thế giới này, không phải là quá nhiều, vì vẫn có số lượng. Ở một vạn tám nghìn thế giới này đều được chiếu khắp bởi ánh sáng của Phật, “không đâu không khắp”: một vạn tám nghìn cõi nước, thế giới đều được ánh sáng chiếu khắp.
Phần dưới là nói sáu điềm lành xuất hiện ở cõi nước phương khác, gồm: (1). Điềm lành thấy lục thú, (2). Điềm lành thấy chư Phật; chúng sanh trong lục thú là phàm, chư Phật là thánh, đây là một đôi (one pair) phàm thánh (phàm thánh nhất đối 凡聖一對) (3). Điềm lành nghe thuyết pháp, (4). Điềm lành thấy bốn chúng đắc đạo (điềm lành chứng quả); đây là ‘nhân’ và ‘pháp’ đối nhau, là một đôi nhân pháp, người và pháp đối lập. (5). Điềm lành thấy hành Bồ-tát hạnh, (6). Điềm lành thấy chư Phật nhập Niết-bàn. Bồ-tát là khởi đầu (thủy), Phật là kết cuộc (chung), đây gọi là một đôi thủy chung (bắt đầu đối với kết thúc).
D2. SÁU ĐIỀM LÀNH Ở CÕI KHÁC (phân 6 phần)
E1. Điềm lành thấy lục thú; E2. Điềm lành thấy chư Phật;
E3. Điềm lành nghe thuyết pháp; E4. Điềm lành thấy bốn chúng đắc đạo; E5. Điềm lành thấy hành Bồ-tát hạnh; E6. Điềm lành thấy chư Phật nhập Niết-bàn
E1. ĐIỀM LÀNH THẤY LỤC THÚ
Dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời A-ca-ni-trá. Ở thế giới này, đều thấy được chúng sanh trong lục thú ở cõi kia.
Hạ chí A-tỳ địa ngục, thượng chí A-ca-ni-trá thiên. Ư thử thế giới, tận kiến bỉ độ lục thú chúng sinh.
Đây là hiện điềm lành lục thú, một trong sáu điềm lành ở cõi nước phương khác.
Vào lúc ánh sáng của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni phóng ra, không chỉ thấy được điềm lành ở thế giới này, “dưới đến địa ngục A-tỳ”: thậm chí có thể chiếu xuống đến địa ngục A-tỳ. A-tỳ là tiếng Phạn (Avichi), Trung Hoa dịch là Vô Gián địa ngục, địa ngục không có kẽ hở. Một người ở trong địa ngục này cũng đầy, nhiều người ở trong địa ngục này cũng đầy; từ địa ngục kia, đọa xuống địa ngục này, không biết phải ở trong địa ngục này bao lâu? Thời gian không có gián đoạn, không gian cũng không có gián đoạn; hết thảy thời gian và không gian đều không gián đoạn, vì vậy mà gọi là địa ngục Vô Gián. “Trên đến cõi trời A-ca-ni-trá”: A-ca-ni-trá là tiến Phạn (Akanishtha), Trung Hoa dịch là Sắc Cứu Cánh thiên, chính là tầng trời cao nhất của cõi Hữu Sắc.
“Ở thế giới này, đều thấy được chúng sanh trong lục thú ở cõi kia”: tức là ở thế giới Ta-bà này, cũng sẽ thấy được các cõi nước ở phương đông, cách thế giới Ta-bà đến một vạn tám nghìn thế giới. Lục thú, chính là sáu đường trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh; chúng sanh trong lục thú, chính là chúng sanh luân hồi trong sáu đường. Những chúng sanh như thế, đều có thể nhìn thấy rõ ràng: chúng sanh trong đường nào, thọ loại quả báo nào.
Lục thú, chính là thiên thú, a-tu-la thú, nhân thú, đây gọi là ba đường lành; địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh gọi là ba đường ác. A-tu-la có lúc được liệt vào ba đường lành, có lúc lại liệt vào ba đường ác; tứ ác thú, chính là A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
“Trời” ở đây, là chư thiên ở trên trời. Sao lại làm người trời? Chính vì quý vị giữ năm giới, tu mười điều lành thì có thể sanh lên trời. Năm giới là giới luật căn bản nhất mà tín đồ Phật giáo phải giữ, gồm: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Nếu thường xuyên không sát sanh thì tuổi thọ của quý vị sẽ kéo dài, được phước báo trường thọ. Tại sao có người sống thọ như thế? Nhưng có người mạng sống lại ngắn ngủi như thế? Người sống lâu là vì họ giữ giới không sát, nên được báo trường thọ; người có tuổi thọ ngắn bởi vì họ thích sát sanh, nên mới mắc quả báo đoản mạng.
Tại sao phải giữ giới không trộm? Vì trộm là làm tổn hại tài sản của người, tổn hại vận mạng hưởng phước của người. ‘Trộm’ này cũng giống như ‘cắp’, nên gọi chung là trộm cắp; chính là hành vi len lén lấy đồ vật hoặc tài sản của người khác mà họ không hề hay biết. Quý vị cố ý trộm cắp đồ vật của người khác thì sẽ mắc quả báo gì? Tài sản của quý vị trong tương lai sẽ không được lâu bền, phải thọ quả báo tài sản không giữ được lâu. Giả dụ quý vị có rất nhiều tiền, rất nhiều tài sản, nhưng đột nhiên bị bọn cường đạo cướp mất. Tại sao phải thọ quả báo này? Vì đời trước quý vị cũng đã từng lấy trộm đồ vật của người khác, từng cướp đoạt của cải của người khác, quý vị không giữ giới trộm cắp; vì vậy đời này, tài sản của quý vị mới bị người khác phá hoại. Nếu như không phá hoại đồ vật của người thì tài sản của quý vị sẽ tồn tại lâu dài; vì quý vị giữ giới không trộm cắp, nên quý vị được giàu sang mãi mãi. Dâm dục, nói dối, uống rượu cũng giống như thế.
Giống như quý vị không giữ giới dâm dục, đi gian dâm với vợ người khác; tương lai bản thân quý vị cũng bị người khác đùa cợt, đây gọi là nhân nào quả nấy. Nói dối, nếu quý vị không lừa gạt người, thì cũng sẽ không bị người lừa gạt. Nói: “Đời này tôi chưa từng lừa gạt một ai, cớ sao lại bị nhiều người lừa gạt như vậy?” Chẳng phải tôi vừa nói đó sao? Nhân quả này không chỉ là sự việc của một đời; quả báo này thông cả ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì vậy, chỉ đời này quý vị không lừa gạt người khác, vậy quý vị có biết đời trước quý vị đã từng lừa gạt bao nhiêu người không? Không biết! Quý vị không biết, thế thì có người lừa gạt quý vị, điều này chứng tỏ nhân duyên hội ngộ đã đến lúc chín mùi, tự lãnh thọ lại quả báo, vì vậy quý vị phải bị họ lừa gạt.
Uống rượu, uống rượu thì sẽ loạn tánh – tánh tình hỗn loạn, xáo trộn; một khi uống rượu, lưỡi liền bị líu lại, nói năng không rõ ràng, thân hình nghiêng ngả, làm việc gì cũng sẽ rối lên. Vì vậy, Phật giáo không chủ trương uống rượu, mới ngăn cấm rượu. Nhưng Đạo giáo không chủ trương ngăn cấm rượu, cho rằng rượu có thể bồi dưỡng tánh tình, cũng có thể khiến quên đi buồn phiền trong lòng. Đức Khổng Tử của Trung Hoa có nói: “Duy tửu vô lượng, bất cập lạm” ý nói uống rượu rất ngon, không cần phải hạn lượng, không cần bảo mình nhất định phải uống bao nhiêu; nhưng chớ nên uống say, thì đó là điều rất tốt. Nếu uống say, sẽ không còn biết mùi vị của rượu đó như thế nào nữa. Nếu như không muốn say, thì nên uống ít lại một chút, không nên uống quá nhiều! Kỳ thật, người thích uống rượu thì mới như vậy; nếu người không thích uống rượu, vốn sẽ không muốn uống. Vì đối với người thích uống rượu, nếu quý vị bảo anh ta nhất định không được uống, thế nào cũng gặp phải phản ứng gay gắt. Vì vậy, đối với phương diện giới uống rượu, có hơi nới rộng một chút là vậy.
Năm giới, nếu giảng tường tận thì sẽ rất dài, điểm mấu chốt ở đây là chẳng những quý vị không tự tay sát sanh mà trong tâm cũng chớ khởi niệm sát, đây mới thật sự là giữ giới sát. Giới trộm cắp cũng vậy, chẳng những không tự tay lấy, trong tâm cũng không khởi ý nghĩ trộm cắp; bất luận là vật lớn hay nhỏ, phàm người chủ không đồng ý mà quý vị lén lấy dùng, cũng đều phạm giới trộm. Nêu một ví dụ rất nhỏ, người ta mua một bình rượu, “Chà! Anh xem, rượu này không tệ, của anh ấy cũng chính là của tôi, của tôi cũng chính là của tôi, lấy uống một ly nào!” đây là phạm giới trộm rồi. Ôi chao! Đã phạm giới trộm rồi, lại phạm thêm giới uống rượu, hai giới cùng phạm một lúc! Có người bảo: “Tôi không uống rượu, giới này tôi sẽ không phạm.” Quý vị không uống rượu, quý vị có uống sữa bò không? Có người mua một bình sữa để trong tủ lạnh, quý vị trông thấy sữa, chẳng kể ba bảy hai mốt, cứ khui ra uống. Quý vị không biết của ai vẫn cứ uống, quý vị nói xem có phải là bá đạo không chứ? Sữa là vấn đề nhỏ, quý vị chưa được sự đồng ý của người mua nó mà đã lấy uống, là đã phạm giới trộm rồi. Những thức ăn khác hay đồ dùng cũng vậy. Vì vậy, mấy ngày trước có người mách với tôi là ở nhà tập thể, có người ăn vụng thức ăn, khiến người bị mất của phiền hà.
Ở đây tuy đối phương phạm giới trộm, nhưng nói đi phải nói lại, người mua sữa hoặc mua rượu cũng cần phải xét lại mình một chút: “Tại sao anh ta lại trộm đồ ăn của mình? Hà! Đời trước mình đã từng lấy trộm đồ ăn của người ta, vì vậy đời này người ta mới trộm lại của mình.” Thì đúng rồi! Người mua thì nên nghĩ như vậy, nhưng người ăn vụng lại không nên nghĩ: “Ồ! Bây giờ tôi trộm đồ ăn của anh, đợi đời sau anh trộm lại của tôi là huề.” Quý vị không biết đời sau quý vị có hay không? Hay là đời sau chẳng có gì cả, thì có gì để lấy trộm của quý vị chứ? Vì vậy chớ có ôm ấp cái tâm trộm này. Không phải là đồ của mình mua thì không nên tự tiện lấy dùng! Nếu như được sự chấp thuận của người kia, mới không phạm giới; chưa được sự chấp thuận của đối phương mà lén lút sử dụng vật của người khác, thì đều gọi là phạm giới trộm cắp. Nếu giảng cặn kẽ hơn, thậm chí một cọng cỏ, một lá cây, một cây kim, một sợi chỉ, nếu chưa được người chủ đồng ý mà mà tự ý lấy, cũng gọi là ăn trộm, đều phạm tội trộm cắp.
Dâm dục, nói dối, uống rượu cũng thế; vì vậy tôi chỉ giảng một giới, quý vị nên liên hệ mấy giới còn lại thì sẽ rõ.
“Trời”: vì sao được sinh lên trời? Chính vì giữ năm giới, mới có thể được sinh lên trời. Phước báo của cõi trời vô lượng, nhưng cũng có lúc hết. Đợi đến khi đã hưởng hết phước báo, năm tướng suy hiện ra, vẫn phải bị đọa lạc, vì vậy đây chẳng phải là cảnh giới rốt ráo.
“A-tu-la”, cũng có làm một ít công đức, nhưng lại tạo công đức với tâm đấu tranh, là do phiền não của họ mà làm công đức. Sao nói do phiền não vẫn có thể làm công đức? Tuy làm công đức, nhưng chuyên cạnh tranh với người. Cạnh tranh thế nào? ‘Tôi xuất ra năm đồng, anh xuất ra bao nhiêu?’ chính là tranh hơn thua với người khác. “Nếu anh xuất ra năm đồng, tôi xuất ra mười đồng; Anh xuất mười đồng à? Tôi xuất hai mươi đồng!” tức tranh hơn người, đứng đầu về tánh cạnh tranh; người này tương lai nhất định sẽ làm A-tu-la! Có công đức thì có, nhưng cạnh tranh làm công đức với người, chứ không phải tự đáy lòng muốn làm, cũng có thể nói là tranh danh, muốn người khác khen: “Ồ! Anh xem ông A, ông B đó là đệ nhất. Ông ấy đã xuất ra rất nhiều tiền!” Tranh danh đệ nhất, đây đều là làm công đức với tâm A-tu-la. Vì vậy, quý vị hành pháp Phật, nhất định phải hiểu nhân quả này một cách rõ ràng, thì quý vị làm mới không đi quá đà.
Hoặc giả quý vị ở nơi này không có tiếng tăm, đến chỗ khác làm công đức, tranh danh ở nơi đó, rồi bảo với người ở địa phương này là quý vị đã làm công đức rất lớn ở New York, để cho mọi người đều biết. Kiểu làm như thế, đều là gieo trồng nhân A-tu-la, tương lai sẽ làm A-tu-la. Vừa mở miệng nói thì liền nổi giận; đề cập đến chuyện gì, liền muốn tranh đứng đầu. Đây đều là chủng tử của A-tu-la, phiền não không dứt. Quý vị làm công đức như vậy, là công đức hữu lậu, không phải là công đức vô lậu. Công đức vẫn phải làm, nhưng không nên cố ý để mọi người biết mình là người đứng đầu, hay đứng thứ hai.
Lại có hạng người, ngoài mặt tỏ ra không cần danh, âm thầm làm việc thiện, nhưng sau đó lại cố ý rỉ tai với người khác: “Ở vùng đó, tôi đã công đức hết năm ngàn đồng, nhưng không ai biết tôi làm cả. Tôi chỉ nói riêng với anh thôi!” Kỳ thật hạng người này cũng là A-tu-la. Hạng A-tu-la này, so với hạng A-tu-la vừa rồi còn xấu hơn một bậc, vì sao? Đây thuộc về A-tu-la âm, không phải hạng dương; bề ngoài họ tỏ ra không háo danh; trên thực tế, họ tuyên truyền sau lưng còn ghê gớm hơn! Vì vậy, quý vị phát tâm, chỗ gọi là: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc”: Khi quý vị trồng nhân, nếu gieo trồng nhân không ngay thẳng, thì khi kết quả trổ, sẽ bị lệch, kết thành loại quả không tốt, phải làm A-tu-la! Vậy A-tu-la có gì không tốt? A-tu-la có rất nhiều chỗ không tốt! Ngày nào cũng đi gây hấn với người khác, quý vị nói xem có tốt không chứ?
“Người”, là từ đâu mà ra? Cũng từ chỗ tu công đức lành, giữ năm giới, tu mười điều thiện mà ra; chẳng qua đó là năm giới của phẩm hạ, mười điều thiện của phẩm hạ; A-tu-la là năm giới của phẩm trung, mười điều thiện của phẩm trung; trời là năm giới của phẩm thượng, mười điều thiện của phẩm thượng. Nếu như phân tích tỉ mỉ pháp tướng này, thì sẽ có rất nhiều rất nhiều mục nhỏ. Đây là nhân của ba đường lành.
Ba đường ác, chính là do tham, sân, si tạo nên. Tâm quý vị quá tham, sẽ biến thành ngạ quỷ. Ngạ quỷ tại sao đói? Chính vì lúc sinh tiền họ tham, tham ăn, bất kể ăn thứ gì cũng muốn ăn nhiều hơn một chút. Quý vị thích ăn nhiều, sẽ trở thành ngạ quỷ; khi đó, thứ gì cũng không thể ăn, thứ gì cũng không có. Tại sao họ muốn ăn nhiều? Chính vì họ đã có một chút “khai ngộ” rồi. Khai ngộ điều gì? Họ biết tương lai không có đồ để ăn, phải làm quỷ đói, nên bây giờ ăn vội ăn vàng nhiều nhiều một chút! Họ đều có công phu xủ quẻ đoán biết trước!
Tâm sân, quý vị thích phát cáu ư? Được lắm! Phát tới phát lui, cuối cùng phát tới địa ngục – đọa vào địa ngục. Tự bản thân không thể kiềm chế, được thôi! Lên thử núi đao xem. Mình nổi nóng, chạy lên núi đao, chân sẽ bị chém nát ra. Tại sao đao chém chân? Chính vì có tâm nóng nảy.
“Ta muốn thử dao của ngươi, để xem ngươi ghê gớm thế nào?” Nhảy vào trong vạc dầu ư, “Hừ! Các vị không dám nhảy à? Tôi sẽ thử trước!” Tại sao dám nhảy vào vạc dầu? Chính vì đang nóng giận; vì nóng giận, nên núi đao, vạc dầu, địa ngục nào cũng đều dám thử. Đây là tâm sân, ưa sân hận, ưa nổi nóng.
Đệ tử của tôi, bất luận là ai, nếu như có tánh nóng nảy phải mau mau sửa đổi; người không có tánh nóng nảy, cũng chớ để nó nảy sinh. Đây là điều cấp thiết nhất, tôi chúc phúc cho quý vị! Chớ xem lời tôi nói như gió thoảng qua tai, không nên nói: “Chẳng hề gì! Thầy giảng, chẳng qua là nói thế thôi; không hẳn mình có tánh nóng giận thì sẽ phải đọa vào địa ngục.” Thì quý vị cứ thử đi! Khi vào địa ngục rồi mới hối hận, bảo: “Chao ôi! Sư phụ mình trước kia từng nhắc nhở, nếu nóng giận sẽ phải đọa địa ngục, bây giờ mình mới biết lời đó là thật!” nhưng đã quá muộn rồi! Quý vị còn dám nổi giận nữa không?
Đây chính là lý do tại sao tôi phải lập ra quy tắc, nếu một người nổi nóng thì ba người phải cùng quỳ hai mươi bốn giờ. Tôi lập ra luật lệ nghiêm khắc này, chính là vì sợ quý vị rơi vào địa ngục. Tôi không thích quý vị xuống địa ngục, nên mới dùng phương pháp nghiêm khắc này. Người xuất gia nổi nóng ư? Bây giờ ba chú Sa-di này, nếu một chú nổi nóng, thì hai chú kia phải quỳ theo, quỳ hai mươi bốn giờ, tuyệt đối không hề nương tay; điều lệ này của tôi đã thông qua rồi, không một chút tình cảm, không được phàn nàn. Vậy phải làm sao đây? Nếu quý vị không nổi nóng, thì không phải dùng tới luật của tôi; nếu quý vị nổi nóng, thế thì luật của tôi sẽ có chỗ sử dụng. Quỳ hai mươi bốn tiếng như thế vẫn chưa phải là quá nghiêm khắc, nghiêm khắc hơn nữa là không cho phép ăn cơm, không cho phép uống nước, không cho phép đại tiểu tiện, đây mới là kỷ luật nghiêm khắc nhất. Tôi lập ra điều lệ này đã lâu như thế, khi hỏi lại ba chú Sa-di: “Các chú có nổi nóng nữa không?” “Thưa không có ạ!” “Tiểu Sa-di, thế tại sao chú không nổi nóng nữa?” “I don’t know!” (Con không biết!) Các chú ấy cũng không biết vì sao mình lại không nổi nóng nữa. Quý vị nói xem cách này có tuyệt diệu hay không? Thật vô cùng tuyệt diệu! Cực kỳ tuyệt diệu! Nếu như quý vị nổi nóng thì sẽ đọa địa ngục; tôi sợ quý vị xuống địa ngục nên mới lập ra điều lệ khắt khe như thế.
Ngu si, quý vị thích ngu không? Quý vị không học Phật pháp à? Nếu quý vị không thích ngu si thì phải nên học Phật pháp; học Phật pháp chính là tăng thêm trí tuệ, khai mở diệu trí bát-nhã, diệu huệ bát-nhã của quý vị. Quý vị không học Phật pháp thì sẽ ngu si; ngu si sẽ đến chỗ nào? Sẽ làm súc sanh. Vì sao những loài súc sanh như ngựa, trâu, dê, gà, chó, lợn không thông minh? Quý vị xem, loài lợn cực kỳ đần độn, ăn no liền ịch xuống ngủ, ngủ chán chê lại dậy ăn; trừ hai việc này, chúng chẳng làm được việc gì khác hơn. Còn ngựa, trâu tuy có làm chút công việc, nhưng đều ngu si.
Tại sao ngu si? Chính vì khi làm người, họ không học Phật pháp; chẳng những không học Phật pháp, mà khi có người muốn học Phật pháp, họ còn bảo: “Chớ có học Phật pháp, ai mà học Phật pháp là kẻ rất ngốc!” Họ bảo những người học Phật pháp là rất ngốc, thật ra họ mới là kẻ cực ngốc, tương lai sẽ phải làm ngựa, trâu, dê, gà, chó, lợn. Tại sao họ chịu các thân như thế? Tôi bảo cho quý vị biết, chính vì họ không học Phật pháp! Có người nói: “Tôi không tin! Chính tôi không học Phật pháp, trái lại tôi muốn xem thử có thật tôi sẽ làm lợn, làm ngựa không?” Được! Thế thì quý vị cứ thử! Đến lúc thử xong rồi, quý vị trở lại học Phật pháp. Vì vậy không cần phải miễn cưỡng, không nên gượng ép một ai cả, chỉ cần quý vị thích thì bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng đều có cơ hội học được cả.
Sáu nẻo luân hồi này rất quan trọng, quý vị trồng nhân gì sẽ kết ra quả nấy. Trồng nhân lành, sẽ kết quả lành; trồng nhân dữ, sẽ kết quả dữ. Quý vị trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, phải xem quý vị trồng nhân gì; quý vị trồng nhân thành Phật, sẽ thành Phật; quý vị trồng nhân địa ngục, sẽ đọa địa ngục. Tự quý vị lựa chọn con đường cho riêng mình.
Các loại hình trạng, các thứ tướng mạo của chúng sanh trong sáu đường ở các cõi nước, cách cõi này một vạn tám nghìn thế giới về phương đông đều hiện rõ dưới ánh sáng của tướng bạch hào từ nơi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni phóng ra. Tướng bạch hào này của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhằm biểu thị “Trung đạo liễu nghĩa”’ không thiên về trái, không thiên về phải; ở khoảng giữa của cặp chân mày, cũng chính là biểu thị đạo lý Trung đạo thật tướng, pháp môn Viên đốn của “Kinh Pháp Hoa”.
Tướng bạch hào của Như Lai có thể duỗi có thể co, có thể xa có thể gần, rỗng suốt như lưu ly, ánh sáng chiếu khắp nơi. Nếu như quý vị vẫn chưa hiểu rõ, tôi có thể nêu lên một ví dụ không được giống lắm. Ví như chúng ta cầm đèn pin, hoặc đèn pha, khi chúng ta bật đèn lên thì một luồng ánh sáng rọi thẳng về phía trước, sẽ chiếu được rất xa, đây là điều ai cũng biết. Ánh sáng từ tướng bạch hào của Đức Như Lai cũng giống như đèn pha; ánh sáng này chiếu về phía trước, không chỉ một dặm, hai dặm, mà có thể chiếu khắp một vạn tám nghìn thế giới ở phương đông. Có phải chỉ chiếu đến phương đông? Không phải! Cũng giống như quý vị cầm đèn pin, thích rọi chỗ nào thì rọi chỗ nấy; quý vị thích rọi hướng đông thì rọi hướng đông, thích rọi hướng nam thì rọi hướng nam, thích rọi hướng bắc thì rọi hướng bắc, thích rọi hướng tây thì rọi hướng tây, chiếu trên, chiếu dưới, chiếu trời, chiếu đất tùy ý. Ánh sáng từ tướng bạch hào của Đức Như Lai cũng giống vậy, khắp cả hư không vũ trụ, tùy ý chiếu một phương nào đều được cả, hiện tại nơi ánh sáng ấy chiếu đến là một vạn tám nghìn cõi nước ở phương đông.
“Kinh Lăng Nghiêm” đề cập: “Bấy giờ, từ nhục kế của Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng báu trắng. Trong ánh sáng ấy hiện ra hoa sen báu nghìn cánh, có hóa thân Đức Như Lai an tọa giữa đài hoa, trên đảnh phát ra tia sáng trăm thứ báu, mỗi mỗi tia sáng đều biến hiện khắp mười hằng hà sa.” Ở trong pháp hội Lăng Nghiêm, khi Phật nói pháp, thì trên nhục kế, ánh sáng từ tướng vô kiến đảnh[2] phát ra. Trong hội Pháp Hoa lần này, ánh sáng lại từ tướng bạch hào phóng ra. Ánh sáng này không giống với ánh sáng trong pháp hội Lăng Nghiêm; hai loại ánh sáng này đều có ý nghĩa khác nhau của nó.
Vì vậy, ngày nào chúng ta (đến) cũng nghe “Kinh Pháp Hoa” thì chẳng nói làm gì; dù chỉ nghe một chữ, nghe một câu, nghe trong buổi tối nay, thì quý vị đã gieo trồng nhân thành Phật rồi; nếu quý vị không nghe nữa, thì “ông Phật” của quý vị cũng chẳng chạy đi đâu mất, tương lai nhất định quý vị sẽ thành Phật. Không phải hiện tại, vậy cần thời gian bao lâu? Điều đó không nhất định được.
Do đó, hiện giờ chúng ta có thể nghe “Kinh Pháp Hoa”, thì đây đều là những người có căn lành; người có căn lành tất sẽ học Phật pháp, chớ tự xem thường bản thân, không nên nói Phật pháp chẳng liên quan gì với mình. Quý vị nên biết, ngoài Phật pháp ra, bất cứ việc gì cũng chẳng dính dấp với quý vị. Chỉ có Phật pháp mới quan hệ trọng yếu với quý vị; quan hệ trọng yếu thế nào? Giúp quý vị thành Phật đó! Có người nói: “Tôi không tin! Làm sao tôi có thể thành Phật?” Chính vì quý vị không tin, mới có thể thành Phật; vì quý vị không tin quý vị có thể thành Phật, vậy mà tương lai quý vị sẽ thành, do đó đây mới là diệu pháp! Vì vậy mới gọi kinh này là “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, chính là kỳ diệu như thế đấy!
E2. ĐIỀM LÀNH THẤY CHƯ PHẬT
Lại thấy cõi kia, chư Phật hiện tại.
Hựu kiến bỉ độ, hiện tại chư Phật.
Đoạn văn này là điềm lành thấy các Đức Phật, là thánh phàm đối lập nhau; chúng sanh trong sáu đường là phàm, chư Phật là thánh.
Chư Phật, là từ bên trong tướng bạch hào của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiển hiện ra cõi nước của chư Phật; có cõi nước của chư Phật, tức là có chư Phật giáo hóa chúng sanh nơi cõi nước đó. Vì vậy, đoạn văn này chính là hiện điềm lành chư Phật, trong ánh sáng phát ra từ tướng bạch hào của Như Lai hiện các Đức Phật.
Tại sao Phật cần phải phóng ánh sáng? Tại sao lại từ tướng bạch hào phóng ánh sáng? Vì Phật phóng ánh sáng là chiếu tất cả mọi cơ duyên. Sao gọi là cơ duyên? Chính là tất cả những chúng sanh cần được hóa độ. Vì vậy, phóng ánh sáng là biểu thị “Nhân cơ thiết giáo”; thiết chính là thiết lập, giáo là giáo pháp; có cơ duyên nào thì sẽ thiết lập giáo pháp nấy. Còn có ý nghĩa khác, là“Đoạn hoặc trừ nghi”; Phật phóng ánh sáng, nhằm khiến cho tâm nghi ngờ của tất cả chúng sanh đều không còn, giúp phá sạch chúng. Vì phá trừ tâm nghi ngờ của chúng sanh, nên Phật phóng ánh sáng.
“Tướng bạch hào” này tôi đã giảng qua, nó nhằm biểu thị cho Trung đạo. Phật A-di-đà có tướng bạch hào, Đức Phật khác cũng có tướng bạch hào. Trong bài kệ “Tán Phật A-di-đà” có đề cập đến:
A-di-đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân;
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải.
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô biên;
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
(Thân Phật Di-đà sắc vàng ròng,
Tướng tốt sáng ngời không gì sánh;
Năm Tu-di uyển chuyển bạch hào,
Mắt biếc lắng trong bốn biển lớn.
Trong hào quang hóa vô số Phật,
Chúng Bồ-tát hóa cũng vô biên,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh,
Chín phẩm hàm linh lên giác ngạn.)
Thân Phật A-di-đà có màu vàng ròng, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Ngài sáng rỡ, không thể dùng ví dụ nào để so sánh được. Tướng bạch hào này nơi giữa cặp chân mày của Phật A-di-đà uyển chuyển, tức xoay qua xoay lại như thế này, giống như rồng di chuyển vậy, không phải đi thẳng, mà là đi uốn lượn uyển chuyển thế này. Tướng bạch hào này lớn đến đâu? Lớn cỡ năm ngọn núi Tu-di gộp lại! Mắt xanh biếc của Phật A-di-đà to như bốn biển lớn, quý vị nói xem mắt này lớn cỡ nào? Bên trong ánh hào quang của Phật A-di-đà lại hóa hiện ra không biết bao nhiêu là Phật. Ngài không những hóa Phật, mà còn hóa cả Bồ-tát; số Bồ-tát hóa cũng nhiều không thể kể xiết.
Phật A-di-đà đã phát bốn mươi tám lời nguyện, mỗi một nguyện, đều là muốn chúng sanh thành Phật. Hoa sen phân ra chín phẩm, được chia thành ba bậc thượng, trung, hạ; từ ba bậc này lại phân ra chín phẩm – gồm có phẩm thượng thượng, phẩm thượng trung, phẩm thượng hạ, phẩm trung thượng, phẩm trung trung, phẩm trung hạ, phẩm hạ thượng, phẩm hạ trung, phẩm hạ hạ.
Hàm linh lên giác ngạn, Ngài khiến tất chúng sanh đều đến bờ Niết-bàn thành Phật.
Tướng bạch hào của Phật A-di-đà lớn cỡ năm ngọn núi Tu-di; tướng bạch hào của Phật Thích-ca Mâu-ni, nếu nói về độ lớn, cũng cỡ năm ngọn núi Tu-di. Nếu nói về độ nhỏ, căn cứ theo “Kinh Quán Phật Tam-muội Hải” đã nói: Khi Phật ra đời, tướng bạch hào này dài năm thước (xích)[3]; lúc Ngài tu tập khổ hạnh, tướng bạch hào được mười bốn thước; khi Ngài thành Phật, tướng bạch hào luôn là mười lăm thước. Chính giữa của tướng bạch hào trống rỗng, giống như hình dáng ống lưu ly vậy; là nhằm biểu thị bốn đức hạnh “thường lạc ngã tịnh” của Phật. chính giữa rỗng, là biểu thị cho Trung đạo, đây là đức “thường”; tướng bạch hào vô cùng thanh tịnh, biểu thị cho đức “lạc”; tướng bạch hào lại mềm mại, có thể ngắn dài tùy ý, chính là biểu thị cho “ngã”; vì sao lại màu trắng? Màu trắng chính là biểu thị cho đức “tịnh”. Các đức thường, lạc, ngã, tịnh biểu thị cho bốn đức của Niết-bàn.
Tướng bạch hào này, là biểu thị cho bảo ấn của Trung đạo thật tướng; bảo ấn thật tướng chính là do tướng bạch hào này tượng trưng. Hiện tại, từ tướng bạch hào của Phật Thích-ca Mâu-ni phóng ánh sáng, trong ánh sáng của tướng bạch hào lại thấy được chư Phật ở cõi khác; tướng sáng bạch hào của Như Lai, từ khi Phật xuất thế cho đến khi Niết-bàn; khi Ngài hành pháp khổ hạnh… các tướng mạo, nhẫn đến các công đức sau khi Ngài vào Niết-bàn đều hiện ra trong tướng sáng bạch hào này.
E3. ĐIỀM LÀNH NGHE THUYẾT PHÁP
Và nghe kinh pháp của các Đức Phật thuyết.
Cập văn chư Phật sở thuyết kinh pháp.
Đoạn văn này là điềm lành nghe thuyết pháp. Ở trong tướng bạch hào của Đức Như Lai, cũng thấy (tứ chúng) đang nghe kinh điển, và tất cả Phật pháp của các Đức Phật thuyết.
E4. ĐIỀM LÀNH THẤY BỐN CHÚNG ĐẮC ĐẠO
Cùng thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ở cõi kia tu hành đắc đạo.
Tinh kiến bỉ chư Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, chư tu hành đắc đạo giả.
Đoạn văn này, là điềm lành thấy bốn chúng đắc đạo (điềm lành chứng quả).
Các Đức Phật ở mỗi một quốc độ làm gì? Giảng nói kinh giáo, giảng nói Phật pháp. Giảng nói Phật pháp để làm gì? Phật pháp là để cho bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nương theo đó mà tu hành; nương theo pháp tu hành, sẽ chứng quả; hoặc chứng quả A-la-hán, hoặc thành Bồ-tát, hoặc thành Phật. Bên trong tướng bạch hào của Đức Như Lai, thấy chư Phật thuyết pháp, đây gọi là điềm lành nghe pháp; lại thấy bốn chúng tu hành chứng quả, đây là điềm lành chứng quả. “Pháp” và “người” này, gọi là đôi nhân – pháp, người và pháp đối nhau.
E4. ĐIỀM LÀNH THẤY HÀNH BỒ-TÁT HẠNH
Lại thấy các Bồ-tát Ma-ha-tát dùng các thứ nhân duyên, các thứ tín giải, các thứ tướng mạo mà hành đạo Bồ-tát.
Phục kiến chư Bồ-tát Ma-ha-tát, chủng chủng nhân duyên, chủng chủng tín giải, chủng chủng tướng mạo, hành Bồ-tát đạo.
Đây là điềm lành thấy các vị Bồ-tát hành Bồ-tát hạnh, điềm lành các vị Bồ-tát tu tập các hạnh môn.
“Lại thấy các Bồ-tát Ma-ha-tát”: Lại thấy Bồ-tát và Đại Bồ-tát. “Các thứ nhân duyên”: Dùng các loại nhân duyên để tu các pháp môn, giáo hóa các chúng sanh. “Các thứ tín giải”: Các, tức không phải một loại, mà rất nhiều loại. Tín giải, hoặc do “pháp Tứ đế” mà tin hiểu rồi tu hành, hoặc do “pháp mười hai nhân duyên” mà tin hiểu rồi tu hành, doặc do “Lục độ vạn hạnh” mà tin hiểu rồi tu hành. “Các thứ tướng mạo”: Đây không phải nói Bồ-tát có nhiều loại tướng mạo, mà nói các vị ấy hành các hạnh môn, tu nhiều pháp. “Hành đạo Bồ-tát”: những việc các ngài làm, đều là đạo của Bồ-tát; đạo Bồ-tát, chính là lợi mình lợi người (tự lợi lợi tha), tự mình giác ngộ và giác ngộ người khác (tự giác giác tha). Tướng bạch hào của Đức Như Lai, từ cõi này chiếu đến cõi nước của Phật khác, đây cũng nhằm biểu thị pháp môn tự giác giác tha, tự lợi lợi tha.
E4. ĐIỀM LÀNH THẤY CHƯ PHẬT NHẬP NIẾT-BÀN
Lại thấy các Đức Phật nhập Niết-bàn; lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn rồi, đem xá-lợi của Phật dựng tháp bảy báu.
Phục kiến chư Phật Bát-niết-bàn giả; phục kiến chư Phật Bát-niết-bàn hậu, dĩ Phật xá-lợi khởi thất bảo tháp.
Đoạn văn này là điềm lành thấy chư Phật nhập Niết-bàn. Điềm lành thấy hành Bồ-tát hạnh và điềm lành thấy chư Phật Niết-bàn, gọi là cặp thủy – chung (khởi đầu và kết thúc); Bồ-tát là thủy, Phật là chung.
“Lại thấy các Đức Phật nhập Niết-bàn”: Ở bên trong tướng bạch hào của Như Lai, lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn. Niết-bàn, còn gọi là viên tịch. Niết-bàn, còn gọi là không sanh diệt. Niết, là bất sanh; bàn, là bất diệt, tức là chấm dứt sanh tử.
“Lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn rồi”: Lại thấy các vị Phật này nhập Niết-bàn rồi, “đem xá-lợi của Phật, dựng tháp bằng bảy báu”: xá-lợi là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là linh cốt; ý nói xương này rất linh. Bên trong tháp, thờ xá-lợi để cúng dường. Sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn, lúc dùng lửa hỏa thiêu, đã cho ra rất nhiều xá-lợi, không biết bao nhiêu mà kể; vì vậy khắp nơi đã xây tháp báu để cúng dường số xá-lợi này. Trong tướng ánh sáng bạch hào của Đức Như Lai, cũng thấy sau khi chư Phật ở cõi khác nhập Niết-bàn, cũng dùng lửa để hỏa táng, số xá-lợi Phật có được, cũng đều xây tháp để cúng dường.
Tháp, cũng là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là phương phần; tức là mộ bốn mặt vuông. Người chết, được chôn dưới lòng đất, gọi là mộ; còn tháp này là một ngôi mộ vuông. Còn dịch là cao hiển, vì nó rất cao, rất rõ ràng, ai cũng có thể thấy, vì vậy còn gọi là cao hiển xứ (chỗ cao và lộ rõ). Tháp dùng để làm gì? Chúng ta xây tháp báu để cúng dường xá-lợi Phật, vì nơi có xá-lợi Phật cũng chính là nơi có Pháp thân Phật, cũng chính là Đức Phật ở nơi này, vì vậy nên xây tháp để kỷ niệm Ngài.
Phần giảng vừa rồi, là sáu điềm lành ở cõi nước khác.
Tôi đã giảng đi giảng lại cho quý vị, nhưng quý vị không chú ý; Phật pháp nhất định phải chú ý, mới có thể lãnh hội được. Quý vị nghe mà như gió thoảng bên tai, vào tai này liền chui tọt qua tai kia như thế sẽ chẳng có tác dụng gì; dẫu quý vị nghe một trăm năm đi nữa, cũng như chẳng hề nghe. Vì sao? Vì quý vị không để tâm, không chú ý! Hiện giờ quý vị nghe kinh, học Phật pháp, chợt gặp phải tình huống có người mời quý vị đi giảng thuyết; quý vị vẫn có thể giảng nói thao thao bất tuyệt – nói năng lưu loát, giống như dòng sông trôi chảy vậy, giảng rất hứng thú. Nhưng nếu có người hỏi: “Thưa Pháp sư! Con có một câu hỏi muốn hỏi: Niết-bàn có mấy loại? Xin ngài hãy giảng giúp cho!” vậy là quý vị: ‘Ơ …ơ!” “Thế ngài học với vị nào vậy?” “Tôi đã học mấy năm với một vị pháp sư, điều này tôi đã được nghe qua, nhưng bây giờ lại quên rồi!”
Quý vị nói xem, có mất mặt không chứ? Những pháp cao sâu không biết còn được, đằng này ngay cả “bốn loại Niết-bàn” cũng không biết, thật quá mất mặt! Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe bốn từ này, nếu tôi không nói, quý vị sẽ nghĩ không ra; nhưng tôi tin rằng tôi vừa nói ra, quý vị sẽ nhớ ngay: “Ồ! Tôi đâu có quên! Chính là bốn loại này!” nhưng vô ích thôi, đây gọi là “mã hậu khách”. Gia Cát Lượng là “Mã tiền khách”, việc chưa tới, ông ta đã đoán biết trước; còn quý vị đợi khi việc qua rồi mới biết, thì chẳng có tác dụng gì cả!
Bốn loại Niết-bàn này gồm những gì? Thứ nhất, Tự tánh thanh tịnh niết-bàn; thứ hai, Hữu dư y niết-bàn; thứ ba, Vô dư y niết-bàn; thứ tư, Vô trụ xứ niết-bàn.
C3. TỰA VỀ TÂM NGHI (phân 2 phần)
D1. Tâm nghi của ngài Di-lặc; D2. Tâm nghi của đại chúng
D1. TÂM NGHI CỦA NGÀI DI-LẶC
Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc nghĩ rằng: Hôm nay Đức Thế Tôn hiện thần biến tướng, vì nhân duyên gì mà có điềm lành này? Nay Đức Phật Thế Tôn đang nhập tam-muội, việc biến hiện hy hữu không thể nghĩ bàn này, nên hỏi ai? Ai có thể trả lời được?” Lại nghĩ: “Ngài Văn-thù-sư-lợi, con đấng Pháp vương này đã từng gần gũi, cúng dường vô lượng chư Phật đời quá khứ, chắc đã từng thấy tướng hy hữu này, ta nay nên hỏi vị ấy.”
Nhĩ thời, Di-lặc Bồ-tát tác thị niệm: Kim giả Thế Tôn hiện thần biến tướng, dĩ hà nhân duyên nhi hữu thử thụy? Kim Phật Thế Tôn nhập ư tam-muội, thị bất khả tư nghì, hiện hy hữu sự, đương dĩ vấn thùy? Thùy năng đáp giả? Phục tác thử niệm: Thị Văn-thù-sư-lợi Pháp vương chi tử, dĩ tằng thân cận cúng dường quá khứ vô lượng chư Phật, tất ưng kiến thử hy hữu chi tướng, ngã kim đương vấn.
Đoạn văn này, là Bồ-tát Di-lặc khởi lên một hoài nghi; Ngài không rõ Phật định làm gì? Phật phóng ánh sáng, đất rúng động… sáu điềm lành ở cõi này, lại hiện sáu điềm lành ở cõi khác, tình huống của sáu điềm lành này, Bồ-tát Di-lặc cũng không biết, vì vậy đã khởi lòng hoài nghi. Bồ-tát Di-lặc khởi tâm nghi, các đại chúng khác cũng khởi tâm nghi như vậy.
“Khi ấy”: ngay lúc đó; ngay khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện sáu điềm lành ở cõi này, và sáu điềm lành ở cõi khác. Ngay khi ấy, “Bồ-tát Di-lặc”: Bồ-tát Di-lặc là vị Bồ-tát nào? Chính là vị Bồ-tát rất mập và thường hay cười. Di-lặc là tiếng Phạn (Maitreya), Trung Hoa dịch là Từ Thị, ý nói vị Bồ-tát này thường nhập định Từ tâm tam-muội. Ngài lại có một tên khác, là A-dật-đa; A-dật-đa cũng là tiếng Phạn (Ajita), Trung Hoa dịch là Vô Năng Thắng, thắng là thắng lợi. Bồ-tát chính là giác hữu tình. Bồ-tát Di-lặc vô cùng từ bi, bất luận quý vị là người thiện hay ác, một khi gặp Ngài, Ngài đều hoan hỷ; Ngài dùng mắt từ, bình đẳng nhìn tất cả chúng sanh, không khởi tâm phân biệt đối với chúng sanh.
Bồ-tát Di-lặc vào lúc ấy, “nghĩ rằng”: khởi ý nghi ngờ, “hôm nay Đức Thế Tôn hiện thần biến tướng”: Nay Đức Thế Tôn hiện ra cảnh giới thần thông biến hóa này. Thần thông gì? Chính là phóng ánh sáng từ tướng bạch hào, lại có sáu kiểu chấn động, đấy đều là một dạng thần thông của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni; nhưng trong quá khứ, Bồ-tát Di-lặc cũng chưa từng thấy qua loại thần biến này, vì vậy Ngài không biết được đây là ý gì.
Bồ-tát Di-lặc là vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, đợi sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thoái vị, Ngài sẽ thành thành Phật ở thế giới Ta-bà này, vì vậy Ngài được tôn xưng là “Đương Lai Hạ Sanh Di-lặc Tôn Phật”. Bồ-tát Di-lặc vốn là vị có trí tuệ rất lớn, thế nhưng Ngài vẫn không biết Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn làm gì. Vì sao Ngài không biết? Vì ở trong Phật giáo, “Sơ địa bất tri Nhị địa”; Bồ-tát Sơ địa sẽ không biết được cảnh giới của hàng Bồ-tát Nhị địa; Bồ-tát Thập địa thì không biết được cảnh giới của hàng Bồ-tát Đẳng giác. Huống gì là cảnh giới của Phật ư? Chỗ gọi là:
Dung nhân bất tri trí giả,
Tán nhân bất tri định giả,
Phàm phu bất tri Thánh giả,
Tiểu thừa bất tri Thân Tử.
“Dung nhân bất tri trí giả”, kẻ phàm phu ngu muội sẽ không biết được cảnh giới của bậc có trí tuệ; vì sao? Vì kẻ tầm thường ngu tối, suy nghĩ rất chậm lụt, không phải là không bì kịp, mà là vượt quá sức. “Tán nhân bất tri định giả”: giống như người luôn phân tán; sao gọi là phân tán? Chính là người luôn nhìn đông ngó tây, nhìn hướng nam, lại trông qua hướng bắc, vừa ngó bên đông xong, lại ngóng về bên tây; mọi người nhập định ở đây, người kia cũng không biết được cảnh giới trong định của quý vị.
“Phàm phu bất tri Thánh giả”: phàm phu, tức là hạng người chưa chứng quả như chúng ta đây; phàm phu sẽ không biết được cảnh giới của bậc Thánh. “Tiểu thừa bất tri Thân Tử”: Thân tử là ai vậy? Chính là tôn giả Xá-lợi-phất, ngài Xá-lợi-phất còn có tên là Thân Tử. Tại sao Hàng Tiểu thừa không biết Xá-lợi-phất? Vì trí tuệ của hàng Tiểu thừa chưa đủ. Trong hàng A-la-hán, ngài Xá-lợi-phất là vị đại trí tuệ – Đại Trí Xá-lợi-phất; vì vậy hàng thánh chứng tiểu quả bình thường sẽ không không thể biết được cảnh giới của ngài Xá-lợi-phất; nhưng trong hàng Bồ-tát, ngài lại trở thành tiểu trí tuệ. Nhưng các vị Bồ-tát bình thường lại không thể biết được cảnh giới của hàng Bồ-tát bổ xứ.
“Bổ xứ”, qua hết kiếp này, đời sau nhất định thành Phật; tức là vị Phật tương lai thay thế (thế vào chỗ của) Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện tại, vì vậy mọi người cũng gọi Bồ-tát Di-lặc là “Bồ-tát nhất sanh bổ xứ”. Thế nhưng Bồ-tát bổ xứ lại không biết được cảnh giới của hàng Bồ-tát quả Phật tôn cực. Tôn cực, chính là Phật; tôn quý đến cực điểm, đây chính là cảnh giới của Phật. Vì ở trong cảnh giới của Bồ-tát bổ xứ, sẽ không biết được cảnh giới của Phật. Mà hiện tại, Bồ-tát Di-lặc là Bồ-tát bổ xứ, tương lai sẽ thành Phật; nhưng Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện loại cảnh giới thần biến này, ngài cũng không biết, thế là Ngài đã khởi lên vọng tưởng! Bồ-tát Di-lặc cũng khởi vọng tưởng. Vọng tưởng gì?
Ngài nghĩ, hiện tại, vì sao Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại dùng tướng sáng bạch hào, hiện thần thông biến hóa loại tướng này (hóa hiện thần thông lực, biến tướng Tịnh độ), “vì nhân duyên gì mà có điềm lành này?”: phải có một lý do gì, mới hiện ra sáu điềm lành này? Ngài khởi lên mối nghi ngờ. Nghi ngờ gì? Chính là hoài nghi: sắp xảy ra việc gì đây? Ngài đã khởi lên vọng tưởng. Bồ-tát vốn không có vọng tưởng, nhưng thấy Đức Phật hiện thần biến như thế, vọng tưởng của ngài cũng phát sanh.
Đoạn văn này, nói hiện tại Bồ-tát Di-lặc nảy sinh ba điều nghi.
Thứ nhất, chính là nghi ngờ sự thần biến của Phật, vì lý do gì mà có điềm lành này? “Nay Đức Phật Thế Tôn đang nhập tam-muội”: hiện Thế Tôn đã nhập định rồi, cảnh giới này là“không thể nghĩ bàn”: không thể dùng tâm để nghĩ, không thể dùng lời để bàn, ai cũng không biết được. Vậy phải làm sao? “Hiện việc hy hữu”: Phật hiện việc hy hữu này, từ trước đến nay chưa từng có, “nên hỏi ai? Ai có thể trả lời được?”: đây lại khởi lên ý nghi ngờ thứ hai, mình nên hỏi ai? Vị Bồ-tát nào có thể giải đáp cho mình vấn đền này? “Lại nghĩ”: đến đây lại khởi lên suy nghĩ thứ ba; nghĩ gì nào? Thắc mắc này, mình nên hỏi ai đây?
“Ngài Văn-thù-sư-lợi, con đấng Pháp vương này đã từng gần gũi, cúng dường vô lượng chư Phật đời quá khứ”: À! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có thể trả lời mình! Văn-thù-sư-lợi còn có tên là Diệu Cát, Diệu Đức. Vị Bồ-tát thủ tòa Văn-thù-sư-lợi này chính là chơn tử của đấng Pháp vương, Ngài đã từng gần gũi chư Phật, lại còn cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ.
“Chắc đã từng thấy tướng hy hữu này”: Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã từng gần gũi, cúng dường chư Phật quá khứ, đương nhiên cũng đã thấy qua hiện tượng kiết tường này, vì vậy Ngài nhất định sẽ biết.
Hiện Bồ-tát Di-lặc đã khởi lên suy nghĩ như thế, tức sự hoài nghi thứ hai cũng không còn; ý nghĩ thứ hai, chính là Ngài muốn tìm một người để hỏi; bây giờ đã tìm được rồi, nên ý hoài nghi thứ hai liền mất. Ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nhất định đã thấy qua tướng hy hữu này, tướng điềm lành rất hiếm thấy, từ trước đến nay chưa từng có. “Ta nay nên hỏi vị ấy.”: Bây giờ mình nên hỏi Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thôi!
D1. TÂM NGHI CỦA ĐẠI CHÚNG
Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và các trời, rồng, quỷ, thần v.v… đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông sáng chói này của Phật, nay nên hỏi ai?”
Nhĩ thời Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cập chư thiên long quỷ thần đẳng, hàm tác thử niệm: Thị Phật quang minh thần thông chi tướng, kim đương vấn thùy?
Đoạn văn này, là lòng hoài nghi của đại chúng nảy sinh. Không chỉ Bồ-tát Di-lặc khởi lòng nghi, mà ngay cả bốn chúng trong pháp hội này cũng đều khởi tâm hoài nghi, nghi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni định làm gì? “Lúc đó”: chính là lúc Bồ-tát Di-lặc khởi tâm nghi, bốn chúng đệ tử “Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và các trời, rồng, quỷ, thần v.v…”: chúng trời, rồng và tất cả loài quỷ thần trên trời cũng đều không biết.
“Đều nghĩ rằng”: đều, tức là toàn bộ đều có suy nghĩ như vậy; Nghĩ gì nào? “Tướng thần thông sáng chói này của Phật, nay nên hỏi ai?”: Hiện tại, từ trong tướng bạch hào của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni phát ra ánh sáng và thần thông, giờ nên hỏi ai đây?
Thế có phải Bồ-tát Di-lặc thật sự không biết? Có phải thật lòng hoài nghi? Tôi tin rằng không phải vậy! Vì sao? Trong quá khứ, Bồ-tát Di-lặc cũng đã cúng dường vô lượng chư Phật, nên phải có kinh nghiệm về sự kiện này; Ngài biết loáng thoáng, nhưng cố ý tỏ vẻ không biết, để vì đại chúng mà thỉnh pháp, thưa hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Còn lòng hoài nghi của đại chúng là sự thật.
C4. TỰA VỀ VIỆC THƯA HỎI (phân 2 phần)
D1. Văn Trường Hàng (phân 2 phần):
E1. Lời Của Vị Kết Tập Kinh
E2. Chính Thức Thưa Hỏi
D2. Văn Trùng Tụng (phân 2 phần)
E1. Thưa Hỏi
E2. Xin Được Giải đáp
E1. LỜI CỦA VỊ KẾT TẬP KINH
Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc muốn giải quyết điều nghi của mình; lại quán sát bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và cả trời, rồng, quỷ, thần v.v… tâm của chúng hội.
Nhĩ thời, Di-lặc Bồ-tát dục tự quyết nghi; hựu quán tứ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cập chư thiên long quỷ thần đẳng, chúng hội chi tâm.
“Bấy giờ”: Ngay lúc này, Bồ-tát Di-lặc nhìn qua, nhận thấy đại chúng cũng đều khởi lên lòng hoài nghi như thế; vì vậy “Bồ-tát Di-lặc muốn giải quyết điều nghi của mình”: Ngài cũng muốn giải quyết sự hoài nghi của mình, để không còn tâm nghi ngờ. “Lại quán sát bốn chúng”: Ngài lại quán xét bốn chúng hiện có mặt. Bốn chúng, chính là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di “và cả trời, rồng, quỷ, thần”: và thiên nhân trên trời, cùng tất cả các loài rồng, quỷ, thần.
Sao gọi là “quỷ” (guǐ)? Có người nói họ biết, rằng quỷ có quỷ đói (ngạ quỷ), và quỷ no (bão quỷ). Thế nào là quỷ đói? Thế nào là quỷ no? Chữ quỷ này, còn có nghĩa của một chữ, chính là “quy” (guī) (trở về); người chết làm quỷ, giống như người quay trở về vậy. Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta từ chỗ Phật đến. Bây giờ trở về chỗ nào? Trở về trong địa ngục, trở về trong đường ngạ quỷ. Vì sao trở về nơi đó? Là vì đi lầm đường, không trở về chỗ cũ của mình – họ cho rằng đấy là chỗ cũ của mình, đây gọi là đi lạc đường! Giống như họ cũng gọi “quy” (lấy âm tương đồng của nó), chính là quay trở về. Sau này giảng đến chữ “quỷ”, quý vị nên biết, sao gọi là “quỷ”? Chính là đã đi lầm đường, họ vẫn sẽ trở về? Trở về chỗ nào? Trở về quả vị Phật, đây là ý nghĩa của “quỷ”. Quỷ, tiếng Anh gọi là ghost, cũng có thể nói là goes (đi) (lấy âm tương đồng của “ghost”). Going đến chỗ nào? Going đến địa ngục. Tuy tôi không biết tiếng Anh, nhưng tôi lại cắt nghĩa một từ tiếng Anh.
“Thần” ở đây, gọi là “thiên tâm”. Thiên, chính là nghĩa “tự nhiên”. Nói họ có thần thông, chính là có sự cảm ứng một cách tự nhiên. “v.v…”: không chỉ có bấy nhiêu thôi, mà còn có rất nhiều trời, rồng tám bộ đều có mặt. “Tâm của chúng hội”: đại chúng cùng có mặt trong pháp hội, Bồ-tát Di-lặc quán sát tâm của mọi người.
E2. CHÍNH THỨC THƯA HỎI
Mà hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: “Vì nhân duyên gì mà có điềm lành này và tướng thần thông, phóng ánh sáng rực rỡ, chiếu khắp một vạn tám nghìn cõi nước ở phương đông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của đức Phật kia?
Nhi vấn Văn-thù-sư-lợi ngôn: dĩ hà nhân duyên nhi hữu thử thụy, thần thông chi tướng, phóng đại quang minh, chiếu ư Đông phương vạn bát thiên độ, tất kiến bỉ Phật quốc giới trang nghiêm?
“Mà hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng”: Thế là Bồ-tát Di-lặc liền thay mặt đại chúng, thưa hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Đại Bồ-tát Pháp vương tử, xin Ngài từ bi cho biết “vì nhân duyên gì mà có điềm lành này”: vì lý do gì, vì đạo lý gì mà hiện tại Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại phóng ra ánh sáng rực rỡ, chiếu khắp một vạn tám nghìn cõi nước ở phương đông như vậy? “Tướng thần thông”: tướng thần thông này, thật là lạ lùng hiếm có, từ trước đến nay tôi chưa từng thấy qua! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni “phóng ánh sáng rực rỡ, chiếu khắp một vạn tám nghìn cõi nước ở phương đông”: trước giờ tôi chưa từng nhìn thấy ánh sáng lớn đến như thế, ánh sáng này chiếu đến tận phương đông; chiếu về phương đông, cũng không phải chỉ chiếu những chỗ gần, mà chiếu đến một vạn tám nghìn cõi nước cơ đấy.
Vì vậy, quý vị xem, bây giờ chúng ta sắp lên mặt trăng, thì cho đó đã là ghê gớm lắm, hà! Quý vị xem, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chiếu đến một vạn tám nghìn cõi nước ở phương đông. Một vạn tám nghìn cõi nước, vậy thì không chỉ có một tinh cầu, nguyệt cầu (ngôi sao, mặt trăng) mà là chiếu qua đến một vạn tám nghìn tinh cầu, nguyệt cầu. “Đều thấy cõi nước trang nghiêm của Đức Phật kia”: không phải thấy được một ít mà thấy rõ tất cả. Đất nước rộng bao nhiêu, trang nghiêm tốt đẹp thế nào, tất cả đều hiển hiện rõ ràng bên trong tướng bạch hào này.
[1] Thước Trung Hoa. 1 thước = 0.33m.
[2] Tướng vô kiến đảnh 無見頂相 (uṣṇīṣaśiraskatā; Cg: nhục kế tướng): vẻ đẹp thứ 66 trong 80 vẻ đẹp của Phật, là tướng nhục kế trên đỉnh đầu của Phật cao đến mức không thể thấy được (Phật Quang Đại Từ Điển).
[3] Thước (Xích 尺): thước Trung Hoa. 1 thước = 0.33m.
(còn tiếp)