Chinese and English 1

Chinese and English 2

 

Liệng Bỏ Súng Đi

Bài nói chuyện của Quả Duệ (Simon Lau) tại Chánh Điện chùa Vạn Phật, ngày 8 và 9 tháng 5 , năm 2008. Báo Vajra Bodhi Sea (Kim Cang Bồ Đề Hải) số 458 và 459.

Quả Duệ (Simon Lau) và Hòa Thượng Tuyên Hóa

Kính thưa Hòa Thượng, Thầy Trụ Trì và các bạn Thiện Tri Thức,

Tôi đã đến Vạn Phật Điện này từ hơn 30 năm về trước. Rất nhiều người muốn nghe những câu chuyện về Hòa Thượng Tuyên Hóa, chứ không phải về tôi, về sự dạy dỗ và chuyển hóa chúng sanh của Ngài. Do đó tôi muốn chia sẻ môt câu chuyện xảy ra trong quá khứ về việc tôi gặp Hòa Thượng như thế nào.

Cách đây hơn 30 năm, vào năm 1978, tôi đã đến Chùa Vạn Phật lần đầu tiên. Chúng tôi gồm có tám người, đi đến đây với 2 chiếc xe. Chúng tôi chỉ muốn đến để ngắm nhìn Vạn Phật Thánh Thành mà thôi.
Tại sao chúng tôi đi Vạn Phật Thánh Thành?  Đó là vì  một vài tháng trước khi đến đây, tôi nằm mơ thấy môt vị sư ngồi trong thế kiết-già bay về hướng tôi. Trong giấc mơ tôi tự biết đây là thầy của mình và gọi Ngài là “Sư Phụ” . Sau đó tôi cũng không bận tâm nhiều lắm về chuyện này, dù sao đây cũng chỉ là một giấc mơ. Về sau trong một tờ báo, tôi nhìn thấy ba chử “Kim Sơn Tự”, nó gây ra một cảm giác khá mạnh mẽ trong lòng tôi. Tôi tự nhủ, mình phải tìm ra chỗ này mới được, nó thấy quen quen sao ấy. Tôi cứ tưởng là nó nằm gần trên khu Mission hay gần đường số 15, cho nên tôi bắt đầu tìm kiếm hy vọng sẽ tìm ra chùa Kim Sơn. Tuy nhiên chúng tôi đã lái xe cả mấy ngày trời mà vẫn không có kết quả. Kết cuộc thì chúng tôi cũng đã tìm ra và ngôi chùa Kim Sơn thật ra chỉ cách chỗ chúng tôi ở có 2 con đường thôi. Kể từ đó tôi hay đến chùa để nghe ngóng tin tức nhưng tôi cũng không biết lý do vì sao.

Vào thời gian đó, cổng chùa Vạn Phật vẫn chưa được xây. Chúng tôi phải đi qua cái cổng sắt gần văn phòng hành chánh. Ngày hôm đó nhằm ngày Pháp hội Quán Âm, chúng tôi đến hơi trễ. các vị pháp sư đều đang ở trên chánh điện và cổng sắt ngoài thì bị khóa. Bình thường với tánh khí của tôi, tôi có thể vào trong cho dù cửa có bị khóa nhưng chúng tôi đã không làm như vậy. Chúng tôi chỉ ở ngoài cổng chờ xem có ai đi vào hoặc đi ra thì chúng tôi mới vào.  Nhìn từ bên ngoài chỗ này rất rộng lớn.

Chúng tôi đợi khoảng một tiếng đồng hồ.  Bỗng nhiên, có một vị thầy cưỡi xe đạp chạy ra. Sau này tôi mới biết đó là Thầy Hằng Lai, môt vị sư người Mỹ cao lớn. Ông ta nói: “Mấy ông muốn vào trong à ! ” . Thầy mở cổng cho chúng tôi vào mà không nói thêm lời nào nữa. Chúng tôi vào trong rồi đi vòng quanh. Sau đó thì đến Chánh Điện. Khi bước vào mọi người nhìn chúng tôi như là quái vật. Nhiều người có vẻ rất sợ chúng tôi, có lẽ vì tướng mạo tụi tôi lúc đó. Thật ra tôi cũng không hiểu và cũng không hình dung được tại sao người ta lại sợ chúng tôi, nhưng cũng không có ai gọi cảnh sát hay làm gì cả. Sau này chúng tôi mới biết là khi đang đợi ở bên ngoài thì Sư Phụ đang ngồi trên pháp toà giảng kinh.  Bỗng nhiên, Sư Phụ ra hiệu là có người nào đó muốn vào và bảo Thầy Hằng Lai đi ra mở cổng. Như chúng ta biết chánh điện của Vạn Phật không có cửa sổ, tuy nhiên Hoà Thượng lại biết có người đang đợi bên ngoài cổng. Tám người chúng tôi ngồi ở phía sau cùng của chánh điện, lúc đó chúng tôi không hiểu gì cả và cứ nghĩ là nó thú vị sao ấy.  Thế rồi chúng tôi đã ngồi đó nhưng không phải nghiêm chỉnh như quý vị bây giờ. Thật ra chúng tôi ngồi rất lộn xộn, phong cách cẩu thả, so với quý vị thì như một trời một vực vậy đó. Thuở ấy tụi tôi rất là bê bối. Trong khi Hòa Thượng đang giảng kinh trên pháp tòa, chúng tôi chỉ nhìn từ phía sau để xem chuyện gì sẽ xảy ra. Sau buổi thuyết pháp, Hoà Thượng từ chỗ ngồi trên pháp tòa bước xuống và đi về phía sau của chánh điện. Bình thường thì có một cái ghế đặt sẵn ở đó để Hòa Thượng ngồi nghỉ sau khi thuyết giảng.

Thế rồi Hoà Thượng tuyên bố: “Có ai thích đến viếng thăm chỗ của tôi không?” Tôi thật không quen biết Hòa Thượng và chỉ nghĩ: “Ồ, có nơi đi thăm viếng à ? Tất nhiên chúng tôi phải đi xem rồi”. Chúng tôi nối gót đi theo. Hòa Thường cư ngụ ở khu phía sau. Cho dù lúc ấy có ý tưỏng hiện lên trong tâm là “Tôi không biết Ngài, Ngài là người xa lạ với tôi, tại sao lại đi theo ông ta?” nhưng tôi không cách nào khác là phải đi theo Hòa Thượng khi Ngài bảo “Đi”. Lúc đó tôi có dịp nhìn Hòa Thượng rõ hơn một chút, trong một khoảnh khắc tôi bỡ ngỡ nhận ra “Hêy, vị thầy này sao thấy quen quen”.

Khi tới nơi, một nữ cư sĩ tên Helen Woo mà chắc phần lớn quý vị đây không biết đâu, đón chào chúng tôi và tìm chỗ ngồi cho chúng tôi. Hòa Thượng lúc đó đang nói chuyện với các pháp sư và những vị cư sĩ khác bên góc kia của căn phòng. Sau năm hay mười phút, bà Helen Woo đến và hỏi: “Mấy ông muốn quy y không”? “Quy y? Quy y là cái gì”? Bà ấy nói, quy y là mình lạy vị này làm sư phụ. Trong tâm tôi nghĩ là dĩ nhiên rồi, nhưng tôi không nói ra, chỉ đáp “Khoan đã, tôi cần hỏi mấy người kia trước”. Tôi hỏi bảy người kia, “Tụi bây muốn quy y không?”, Họ hỏi “Quy y là cái gì?”. Thông thường khi họ hỏi chuyện gì tôi đều có câu trả lời, chưa bao giờ có một trường hợp mà tôi không biết phải trả lời sao cả. Nhưng lần này tôi thật mù tịt không biết quy y là gì (thở dài). Chúng tôi thời đó thật là mê muội không biết gì cả. Bảy người họ nói: “Nếu đại ca quy y thì chúng tôi cùng quy y chung với anh”. Trong lòng tôi đã định quy y. “Được lắm, mình sẽ quy y và bái Thầy làm sư phụ”. Tôi bảo bà Helen Woo, “Vâng, chúng tôi sẽ thọ quy y”. Đó là cách chúng tôi trả lời.

Bà Helen Woo đi báo với Hòa Thượng rồi trở về nói “Hòa Thượng đồng ý”. Vậy chúng tôi làm gì, tôi hỏi. Bà ta bảo: “Tất cả các anh tám người lại đây, quỳ xuống”. Được! Làm thì làm. Chúng tôi đều quỳ cả. Trước nay chúng tôi chư hề quỳ trước mặt ai, cho nên cũng không biết phải làm sao. Cho dù chúng tôi có quỳ làm lễ với thần linh theo phong tục hay truyền thống thì cũng làm qua loa cho xong, nhưng đây là lần đâu tiên chúng tôi quỳ gối một cách nghiêm túc, cũng không biết tại sao. Bảy người kia thấy tôi quỳ, tôi nói : “Quỳ xuống! Mọi người đều quỳ xuống”. Quỳ hả? Họ hỏi. Một số cảm thấy bị ép buộc nhưng nhìn thấy tôi quỳ họ cũng làm theo. Rồi thì chúng tôi quỳ ờ đó và buổi lễ Quy y bắt đầu. Chúng tôi lập theo lời Hòa Thượng “Con nguyện quy y Phật. Con nguyện quy y Pháp. Con nguyện quy y Tăng” v.v…

Sau buổi lễ Sư phụ nói chuyện với chúng tôi. Lời đầu tiên là Ngài hỏi: “Ai trong các ông có đem súng theo? Có ai đem súng theo không?”. Khi sư phụ hỏi, tôi thật sự không biết trả lời sao, trong lòng tôi đang nghĩ: “Mình có nên nói cho Hòa Thượng biết hay không?”. Lý do vì sáng nay khi ra đi tôi đã dặn mọi người là không đem súng theo. Tuy nhiên có một tên đàn em cứng đầu đã không làm theo lời tôi bảo, hắn lén nhét theo một khẩu vào người mà tôi không biết. Tôi thưa “Dạ không có súng”. Hòa Thượng đáp “Không có?”, Ngài hỏi vặn thêm “Không có thật sao?” Tôi đáp “Con thật không có súng!”. Lúc đó tôi cũng thắc mắc tại sao Ngài hỏi tôi mấy chuyện ấy vì thật sự tôi không đem súng.

Sau khi bước ra ngoài tôi mới khám phá là có người đem súng và đó là lý do khiến Hòa Thượng  đã tra hỏi tôi như thế. Tôi hỏi bảy người bọn họ: “Có ai đem súng không?” Dĩ nhiên tên có tội đó không dám đứng gần tôi mà đứng xa xa. Tôi nhìn thấy hắn và quả thật y có một khẩu súng. Tôi thầm nghĩ “Ồ, làm sao mà cái ông tăng già này biết về chuyện này được, thật là kỳ quái!”. Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi về Sư phụ.

Sau khi hỏi về những cây súng, Hòa Thượng tiếp tục nói: “Sau khi quy y với tôi, các ông không nên dính líu đến các tội phạm như là giết người, phóng hỏa hay các hành vi bất hợp pháp khác”. Chúng tôi rất ngạc nhiên khi nghe các lời dạy trên “Ô! Tại sao sư phụ nói với chúng ta về những việc này. Lạ thật!”. Tôi cũng vậy, cũng không hiểu tại sao Hòa Thượng nói những lời này. Ngài biết những chuyện mà tôi không biết – như chuyện có người trong bọn tôi có súng. Tôi thầm nghĩ “Hình như Hòa Thượng có thể nhìn thấu chúng tôi”. Phải lâu lắm về sau tôi mới hiểu được lý do. Lúc đó bọn tôi đều hứa suông và đó là câu chuyện quy y của chúng tôi. Tôi không hề kể cho ai nghe là chúng tôi đến từ đâu. Quy y xong chúng tôi trở về nhà. Sư phụ khi đó mới hỏi Quả Tương (Helen Woo) “Bà sao mà cả gan dám nói chuyện với bọn họ và còn bảo họ quy y nưã?”

Để tôi kể một câu chuyện trước đã. Nếu tôi không nói về chuyện này người ta sẽ không hiểu tại sao Hòa Thượng lại hỏi chúng tôi về những cây súng. Lúc còn trẻ, tôi quen biết với nhiều bạn bè trong giới giang hồ, khi đó đang chia thành nhiều băng đảng ở phố Tàu. Họ thật là khác thường nhưng tôi không phải là đại ca của họ, cho nên quý vị không có gì phải sợ cả. Tôi chỉ quen biết bạn bè với họ thôi. Vào lúc đó vụ án Kim Long mới vừa xảy ra cách đó một năm. Tôi tình cờ biết những kẻ tòng phạm đó, họ đều còn rất trẻ. Hòa Thượng hỏi tôi: “Ai đã làm chuyện đó”, tôi thưa “Dạ con không có dính líu trực tiếp tới vụ này nhưng con biết những kẻ giết người kia”. Hoà Thượng  nói : “Thế hả, con không nên có bất kỳ liên hệ gì với họ nữa”. “Con không nên làm bạn với họ nữa à, dạ được!” tôi đáp.  Miệng thì hứa với Hòa Thượng như thế nhưng trong lòng thì không.  Cho nên lúc đó tôi đã nói dối trắng trợn.

Sau khi trở về San Francisco Hòa Thượng căn dặn chúng tôi: “Các anh cần vứt bỏ tất cả súng ống xuống cầu Kim Môn.” Tôi thưa: “Con không thể hứa được điều này. Nếu liệng bỏ súng đi thì người ta sẽ giết chúng con mất. Con nên làm gì đây?” Hòa Thượng đáp: “Những gì con lo sẽ không xảy ra đâu. Hãy vứt súng đi!”. “Được rồi, con sẽ suy nghĩ lại.” Tôi chỉ trả lời cho qua và không thật hứa hẹn gì với Sư phụ cả. Chúng tôi quy y vào năm 1978.  Sau vụ giết người Rồng Vàng vào năm 1976 và 1977,  khu phố Tàu thật rối loạn như phố ma. Nhiều băng đảng thanh toán lẫn nhau.Tôi vẫn không quên lời chỉ dạy lần thứ hai cuả Sư phụ: “Có nhiều sự hỗn loạn ở phố Tàu. Các anh không nên gây sự với những người đó nữa. Các anh nên rời khỏi chỗ này; đừng vào phố Tàu để gây rối nữa.” Tôi nói: “Sư phụ, con không phải là người duy nhất gây chuyện đâu. Phố Tàu rất rộng lớn, làm sao một mình con có thể gây náo loạn như vậy được?. Còn có nhiều băng đảng khác nữa. Không liên can gì đến con, nếu con không xuất hiện, người khác sẽ xuất hiện thôi!”. Sư phụ bèn nói “Tôi muốn các anh rời khỏi chỗ đó. Nếu anh đi rồi thì phố Tàu sẽ yên tĩnh trở lại, tôi bảo đảm như vậy.” Tôi đáp “Phải rời khỏi à? Chúng con không có bao nhiều người cả.  Thôi được, chúng con sẽ đi nhưng con phải tham khảo ý kiến với mấy người bạn trước đã.” Tôi đã không hứa hẹn gì ngay với Hòa Thượng về hai đề nghị trên, tôi chỉ nói qua loa cho xong chuyện thôi.

Sau đó, tôi bàn thảo với nhóm của tôi, “Ai đồng ý vứt súng? “ Vứt súng à? Nếu người ta bắn chúng ta thì sao?”.  Tất cả họ đều hỏi tôi như vậy. Tôi quay lại chùa Kim Sơn và lúc đó Hòa Thượng đi vắng, chỉ có Thầy Hằng Quán và Hằng Thuận. Tôi hỏi: “Nếu chúng tôi quẳng súng, chúng tôi phải làm gì khi người ta bắn chúng tôi? Chúng tôi sẽ không có súng để tự vệ”. Hai ngày sau, chúng tôi nhận được câu trả lời.  Câu trả lời là gì?  Một vị thầy đã chuyển lời đến chúng tôi: “Hòa Thượng nói nếu người ta bắn các anh, thì các anh chỉ cần niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Họ sẽ không thể đụng đến các anh được.”.  “Nếu tôi chạm mặt với họ thì sao?” “Hãy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì người ta sẽ không nhìn thấy anh.” Điều này khiến tôi chú ý hẳn lên. “Hay lắm, mình có thể học chút pháp thuật để tàng hình. Và rồi tôi sẽ không cần súng nữa, thậm chí chúng tôi sẽ có nhiều oai phong hơn khi xuất hiện ở phố Tàu”. Vị thầy bảo: “Điều này chỉ có hiệu lực sau khi các anh bỏ hết súng ống.” “Thôi được, thế thì chúng tôi sẽ vứt bỏ hết”. Tôi vẫn còn đang suy nghĩ liệu có nên ném súng hay không.  Sau khi bàn bạc, chúng tôi quyết định ném súng xuống cầu Kim Môn. Tôi không biết giờ mình có thể tìm lại chúng được hay không nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ thôi.

Quả thật những gì chúng tôi lo lắng rồi cũng đến. Một người bạn của tôi đã bị bắn khi đang lái xe nhưng bản thân tôi thì không có vướng vào vụ nổ súng nào cả. Tuy nhiên, anh ấy không bị bắn trúng.  Tôi tin oai lực của Hòa Thượng đã chế ngự chúng tôi.  Từ đó trở đi, khu phố Tàu đã thật sự trở lại những ngày tháng yên bình. Lý do khi chúng tôi ra đi, ai ai cũng trở về với cuộc sống xưa cũ. Lúc đó, tôi đã không biết nguy hiểm là gì, nhưng giờ đây nghĩ lại, tôi thấy mình đã lâm vào tình cảnh thật nguy hiểm. Hòa Thượng đã cứu mạng tất cả chúng tôi. Vào thời gian đó, thỉnh thoảng tôi cũng đi loanh quanh đến chùa Kim Sơn, hy vọng học thêm về cái pháp thuật tàng hình đó. Mục đích tụng kinh của tôi lúc ấy là để đạt được khả năng ẩn biến, là điều đã thu hút tôi đến chùa Kim Sơn mà khi ấy vẫn còn nằm trên đường 15.

Trong khi Hòa Thượng hướng dẫn phái đoàn Phật tử đến Mã Lai và Singapore vào năm 1978, tất cả chúng tôi trong cùng một đêm đều mơ thấy Hòa Thượng đến xoa đỉnh đầu của mình. Chúng tôi thường đi ngủ lúc 3 giờ trong khi các vị tăng xuất gia thức dậy lúc 3 giờ 30 sáng. Ngay khi chúng tôi vừa chợp mắt, chúng tôi nằm mơ thấy Hòa Thượng.  Không biết vì sao nhưng trong giấc mơ tôi có cảm giác quỳ lạy Hòa Thượng, và Ngài đưa tay ra sờ đỉnh đầu tôi. Ngày hôm sau, tôi kể cho mấy người kia nghe về giấc mơ của mình. Họ bảo họ cũng đều có cùng giấc mộng như thế.  Họ nói: “Sư Phụ cũng đến bên tôi. Ngài xoa đỉnh đầu tôi.” Chúng tôi đến Chùa Kim Sơn và kể lại với các vị sư những gì đã xảy ra. Khi đó chúng tôi thật sự không biết ý nghĩa của việc “xoa đỉnh đầu”.  Sau này thì chúng tôi hiểu nó có ý nghiã như thế nào.  Hòa Thượng rất từ bi và biết chúng tôi không thể sống cuộc sống mới như thế này.  Vì thế, Ngài đến phù hộ và giúp chúng tôi chế ngự những thói hư tật xấu để chúng tôi không phát ngông cuồng nữa.

Sau khi quy y, chúng tôi muốn bắt đầu một cuộc sống mới, tuy nhiên nó không dễ dàng vì chúng tôi không có nhiều khả năng để hoàn toàn xoay chuyển cuộc sống.  Chúng tôi thậm chí phải thay đổi cách sống và những thói quen hàng ngày như tập đi ngủ sớm và dậy sớm đi làm. Một số thì vào trường đi học lại, còn tôi thì bắt đầu tìm việc làm. Chúng tôi cũng thường hay đến chùa Kim Sơn và bắt đầu lắng nghe Sư phụ giảng kinh và các băng thuyết pháp.

Một số trong chúng tôi đã tìm được việc và đi làm, một số quay trở lại trường học. Chúng tôi đã sống như thế trong một thời gian. Trước đó, chúng tôi đã liên lạc với nhiều người và muốn mua một ít đạn dược và vũ khí; tuy nhiên giá cả đã không được thoả thuận và cũng không có mối lái tốt. Bỗng nhiên trong thời gian đầu của cuộc sống mới, khá nhiều kẻ buôn vủ khí liên lạc với chúng tôi và dành cho chúng tôi giá rất hời – khiến chúng tôi gần như bị mềm lòng. Chắc chắn nếu là trước đây thì chúng tôi đã mua các loại súng đạn ấy, nhưng rồi tất cả chúng tôi đều quyết định “Bởi vì chúng ta đã từ bỏ súng ống, bây giờ mua chúng lại để làm gì?”  Rốt cuộc chúng tôi đã không mua bán vũ khí gì nữa.  Một ví dụ khác nữa là có sòng bài đã đề nghị chúng tôi vào làm để chúng tôi có thể kiếm chút tiền.  Vài người khác cũng liên lạc nhưng chúng tôi không nhận lời- vì chúng tôi đã quyết tâm làm lại cuộc đời mới.

Có chuyện này cũng dáng được nhắc đến là hai năm sau khi quy y, chúng tôi đã tham gia vào công tác thiện nguyện.  Tôi nghe nói chùa Vạn Phật sẽ xây một cổng lớn và đã tự nghĩ “Tôi cũng có thể tham gia vào công việc tình nguyện này”. Tuy nhiên, tôi không biết làm những việc như thế. Tôi thưa với Sư phụ về điều này. Ngài bảo: “Một khi đến đó rồi, con sẽ biết làm thôi.”  Vì thế, chúng tôi đến chùa Vạn Phật tham gia công việc thiện nguyện.
Giờ để tôi kể cho quý vị nghe: Vào lúc đó tôi còn rất trẻ và thậm chí không biết cưa một mảnh gỗ nữa. Khi đó, ông Bob Olson (Quả Pháp) chịu trách nhiệm dự án này. Ông ấy bảo tôi đi đến cái cổng và làm một khung gỗ trước. Tôi đến đó nhìn vào bản sơ đồ trong khi ông ấy giải thích phải làm thế nào. Nhưng tôi hoàn toàn ngớ ngẩn vì không biết làm sao để cưa mảnh gỗ cả. Khi tôi bắt đầu, tôi phải cưa nó đến bốn hay năm lần và dù vậy cũng chưa được thành công.  Tôi cũng không biết mình đang làm cái gì đây. Quả Pháp rất kiên nhẫn chỉ dạy tôi, vì thế tôi đã tiếp tục.  Sau một vài ngày, tôi bắt đầu nắm bắt được khái niệm. Tuy đã khá hơn ngày đầu tiên vì tôi không phải cưa ba hay bốn lần khi cần mảnh gỗ nào đó.  Khi người thợ mộc cưa, họ chỉ cần một nhác và thế là xong. Còn tôi thì phải cưa đến bốn hay năm lần cho đến khi gỗ không còn là gỗ nưã. Dần dà rồi khung gỗ cho vòng cung giữa cũng được làm xong.

Vào thời gian đó thì thường một tuần một lần Sư phụ từ San Francisco đến chùa Vạn Phật và ai nấy cũng muốn gặp Ngài cả. Tôi cứ suy nghĩ suốt ngày: “Khi nào Sư phụ sẽ đến?” Khi chúng tôi biết Sư phụ đến thì tất cả những khó nhọc đều tan biến và công việc sẽ trở nên rất nhẹ nhàng và trôi chảy. “Ồ, Sư phụ đến kìa!” Chúng tôi sẽ có thêm sức lực và làm việc chăm chỉ hơn. Và khung gỗ đầu tiên cũng đã được hoàn thành như thế.  Tôi đang chầm chậm lo làm cái khung và suy nghĩ thêm cách làm. Trước khi tôi nắm bắt được thì khung cửa đã được làm xong rồi.  Khi đó, Thầy Hằng Lai bước lên mái nhà và trêu chọc tôi: “Bây giờ anh là thợ mộc rồi đó”. Tôi nói: “Tôi trông giống thợ mộc lắm à? Tôi chỉ làm rối tung lên hết thôi”. Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã không biết mình đang làm gì đây nhưng rồi ít nhiều tôi cũng đã làm được gì đó. Cổng lớn mà quý vị thấy bây giờ đã được hoàn tất bằng sự học hỏi từ từ như thế.  May mắn thay, Quả Pháp đã kiên nhẫn chỉ dẫn chúng tôi làm.  Quý vị nên biết là trước đây chúng tôi chưa bao giờ làm qua và đó là lần đầu tiên.  Chúng tôi cầm lấy cây cưa và cưa đại thôi.  Dần dần chúng tôi học hỏi và làm thành cổng lớn như thế đó. Sau đó, chúng tôi trở lại San Francisco và làm việc bên ngoài một thời gian.

Trên thật tế chúng tôi cũng không đến nỗi xấu xa lắm đâu, chỉ là những kẻ phá phách, ham vui và thích giỡn chơi với bạn bè thôi. Thời ấy tôi chẳng biết tuân theo luật lệ gì cả. Nghĩ lại, có khoảng thời gian chúng tôi đã sa ngã. May mắn thay, Hòa Thượng đã cứu vớt chúng tôi. Đó là lý do mà trong ba mươi năm qua tôi chưa hề rời khỏi Vạn Phật Thánh Thành.

 

Xin xem thêm:

Một Công Ty Bảo Hiểm ở Phố Tàu

http://www.foundsf.org/index.php?title=The_Golden_Dragon_Restaurant_Massacre