Chinese | Vietnamese

Sự Tự Do Chân Thật Và Cuộc Sống Trường Thọ

Bài thuyết pháp ngày 28 tháng 10 năm 1990 tại Chùa Quán Âm, Paris, Pháp.
(Bài khai thị Genuine Freedom and Longevity  từ sách Dharma Talk in Europe,
nguyên bản Hoa ngữ bài khai thị
 戒酒色財氣得自在 – Giới Tửu Sắc Tài Khí Đắc Tự Tại – từ sách 佛教新紀元 – Phật Giáo Tân Kỷ Nguyên)

Rượu, tình dục, tiền tài và lòng sân giận đã làm sa đọa vô số tín đồ Phật giáo

Rượu, tình, tiền, sân giận là bốn tường vây kín;
Làm nhiều người mê muội bị mắc kẹt bên trong.
Nếu ai có thể nhảy ra khỏi bức tường này,
Sẽ tận hưởng cuộc sống trường sanh bất lão. (1)

Bài kệ này nói về ngũ dục của thế gian là Tài, Sắc, Danh, Thực ,Thùy, là những thứ khiến cho con người bị điên đảo sống say, chết mộng, quá mê mờ không biết quay về.
Ngoài ra còn có “Rượu, tình, tiền và sân giận” (tửu, sắc, tài, khí). Những người thích rượu không ngừng nghĩ về việc uống rượu. Những người khao khát sắc dục luôn nghĩ về sắc dục. Những người thèm muốn sự giàu có luôn cố gắng nghĩ cách làm giàu. Những ai thích nóng giận thì luôn mất bình tĩnh trong mọi vấn đề dù lớn hay nhỏ. Bốn điều này giống như bốn bức tường vây kín người ta lại (tứ đổ tường), do đó nói: “Làm nhiều người mê muội bị mắc kẹt bên trong” . Không thể nào biết được có bao nhiêu người sống bên trong những bức tường đó. “Nếu ai có thể nhảy ra khỏi bức tường này” , nếu một người có thể kiềm chế không uống rượu, không tham sắc, không tham tiền, và không nóng giận, thì “sẽ tận hưởng cuộc sống trường sanh bất lão”. Nếu quý vị không bị dao động bởi rượu, tình dục, tiền bạc, hay nóng giận, quý vị chắc chắn sẽ sống trường thọ.

Mặc dù đạo Phật dạy chúng ta không nên chấp vào tuổi thọ (vô thọ giả tướng), tuy nhiên nói về tuổi thọ thì cần nên không nóng giận, không uống rượu hay dùng các độc tố (ma túy), và cũng không ham mê tình dục hoặc tiền bạc, tài sản. Được như vậy thì xem như quý vị có thể kiểm soát được tuổi thọ của mình. Nếu quý vị muốn sống lâu hơn một chút, thì quý vị có thể sống lâu thêm một chút. Nếu quý vị không muốn sống quá già , thì quý vị có thể đi tái sanh bất kỳ lúc nào mình muốn. Quý vị tự do và tự tại. Đây thực sự là tự tại. Tự tại có nghĩa là quý vị luôn nắm quyền kiểm soát (tự tại), và không bị điều khác chi phối (tha tại). Thế nào là bị chi phối bởi thứ khác (tha tại)? Nếu quý vị luôn có những vọng tưởng, đó là bị thứ khác làm chủ (tha tại). Thế nào là tự tại. Nếu quý vị không có vọng tưởng, đó là tự mình làm chủ (tự tại). Nếu muốn trở thành Bồ Tát Quán Tự Tại [Quán Âm Bồ Tát], quý vị không được có vọng tưởng. Khi quý vị phá tan vọng tưởng và các chấp trước thì đó là tự làm chủ (tự tại); đó là Bồ Tát Quán Tự Tại. Đó cũng là “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.” [Bát Nhã Tâm Kinh].

Rượu, sắc dục, tiền tài và sân giận đã làm sa đọa vô số Phật tử. Tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ) cũng đã hủy hoại tương lai của vô số những người có tiềm năng thành chư thánh hiền. Tuy vậy con người vẫn chưa thức tỉnh. Họ vẫn tiếp tục lối sống say chết mộng, mê mờ không biết làm thế nào để quay lại. Thật là ngu si, thật là đáng thương hại! Đó là lý do tại sao khi còn trẻ, tôi coi Tài, sắc, danh, thực, thùy là cực kỳ ô uế, như phân hoặc bụi bẩn. Tôi coi rượu, sắc dục, tiền tài, và nóng giận như mọi thứ bên ngoài không liên quan gì với thân, tâm hoặc tính mạng của tôi. Tôi bắt đầu tìm kiếm một phương cách rời khỏi ngũ dục và nhảy ra ngoài bốn bức tường. Đó là lúc tôi quyết định xuất gia.

Sau khi xuất gia, tôi muốn giúp người, nên tôi đã dùng đến Chú Đại Bi, pháp Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn (2) và Chú Lăng Nghiêm để cứu mạng người. Tôi đã cứu cho nhiều người nhưng khi làm việc đó tôi đã gây hấn với nhiều yêu ma quỷ quái. Một số yêu ma quỷ quái đến từ cõi trời, một số yêu ma quỷ quái từ cõi nhân gian, cũng có một số là thủy quái sống dưới nước. Tại vì tôi đã xúc phạm với khá nhiều các loài thiên ma ngoại đạo, các yêu tinh trên núi, thủy quái sông biển v.v. nên tôi suýt bị chết chìm khi có lần đi tàu từ Thiên Tân tới Thượng Hải. Tôi nhớ là chuyến đi thường chỉ kéo dài độ ba hay bốn ngày thôi (đó là cách đây 40 năm về trước.) Nhưng chuyến tàu tôi đi lần đó lênh đênh trên biển hơn nửa tháng. Tất cả thực phẩm và nước uống trên tàu hầu như đã cạn nhưng con tàu cứ chạy vòng tròn trên vùng biển đen mênh mông. Các máy móc trên tàu đều không hoạt động, và không có cách nào khác để đi đến bờ. Trên tàu có mấy trăm hành khách, ai cũng đều ói mửa. Khi con tàu chồm lên phía trước, mũi tàu vươn cao lên trời hàng mấy thước. Khi con tàu chúi xuống, nó rơi xuống cũng mấy thước, con tàu cứ chúi lên nhào xuống trên biển đen khiến nó gần như muốn lật. Vào thời điểm đó, niệm chú Đại Bi cũng không linh nghiệm và niệm chú Lăng Nghiêm cũng không linh nghiệm. Tôi nôn ói ra hết tất cả những gì trong bao tử và nằm liệt trên sàn tàu, không tài nào cử động được. Tôi biết con tàu không chạy đuợc vì các thủy quái đang chiến đấu với tôi, chúng muốn lật con tàu và nhấn chìm tôi. Tôi ói ra hết tất cả, ngay cả mật, và tôi kiệt sức. Lúc đó tôi nghĩ đến việc tự nhảy xuống biển để những người khác không bị liên lụy vì tôi. Nhưng tôi còn một niềm hy vọng: Tôi cầu nguyện với Quán Thế Âm Bồ Tát.

Tôi nói, “Bồ Tát Quán Âm, từ khi con ra đời con luôn muốn làm Phật sự. Nếu con có thể giúp ích cho Phật Pháp xin Ngài hãy vươn tay thánh làm dịu đi mặt biển và hướng dẫn con thuyền về đến Thượng Hải. Nếu Ngài không thể đưa bàn tay thánh cứu con, thì con sẽ nhảy xuống biển để mọi người không phải mất mạng vì con. Con sẵn sàng chấp nhận quả báo của mình.”

Khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì quả nhiên sóng to gió lớn dịu xuống. Sau hơn mười bốn ngày chiếc tàu cuối cùng đã đến được Thượng Hải (3). Nếu còn lênh đênh trên biển thêm một vài ngày nữa, người ta đói quá rất có thể phải ăn thịt nhau và hậu quả thật không thể lường được . Đó là những thứ khó khăn phiền hà tôi trải qua khi can thiệp vào các vấn đề của người khác và cố gắng giúp đỡ họ. Từ đó trở đi, sau khi tôi đến Hương Cảng (Hồng Kông), tôi không dám can thiệp quá nhiều vào chuyện của kẻ khác. Ngay cả bây giờ tôi cũng không can dự quá nhiều. Nếu người ta bị bệnh và tôi có thể giúp cho họ thì tôi âm thầm giúp. Nếu tôi không thể giúp được, tôi cũng không thể làm gì hơn.
Bây giờ nghĩ lại thời tôi còn trẻ, tôi thấy mình không biết cách bảo vệ mình, và tôi không biết vũ trụ rộng lớn bao la như thế nào, nên tôi đã xúc phạm vô số sơn yêu thủy quái. Hôm nay tôi nói với quý vị điều này, hy vọng qúy vị sẽ không giống như tôi can thiệp vào các vấn đề của người khác quá nhiều.

Ghi chú của ban Phiên Dịch Việt Ngữ VPTT:

(1) Nguyên văn Hoa ngữ của bài kệ:

酒色財氣四堵牆
許多迷人裏邊藏
有人跳出牆兒外
就是長生不老王

Tửu sắc tài khí tứ đổ tường
Hứa đa mê nhân lí biên tàng
Hữu nhân khiêu xuất tường nhi ngoại
Tựu thị trường sanh bất lão vương.

 

(2) Pháp 42 Thủ Nhãn là Pháp Môn không được tuỳ tiện tự truyền hay tự học. Trong bài http://www.drbachinese.org/vbs/publish/469/vbs469p023.pdf và http://www.dharmasite.net/VanChungNhatTamVanPhatThanh.htm có nhắc những lưu ý của Hòa Thượng: Thông báo được công bố ngày 16 tháng 8 năm 2006 của Văn Phòng Quản Trị Vạn Phật Thánh Thành: Bất cứ khi nào Hòa thượng Tuyên Hóa truyền pháp 42 Thủ Nhãn, Ngài luôn nhấn mạnh “Bất cứ ai truyền pháp này mà không có sự chấp thuận của tôi sẽ gặp ma chướng.” (1). Trước khi nhập Niết bàn, Ngài đã đặc biệt huấn thị vị trụ trì của Vạn Phật Thánh Thành (Pháp sư Hằng Luật) như sau: “Đừng để pháp môn Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn này diệt tận. Hãy tiếp tục truyền lại cho các thế hệ sau. Việc truyền pháp này phải được tiến hành trước tượng Bồ Tát Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt (ở Phật Điện chính của Vạn Phật Thánh Thành).” (2)

(1) Nguyên văn Hoa ngữ: 「若未經我(老和尚)認可授權, 而私自傳授此法門者,將會有魔障發生。」- “Nhược vị kinh ngã (Lão Hoà Thượng) nhận khả thọ quyền, nhi tư tự truyền thọ thử pháp môn giả, tương hội hữu ma chướng phát sinh.”

(2) Nguyên văn Hoa ngữ:「四十二手眼法門不要斷了,要繼續傳下去,要在(萬佛聖城)觀音殿的千手千眼觀世音菩薩像前傳。」- “Tứ thập nhị thủ nhãn pháp môn bất yếu đoạn liễu, yếu kế tục truyền hã khứ, yếu tại (Vạn Phật Thánh Thành) Quán Âm Điện đích Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát tượng tiền truyền. “

Ngoài ra trong bài http://www.dharmasite.net/ViSaoTungDocNgayAnMotBuaLuonMacAoGioi.htm có đề cập:

Nếu quý vị nghe người khác nói rằng họ trước đây từng sống ở Vạn Phật Thánh Thành và rằng Hòa Thượng đã truyền Pháp cho họ, rằng họ từng giữ chức vụ như thế này thế kia, rằng họ là một vị Thầy Thủ Tọa (đứng đầu), hoặc là Hòa Thượng đã truyền Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn cho họ, quý vị đừng lưu tâm hay lắng nghe những điều này. Có thể rằng khi họ mới đến Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng đã để họ thuyết Pháp, nhưng quý vị phải hiểu rằng tất cả bốn chúng đệ tử đều phải học thuyết Pháp. Đó là một trong những quy củ của Vạn Phật Thánh Thành. Tuy nhiên, họ có lẽ không đề cập một lời nào về việc thế nào hay tại sao họ cuối cùng đã rời bỏ đi.


Thêm nữa, còn có Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn. Hòa thượng đã nói với Thầy Phương Trượng của Vạn Phật Thánh Thành: “Con phải truyền Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn cho các thế hệ kế tiếp tại trước tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn trong Vạn Phật Điện tại Vạn Phật Thánh Thành.” Có một số người nói: “Chúng tôi nên làm như thế nào ? Chúng tôi không thể đi đến Vạn Phật Thánh Thành bây giờ. Nếu như vậy chúng tôi không thể học Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn hay sao ?” Tôi thật sự không thể trả lời câu hỏi này. Hòa Thượng không đề cập đến vấn đề này và các đệ tử cũng đã không hỏi về việc này.

(3) Ngài có làm bài “Kệ Nôn Mửa” (嘔吐頌 – Ẩu Thổ Tụng) để tường thuật lại cảnh hiểm nạn lúc bấy giờ:

http://www.drbachinese.org/online_reading/drba_others/vmsj/sj5-photos.htm

「嘔吐頌」:

結伴南行十四僧,

鬍子比丘沙彌青;
碧海接天天萬里,

黑波逐浪浪千重;
法降妖邪舟未覆,

輪承聖助嘔方寧;
喜抵滬海除饑渴,

武昌正覺寶螺鳴。

 

“Kệ Nôn Mửa” (Ẩu Thổ Tụng): http://dharmasite.net/SoLuocTSHTTH.htm#29

Kết bạn nam hành thập tứ tăng
Hồ tử trưởng lão, Sa di thanh
Bích hải tiếp thiên thiên vạn lý
Hắc ba trục lãng lãng thiên trùng
Pháp hàng yêu tà chu vị phúc
Luân phụng thánh trợ ẩu phương ninh
Hỷ chỉ Hỗ Hãi trừ cơ khát
Võ Xương Chánh Giác bảo loa minh.

Tạm dịch:

Kết bạn nam hành mười bốn Tăng
Trưởng lão râu dài, Sa di trẻ
Biển trời xanh biếc tiếp vạn dặm
Sóng đen lớp lớp lắm thiên trùng
Đối pháp hàng tà thuyền không ngã
Ân triêm thánh đức ói mửa ta
Mừng đến Hỗ Hải trừ đói khát
Võ Xương Chánh Giác bảo âm vang.