Vietnamese Essays
- Vị Bồ Tát Trong Tâm Trí Con
- Kính gởi quý thầy cô và đại chúng
- Linh Cảm Ứng Quán Âm
- Hóa Độ Kẻ Hữu Duyên
- Giấc Mơ Không Mộng Mị
- Bức tâm thư gửi đến vị “Bồ Tát” của lòng con
- Nhân duyên tôi đến Vạn Phật Thánh Thành tham dự Hoa Nghiêm Pháp Hội
- Phát Tâm Làm Công Quả
- Vui Mừng Tìm Được Nơi Nương Tựa Tâm Linh
- The 13th vow of the Venerable Master Hsuan Hua
- “Giả dạng Thượng Nhân khó nỗi nhìn”
Nguyễn Phương
Khi Ngài đang trải qua bao gian lao khổ cực để mang Phật pháp sang phương Tây thì con còn đang lang thang ở một nơi vô định. Đến khi tóc Ngài đã bạc trắng thì con mới chào đời. Và khi con đã đủ khôn lớn để có thể tìm hiểu, nghiên cứu Phật pháp thì Ngài đã viên tịch. Con không thể diễn tả được hết sự tiếc nuối của mình khi không có đủ nhân duyên được chứng kiến sự hiện diện của Ngài, được Ngài dạy dỗ và được làm một người đệ tử của Ngài. Con tin rằng đây không phải là cảm giác và suy nghĩ của riêng con mà còn là của rất nhiều người đã chào đời quá muộn nên không được gặp Ngài.
Dù sắc thân Ngài không còn ở cõi đời này nhưng tâm Ngài vẫn ở mọi nơi, vẫn âm thầm cứu giúp những chúng sanh còn đang ngụp lặn nơi cõi đời đau khổ này. Và dù không được trực tiếp nghe Ngài giảng dạy nhưng di sản mà Ngài để lại là kho báu quý giá đã, đang và sẽ giúp con và vô vàn người khác dần dần vén bức màn vô minh để tìm về với ánh quang minh của chính mình.
Như mọi chúng sinh mê lầm khác, nếu lấy giới hạnh, trí tuệ để soi chiếu thì con đã tạo ra vô vàn tội lỗi. Ngày ngày con đều mắc lỗi, không lớn thì nhỏ. Những lúc không còn niềm tin vào bản thân, không còn tin rằng mình có thể giúp ích gì cho cuộc đời này thì trong tâm trí con hiện ra lời dạy của Ngài:
“Tất cả là khảo nghiệm, xem bạn sẽ làm sao? Đối cảnh mà không biết, phải luyện lại từ đầu.”
Lời dạy giản dị nhưng thấm thía ấy đã vực con dậy từ hố sâu không cùng. “Con đã tạo nhiều việc xấu ác, nhưng con không được bỏ cuộc. Hòa Thượng mở lối để con làm lại từ đầu, mọi người cho con làm lại từ đầu, chư Phật và Bồ Tát giúp con làm lại từ đầu”. Con như thoát khỏi chốn địa ngục, trong con lại tràn đầy niềm hy vọng và tin tưởng sẽ làm thật tốt, thật tốt…
Cuộc đời lắm thăng trầm, có những khi con rơi vào hoàn cảnh khổ đau. Con yếu đuối khóc than, tuyệt vọng khi nghịch cảnh ập đến. Trong cơn bĩ cực đó, những lời nói dũng mãnh lại hiện lên, tiếp thêm cho con nguồn sức mạnh lớn lao:
“Dù rét chết, không phan duyên;. Dù đói chết, không van nài;. Dù nghèo chết, không cầu cạnh.”
Con tự nhủ “Nếu chết cũng không đáng sợ như vậy thì còn có gì khiến ta phải sợ nữa”? Một lần nữa con lại vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, vượt qua nghịch cảnh.
Thấm thoát đã nhiều năm kể từ khi con biết đến Ngài và thực hành theo lời dạy của Ngài. Hôm nay con mới có dịp bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng đến Ngài – vị Bồ tát đã vì chúng sanh mà thị hiện nơi cõi đời này, và khi đủ duyên, Ngài đã rời bỏ thế gian nhưng tâm Ngài vẫn bao trùm pháp giới và không ngừng cứu độ chúng sanh vượt qua cơn mê sinh tử đầy hiểm nguy.
Nay con cố gắng sửa đổi bản thân, tu tập chánh đạo mong đền đáp được phần nào ơn sâu trong muôn một.
Thân Hoa (Switzeland)
Nhân ngày kỷ niệm 50 năm HT Tuyên Hóa hoằng pháp ở phương tây, con xin chia sẻ những kỷ niệm mà con có được nhân duyên.
Trước đây con thường đi ta bà khắp nơi để tìm nơi nương tựa về tâm linh, rồi ngày này qua tháng nọ con vẫn theo tập khí của mình, phiền não và sân si, không có sự an lạc nào cả. Con nghĩ thời nay tìm đâu ra nơi chân thật đây. Sau đó con được may mắn quen mấy anh chị ở Vạn Phật giới thiệu về Hòa Thượng và có gởi CD sách vở cho con và những bài giảng của Ngài trên website. Đọc bài giảng của Hòa Thượng thật lôi cuốn đối với con và con thích nhất là cái thẳng thắn của Ngài và Ngài dạy là phải luôn chân thật, con rất tâm đắc và lấy đó làm kim chỉ nam cho mình. Rồi đến một ngày con được báo tin từ một huynh cho biết là có một phái đoàn của Vạn Phật Thánh Thành đến Âu Châu hoằng pháp, con không do dự quyết định và con cũng khuyến khích anh xã cùng đi.
Trong thời gian dự khóa tu ở Pháp Hội, con nhận ra được ở đây có cái gì đó chân thật và trong sáng nơi mà thật sự con muốn tìm đây rồi! Nhìn qúy thầy cô và mọi người từ trên xuống dưới ai nấy tất bật chỉ lo làm phận sự, và phận sự công việc bề bộn rất mệt mỏi nhưng thấy họ lại vui vì họ thấy mọi người được tu tập và an lạc. Tấm lòng của họ sao mà rộng lớn quá, bao dung quá làm cho con cảm động và nghĩ suy lại là do tâm mình nhỏ hẹp quá, chỉ biết lo bản thân và quan tâm đến gia đình nhỏ của riêng mình mà gia đình là sợi dây trói buộc luôn làm phiền não với nhau thôi, chứ không bao dung rộng lớn đem lại sự an vui đến cho tất cả mọi người như ở đây.
Từ nhân duyên này thôi thúc con khởi tâm là sẽ đến Vạn Phật một chuyến, đúng là nhân duyên hội tụ của những yếu tố trên sau năm tháng giúp cho tụi con đến được Vạn Phật Thánh Thành, và khi đến Vạn Phật con học được nhiều thứ lắm, chẳng hạn như ở đây mà muốn nghỉ xấu cũng không có cơ hội, và ở đây việc ai nấy làm, không ai để ý đến ai hết thì làm sao có vọng tưởng được và nhiều nhiều thứ nữa.v.v… Xung quanh toàn thiện tri thức trợ duyên giúp đỡ nhau, con thấy rất hay, những cử chỉ và hành động của họ đều là một bài pháp giúp con học được mà không cần phải nói, và cho con thấy được cái thiện ở trong Vạn Phật và cái bất thiện bên ngoài ra sao rất rõ rệt. Tuy hình thức của họ thì không có gì nhưng chung cuộc hậu quả thì rất tai hại vì thấy họ vẫn còn đắm chìm trong dục lạc. Từ đó con nhận ra và hiểu được bài giảng của Hòa Thượng mà trước đây con nghe tới nghe lui nhiều lần mà không thể hiểu. Ngài nói đàn ông có pháp của đàn ông, đàn bà có pháp của đàn bà, con ngựa có pháp của con ngựa .v.v… lúc này tự nhiên con chợt hiểu câu nói đó, cảm thấy vui trong lòng sao đó, bây giờ thì con nhận ra là thiện hay ác điều là Pháp cả, chỉ tùy theo mỗi người biết tự chọn cho mình cái pháp nào mà thôi.
Đặc biệt cái nữa là sau khi về lại, anh xã của con cũng thấy có phần tiến bộ tinh tấn hơn trước rất nhiều, có thể đối với người khác không có gì nhưng với con là điều mơ ước rất lâu lắm rồi! Và lạ một điều nữa là khi con bị vướng mắc điều gì đó thì tự nhiên khiến cho con đọc được ngay bài giảng mà Hòa Thượng đề cập về chuyện đó giúp con hiểu ra vấn đề và đã thông hơn không chỉ một lần mà rất rất nhiều lần lắm… con nghĩ đây không phải là ngẫu nhiên và chắc cũng có nhiều người đồng lòng với con về việc này. Con nghĩ đây là ‘‘Diệu‘‘ mà Hòa Thượng có giảng về cái tựa của Kinh Pháp Hoa mà con có duyên được đọc lâu lắm rồi. Trước đây con là cùng tử mang viên ngọc trong chéo áo đi ăn xin nay được duyên lành gặp được Hòa Thượng chỉ cho con thấy được là bên trong có viên ngọc và bảo vật qúy nằm ở đâu!. Bây giờ con không đi ta bà đâu nữa, mỗi ngày nghe pháp của Hòa Thượng và cố gắng hành trì. Giờ đây con có cảm giác như người khát được uống nước vậy, thật hoan hỷ làm sao.
Con không được may mắn như mọi người được thân cận và học pháp khi Hòa Thượng còn tại thế, nhưng Ngài gieo rắc để lại cho hậu thế biết bao nhiêu kho tàng qúy báo và tiền đồ nối tiếp đã tạo duyên cho chúng sanh mà con kể ở trên. Nhờ đó mà con và mọi người mới có được nhân duyên thù thắng ngày nay! Với tấm lòng vị tha cao cả đó, con thiết nghĩ Ngài vẫn còn hiện hữu trong mỗi chúng ta. (Viết đến đây con rất xúc động).
Thời gian hơi gấp, con chưa mường tượng được hết ý và chỉ nói với sự hiểu biết cạn cợt của con thôi, mong quý thầy cô và các anh chị hoan hỷ.
Kính bút
Thân Hoa.
Hàn Kim Nga (London, England)
Vào một tối gần cuối năm, ngày 11 tháng 12 năm 1997, lúc đó đã hơn 2 giờ khuya, tôi nhận được một cú điện thoại từ tiểu bang California gọi đến báo tin cho biết là Mẹ tôi đã qua đời. Lúc ấy tôi tưởng chừng như cả bầu trời sụp xuống đổ lên người tôi. Tôi đứng dậy muốn chạy tung ra cửa để đi tìm Mẹ, nhưng chồng tôi giữ lại và nói hãy bình tĩnh, Mẹ ở Mỹ chứ không phải ở đây! Nghe vậy tôi rất là đau lòng.
Sau thời gian đó thỉnh thoảng tôi và chồng tôi đến chùa lễ lạy Phật. Đến chỉ với mục đích cầu xin mười phương chư Phật và chư Bồ Tát rủ lòng đại từ bi mà giúp giùm cho Mẹ tôi được về cõi Cực Lạc thế giới của Đức Phật A Di Đà.
Trong thời gian đó tôi có quen một chị bạn, chị ta bảo với tôi là nên thường xuyên tụng trì Chú Đại Bi và Bát Nhã Tâm Kinh rồi hồi hướng cho Mẹ. Tôi đã thực hiện tụng Chú Đại Bi không bỏ ngày nào. Quả nhiên trong thời gian khoảng hơn một năm tôi đã có vài ba lần trong giấc mơ thấy mình tự nhiên tụng Chú Đại Bi, tụng vừa chấm dứt thì ngài Quán Thế Âm hiển hiện ra đứng trước mặt tôi. Lúc đó tôi chỉ chắp tay cung kính nhưng không nói lời nào.
Vài ba tháng sau nhằm ngày 15 tháng 2, cũng trong một giấc mơ khi tôi vừa tụng chú Đại Bi xong thì thấy ngài Quán Âm Bồ Tát đang đứng trên đỉnh núi xa vời vợi, tâm tôi muốn tới đó nhưng vì muốn đến thì phải qua một cái biển rộng mênh mông, rồi còn phải lên trên đỉnh núi cao, nên tôi tự hỏi thầm “Mình phải làm sao đây?”. Bỗng nhiên tôi chắp tay gọi tên của ngài “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, thì chân tôi tự động bước đi từng bước, từng bước trên biển cả nhưng lạ thay chân tôi lại không bị ướt.Tôi leo lên ngọn núi này như đi trên đất bằng, không có gì trở ngại cả. Cuối cùng tôi đã tham kiến ngài Quán Thế Âm Bồ Tát! Ngài Quán Âm Bồ Tát và tôi đối diện nhau rất là gần,tôi thấy tướng hảo của ngài Quán Âm rất oai nghi tự tại, rất trang nghiêm hòa nhã và từ bi, giọng nói Ngài rất hiền hòa nhân ái. Ngài nhìn tôi và hỏi “Con muốn cầu xin việc gì?” Lúc đó tôi mới có dịp nói với ngài Quán Âm Bồ Tát “Con thành tâm muốn cầu xin ngài cứu giúp giùm Mẹ của con.” Ngài Quan Âm Bố Tát hỏi “Cho ta biết tên họ của Mẹ con”, tôi trả lời “Mẹ con tên Thái Ái Lan, pháp danh Huệ Hương.” Và ngài Quán Âm Bồ Tát đã lấy quyển sách nhỏ ghi tên tuổi của Mẹ tôi vào.
Ngay sau đó Quán Âm Bồ Tát bảo tôi “Con hãy vào trong tô nhỏ này!”, tôi nhìn vào thấy trong đó có những hạt lưu ly nho nhỏ trong và sáng ngời. Quán Âm Bồ Tát lại bảo “Con hãy vào trong tô nhỏ này, ta sẽ đưa con về.” Tôi bước vào thì Quán Âm Bồ Tát dùng tay bắt ấn rồi chỉ tay vào tô đó thì tự nhiên tôi từ trên đỉnh núi cao bay xuống chân núi và bay ngang qua biển cả đến chỗ mặt đất bằng phẳng, tôi từ từ bước ra nhin chung quanh thấy nơi đó cây cối sông núi bao quanh giống như cảnh ở Phổ Đà Sơn hiện tại, ngay lúc đó tôi chợt tỉnh giấc.
Chiều hôm đó khi dùng cơm chung với chồng con, tôi đã tường thuật lại giấc mơ tôi đã thấy tối hôm qua. Mấy đứa con tôi rất vui mừng, vài hôm sau chúng hỏi “Mẹ có thấy Quán Âm nữa không?”. Khoảng gần một tháng sau tôi lại nằm mơ thấy Mẹ tôi về, trên tay Mẹ tôi đang cầm một quyển sách và bảo rằng “Quán Âm mới vào cho mẹ một quyển sách Thập Nhị Nhân Duyên và bảo Mẹ phải mau mau đọc.”
Từ trước đến nay tôi chưa từng nghe qua quyển Kinh Thập Nhị Nhân Duyên này. Sau đó hỏi thăm bạn bè thì mới biết Kinh Thập Nhị Nhân Duyên này cũng có trong kinh của Quán Âm Bồ Tát.
Vì giấc mơ lạ kỳ nên các con tôi mới vào internet để tìm hiểu thêm . Đặc biệt nhất là đứa con trai thứ năm khi tìm kiếm Phật Pháp trên Internet thì mới biết đến chùa Vạn Phật Thánh Thành do Thượng Nhân Tuyên Hóa đại từ bi thành lập, là một đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm, hùng vĩ, tráng lê. Sau nhiều lần nghe pháp của Hòa Thượng Tuyên Hóa được dịch sang tiếng Việt và đọc ghi âm qua đĩa CD cũng như đọc sách những câu chuyện về Hòa Thượng Tuyên Hóa được dịch sang tiếng Việt, tôi rất cảm động không thể diễn tả hết thành lời. Tôi xin thành kính tri ân công đức của ngài đã trải qua biết bao khó khăn gian khổ để đem lại Chánh Pháp cho chúng sanh và xây dựng Vạn Phật Thánh Thành thanh tịnh trang nghiêm để chúng sanh có nơi nương tựa tu học như ngày nay.
Năm 1983, tôi đang đi học tại trường Laney College ở Oakland, California thì gặp M. cùng học chung lớp, đời sống M. trầm lặng, it giao tiếp. Một ngày nọ Vạn Phật Thành có lễ via Quán Âm, tôi rủ M. cùng lên tham dư. Tại Vạn Phật Điện, lúc tôi đang đứng tụng kính bỗng nhiên Hòa Thượng Tuyên Hóa đến hỏi tôi “Người bạn nhỏ của con đâu rồi ?”. Tôi ngẩn ngơ không biết Hòa Thượng nói về ai nên chưa biết trả lời ra sao, thì tôi chợt nhớ tới M. nên vội vàng trả lời Hòa Thượng “Cô ta ở đằng kia kìa, Sư Phụ!”. Hòa Thượng liền đi đến chỗ M. đang đứng.
Từ khi được có duyên gặp Hòa Thượng, M. trờ nên vui vẻ cởi mở hơn, thường xuyên tới lui Chùa nghe Hòa Thượng thuyết pháp, và còn giới thiệu các chị em trong nhà đến chùa tu học và làm phật sự.
Ngoài ra tôi có một người bạn cùng sở làm với tôi tên Sâm. Vào mùa Hè năm 1994 chùa Pháp Giới Thánh Thành ở Sacramento có Pháp Hội, có Hòa Thượng đến tham dự, hôm đó rất đông người đến. Tôi, con tôi và Sâm cũng đến tham dự. Hôm đó Sâm mang theo tượng Phật Thích Ca với ý định sẽ thỉnh Hòa Thượng khai quang. Nhưng khi chúng tôi hỏi về việc khai quang tượng thì quý Sư Cô bảo rằng hôm nay Hòa Thượng bận rộn không thể khai quang tượng cho Phật tử được. Nhưng thật là may mắn trong lúc mọi người đang quây quần chung quanh Hòa Thượng thì ngài bỗng nhiên quay đầu về phía chúng tôi và hỏi chúng tôi muốn gì, tôi và Sâm vội vã quỳ xuống trả lời là muốn thỉnh Hòa Thượng khai quang tượng Phật, Hòa Thượng liền niệm chú và khai quang ngay. Chúng tôi thật vui mừng, vô cùng cảm động vội vàng đảnh lễ ngài. Riêng Sâm từ khi mang tượng Phật về nhà để thờ thì trở nên tinh tấn tu tập, thường xuyên lên chùa Vạn Phật và đến chùa Berkeley nghe quý thầy cô thuyết pháp, thường tụng kinh mỗi ngày và tích cực làm phật sự mười mấy năm nay.
Trên đây là hai trong nhiều trường hợp đển hình mà tôi biết rất rõ, những người chỉ qua vài lần gặp gỡ Hòa Thượng đã thay đổi cuộc sống của họ rất nhiều, những thay đổi của họ làm tôi liên tưởng đến nguyện thứ 14 của Hòa Thượng:
“Nguyện rằng tất cả chúng sinh nào, khi thấy mặt tôi, cho đến chỉ nghe tên tôi, đều phát tâm Bồ Ðề, mau đắc thành Phật Ðạo.”
Thật xúc động khi nghe lời nguyện cao cả của ngài!
Trần Tình (San Jose, California)
Có một thời, “ giấc mơ Mỹ “ đối với những – con – người- Việt Nam – cùng cực như chúng tôi là một cái gì đó vĩ đại và hào nhoáng. Trong cuộc sống mà con người ta phải vật lộn với từng bữa ăn – đừng mơ đến ăn ngon rồi còn mặc đẹp nhé!, thì sự sống và cái chết không còn là vấn đề nữa. Tiếng gọi của giấc mơ đổi đời, giấc mơ giàu sang, phú quý thì cứ phảng phất ngoài khơi xa, nhưng tiếng gọi của những bữa ăn không còn độn khoai, sắn, không phải hòa nước làm canh là một động lực cồn cào ruột gan, là nguồn sức mạnh to lớn thôi thúc trong lồng ngực chúng tôi để rồi một ngày hè năm 1985, chúng tôi vượt trùng dương để đi tìm giấc mơ của mình.
Ai trong đời cũng có ước mơ, có những giấc mơ chỉ là hão huyền, mộng mị, nhưng cũng có những giấc mơ theo thời gian đã trở thành hiện thực. Vào thời gian đó, tôi cũng đã mơ, mơ rất nhiều. Khi cuộc sống đã ổn định, không phải lo về những bữa cơm, không còn sợ khi đông đến đàn con thơ thiếu áo mặc, đó là khi những giấc mơ của tôi thay đổi hình dạng từng ngày. Lúc này, giấc mơ của tôi là nhà cao cửa rộng, là xe cộ tiền tài, là hơn thua bè bạn. Đằng sau những ngày tháng lao động quần quật như những con thiêu thân- chỉ vì muốn kiếm tiền – là những buổi party nhộn nhịp, ăn uống ngợp trời rồi lại hò hát thâu đêm. Cuộc sống – mà tôi cũng như bao người đang thèm muốn – trôi qua trong cái cảm giác mà tôi nghĩ rằng đó là đỉnh cao của hạnh phúc, là thiên đường hiện hữu trong thực tại. Còn gì sung sướng hơn khi một con người nghèo khổ cùng cực đến tận cùng sau một cái chớp mắt lại được hưởng thụ như một ông hoàng, bà chúa ???
Sẽ không có gì để nói nếu ngày qua ngày cuộc sống cứ êm đềm như thế trôi đi. Tre già thì măng mọc. Thời “oanh liệt” của tôi vẫn còn như ngọn gió xuân phất phơ ngoài cửa, chưa muốn nhường chỗ cho những đợt gió Lào khô khan, rát cháy hay những đợt gió mùa Đông Bắc giá rét tràn về. Tôi vẫn cứ ngủ vùi trong hào quang của tiền tài và danh vọng. Chỉ đến khi lần lượt từng đứa con của tôi – mà tôi hằng ẵm iu, nuông chiều, cung phụng tất cả mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần – cảm thấy chúng đã đủ lông đủ cánh và bây giờ chúng muốn bay đi, bay đi để thoát ra khỏi sự kiểm soát của cha mẹ, bay đi trong tự do, cái thứ tự do mà chúng nó nghĩ là “nhân quyền” mà chúng phải được hưởng thụ, bay đến bất cứ nơi nào mà không cần biết đến mục đích và giá trị của cuộc sống, không cần biết đến những hậu quả khôn lường sẽ đưa chúng nó đi về đâu. Và, những giọt nước mắt đã rơi, những đêm khuya thức trắng đã đến, những bữa cơm nghẹn ngào trong không khí trầm lắng đến rợn người cũng đã bao trùm trong cái không gian ngột ngạt, lạnh lùng. Tôi bắt đầu lao đao, tâm trí tôi bắt đầu rối loạn. Tiền vẫn còn đó nhưng giấc mơ của tôi sao lúc này đã đổi màu. Tôi không thiếu thứ gì nhưng sao lòng tôi nặng trĩu. Tôi không biết mình nên làm gì và phải nghĩ ra sao để trả lời cho những câu hỏi cứ dồn dập trong tâm trí mình. Khi mà tôi đang ngẩn ngơ để tìm lời giải đáp thì một cơn bão khác lại ập đến càn quét và xoáy trộn cuộc đời tôi. Chông tôi – trụ cột trong gia đình – trở bệnh. Anh không còn một chút sức lực đến nỗi tôi nghĩ rằng ngày mai, ngày kia tôi sẽ mất anh. Anh mê man trong bệnh viện, một mình tôi đảm đương tất cả mọi việc trong gia đình. Công việc chúng tôi đã nhận thì không thể bỏ, nhà đã mua thì vẫn phải đóng tiền. Một phần chồng, một phần con. Tôi tàn úa, tôi rũ rượi một cách thê thảm. Vẫn cứ phải chạy theo đồng tiền trong cái hoàn cảnh này, tôi như một người mất trí. Không biết phải làm gì. Chẳng biết nương tựa vào đâu. Bạn bè ư? Người thân ư? Không một ai giúp tôi cả. Họ đến với tôi vì tiền thì họ cũng rũ bỏ tôi vì thứ đó. Tôi hoang mang. Tôi gào thét. Để rồi tôi biết rằng tôi đã sai, tôi đã mơ một giấc mơ hoang đường và giấc mơ mà lâu nay tôi vẫn cho rằng nó đã thành hiện thực thực chất chỉ là giấc -mộng -giữa -đời -thường. Vật vã trong sự rối bời, tôi lờ mờ nhận ra rằng một gia đình hòa thuận, một thế giới hòa bình và những tháng ngày có cơm ăn, áo mặc là quá đủ để cho là hạnh phúc, là giấc mơ mà tôi nghĩ không phải ai cũng đạt được, và không phải ai cũng có thể nhận ra.
Thời gian cứ thế trôi đi, chồng tôi vẫn mê man, con tôi vẫn lêu lỏng. Cho đến một ngày, tình cờ hay cố ý, một người lạ bước ngang qua giường bệnh của chồng tôi. Người ấy tìm đến và trao cho chồng tôi một xâu chuỗi và khuyên chúng tôi niệm Phật. Xâu chuỗi ấy để làm gì? Niệm Phật để được gì? Chúng tôi cũng có thờ Phật ở nhà đó, cũng đi chùa vài ba lần đó, nhưng trong lúc này chúng tôi không có một ý niệm gì khi cầm trên tay xâu chuỗi ấy cả. Từ khi món quà ấy đến với chúng tôi là lúc bệnh tình của chồng tôi cũng đỡ trầm trọng hơn. Rồi cũng đến ngày anh ấy được ra khỏi bệnh viện. Việc đầu tiên anh ấy muốn làm là anh phát tâm niêm Phật, ăn chay. Lúc này tôi vẫn làm theo ý của anh nhưng tâm của tôi vẫn không cò gì thay đổi. Tôi vẫn còn hàng trăm việc phải lo khi trụ cột chính trong gia đình giờ đây đã sụp đổ. Cuộc sống của chúng tôi không còn hào nhoáng như trước nữa. Vợ chồng tôi ngày ngày lặng lẽ đi làm và nước mắt vẫn cứ rơi dài theo năm tháng.
Trong một ngày, có biết bao người mình sẽ gặp, có bao nhiêu người mình chuyện trò, chào hỏi rồi bước đi. Sẽ không có gì để nói nếu người ta vẫn nói cười chào hỏi để rồi cứ thế quên đi. Trong một lần tình cờ, vợ chồng tôi đã gặp một người – bây giờ tôi mới biết đó chính là vị thiện trí thức – cũng đến trò chuyện, cũng hỏi han và chúng tôi cũng thành thật tâm sự về hoàn cảnh của mình. Chị ấy như là ngọn đèn soi sáng cho chúng tôi trong đêm tối. Chị đưa đường dẫn lối cho chúng tôi, chị chèo lái cho chúng tôi vượt qua từng đợt sóng này rồi lại đến đợt sóng khác. Từ chị, chúng tôi được biết đến những con người sống đẹp đời đẹp đạo không khác gì những bậc quý nhân mà chúng tôi nghĩ rằng không phải ai cũng có duyên để biết đến, huống hồ gì là gặp gỡ, chuyện trò. Cuộc sống của chúng tôi có ý nghĩa hơn khi bắt đầu với những bài học từ kinh sách, những công việc công quả trong chùa, những bữa cơm chay đầy tiếng cười và sự thanh đạm. Tôi không biết tại sao mình còn có thể bước lên từ hố sâu bùn lầy nhưng tôi biết ánh sáng Phật Pháp đang dẫn lối chỉ đường cho tôi, dù ít hay nhiều thì tôi cũng nhận ra sự nhiệm mầu trong từng thay đổi của cuộc đời.
Chúng tôi đã thay đổi từng ngày. Hạnh phúc lớn dần lên theo những bài học Phật Pháp trong kinh sách và nó đạt lên đến đỉnh cao khi chúng tôi được biết đến chùa Vạn Phật với vị sư phụ bậc tài của đức hạnh và trí huệ thần thông – ngài Tuyên Hóa. Chúng tôi như những đứa trẻ được cha mẹ mua cho áo mới, như nắng hạn gặp mưa phùn, chúng tôi được gặp gỡ chánh pháp trong sự giúp đỡ của những vị thiện trí thức đầy nhân từ. Tuyệt vời hơn khi những đứa con của tôi được vào học trong chính ngôi trường của Chùa Vạn Phật thiêng liêng này, tôi đã vỡ òa trong nước mắt. Trong một môi trường đầy kỷ cương và phép tắt, cùng với những bậc sư phụ lão luyện trí thức cũng như giàu lòng từ bi, ngôi trường này đã đưa những đứa con của tôi cũng như bao gia đình khác trên thế giới này trở thành những công dân tốt, ngày ngày được mài dũa, hoàn thiện về trí thức cũng như tinh thần cao đẹp của một người con Phật. Mỗi khi bước chân đến Chùa Vạn Phật, lòng tôi như mở hội tưng bừng. Tôi biết mình tìm đến với chánh pháp trong muộn màng nhưng tôi vẫn mãn nguyện với ngày hôm nay, khi những câu kinh, bài giảng của quý thầy khai sáng cho tôi, khi những đứa con lạc đường của tôi đã biết tìm về tổ ấm, khi cuộc sống của tôi đã êm đềm hơn, tôi biết rằng mình là người may mắn. Và tôi trân trọng nó.
Con tôi vừa mới tốt nghiệp phổ thông cách đây mấy ngày. Cả gia đình tôi lớn có, nhỏ có vui mừng đến chùa Vạn Phật để tham dự ngày lễ ra trường. Vậy là nó đã trưởng thành, nó đã lớn khôn trong sự bao bọc của Phật Pháp, sự dìu dắt của quý thầy. Nó đã trưởng thành hơn trong từng lời nói và suy nghĩ. Nó biết được điều gì nên hay không nên làm. Tôi biết nó đã trưởng thành hơn trong lời phát biểu chứa chan nước mắt, nó đã biết nghĩ đến công ơn sinh thành, công ơn dưỡng dục của cha mẹ cũng như công ơn chỉ bảo, giảng dạy của ngôi trường này. Tôi, gia đình tôi, mọi người xung quanh tôi đều khóc òa trong hạnh phúc. Tôi biết làm gì hơn để xứng đáng với những phép mầu mà Phật Pháp trong ngôi Chùa Vạn Phật này đã mag đến cho tôi, gia đình tôi và mọi người??? Chỉ là nguyện cầu cho người người trên thế giới này được bình yên, mong cho những người chưa biết đến Phật Pháp sẽ có duyên lành và tìm đến. Người may mắn hơn thì sẽ nghe đến ba chữ – Chùa- Vạn -Phật, rồi một lần tìm đến, một lần đảnh lễ trong chánh điện và hòa tâm vào từng lời kinh, tiếng giảng của quý thầy.
Năm nay, biết rằng ngày lễ kỷ niêm 50 năm chùa Vạn Phật sắp tới, tôi cũng mở hội trong lòng. Tôi cũng muốn góp một chút gì đó để bày tỏ lòng biết ơn và cung kính của mình đối với ngôi chùa Vạn Phật thiên liêng cao cả. Tôi mong rằng câu chuyện của tôi ít nhiều sẽ giúp cho ai đó đã và đang trải qua hoàn cảnh giống tôi, sẽ vững tin hơn để hy vọng vào sự diệu kỳ của Phật Pháp, để từ đó tìm đến được với một ngôi chùa chánh pháp cũng như những vị thiện trí thức nâng đỡ cho chúng ta đứng lên, sống có ích và yên vui, đẹp đời đẹp đạo và từ đó, sẽ có thể mơ những giấc mơ không còn là mộng mị.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
NV (Santa Rosa, California)
Đã từ vô lượng kiếp con cứ mãi nổi trôi buông xuôi theo dòng sanh tử . Cơn sóng biển cuộc đời đã cuốn trôi con tới những thế giới đầy phiền não và nước mắt. Dù rằng con chưa bao giờ được một lần diện kiến Ngài, nhưng có lẽ một cảm giác vô hình nào đó giúp con cảm nhận được rằng: trong những lúc con thấy mình yếu đuối và đau khổ nhất vì nghịch cảnh thì cũng chính là lúc Ngài giúp con quay về với Phật Pháp. Những giáo nghĩa cùng với những đạo lý sâu xa từ Ngài chính là liều thuốc quý giúp con xoa dịu nỗi đau và cũng chính là chiếc thuyền làm phương tiện giúp con quay về “bờ” giác.
Có những lúc tưởng như con phải “bỏ cuộc” nửa chừng vì thấy mình không thể “vượt qua” nổi khi bỗng nhiên gia đình lại rơi vào tình trạng khó khăn. Quả thật một gia đình bậc trung như con thì việc đi du học Mỹ quả là một việc hết sức khó khăn. Con trở nên bi quan, vô định hướng vì không biết liệu mình có thể tiếp tục “quãng đường” còn lại ? Nhưng rồi thật may mắn con đã biết đến Ngài, đã tìm đến Vạn Phật và cũng chính từ đó con đã bắt đầu quay về với đạo Pháp. Cho đến tận bây giờ khi nhìn lại, con thật ngạc nhiên khi mình cũng đã hoàn thành xong ý nguyện bốn năm đại học.
Có lẽ rằng mọi thứ trong con đều thay đổi từ trong tâm tưởng đến hành vi lối sống hằng ngày, nó đã đánh dấu một bước ngoặc lớn trong cuộc đời con kể từ sau lần đầu tiên con đặt chân đến Vạn Phật Thành, đúng vào lúc tham dự thời khóa Di Đà thất. Đó là một cảm xúc đan xen vui buồn lẫn lộn, giống như một đứa trẻ đang bị thất lạc giờ như tìm thấy đường về. Hai dòng nước mắt con tuông trào không dứt khi lần đầu tiên được chiêm bái hình tượng Ngài. Con đã trở thành người ăn chay trường cũng từ dạo đó và những tập khí xấu trong con đang dần dần được chuyển biến từng ngày. Từ đó đã giúp con hiểu ra được một điều rằng: sự khó khăn khổ đau trên đường đời đó cũng chính là một sự khởi đầu tốt đẹp cho đường đạo. Chính vì vậy càng làm con hiểu thêm về câu nói: “Thập phương ba đời chư Phật đều lấy bát khổ làm thầy”. Con đã lễ lạy sám hối trong suốt bảy ngày liên tiếp về những lỗi lầm dù vô tình hay cố ý mà con đã tạo ra trong hiện tại cũng như từ vô lượng kiếp, mong Ngài mở rộng vòng tay giúp con vượt qua những khó khăn trước mắt và giúp con quay về với đạo Pháp.
Giống như bao bạn trẻ khác con đã từng tự vẽ ra cho mình nhiều ước mơ, nhiều hoài bão về tạo dựng công danh, sự nghiệp, tự dựng lên cho mình những “lâu đài” đầy nguy nga tráng lệ mà những thứ ấy đều xoay quanh đến tiền tài, địa vị, danh vọng và vật chất, để rồi khi con vô tình đọc được đâu đó những lời dạy của Ngài: “Mọi thứ như mộng huyễn bọt bóng” và “Tất cả những gì chúng ta đang làm Phật sự đều là trong mộng, mượn giả để tu thật” thì con mới chợt nhận ra rằng đã từ bấy lâu nay con đã tự dựng lên cho mình “lâu đài” trên cát rồi một ngày nào đó “cơn sóng vô thường” ập đến cuốn phăng đi mọi thứ chỉ còn lại bọt biển trắng xóa. Ngài đã giúp con nhận thức ra được rằng sự diệu màu của Phật Pháp chính là những gì giúp con “chuyển hóa” từ “trong tâm” chứ không phải đơn thuần về sự đạt được những cảm ứng về tiền tài, vật chất từ bên ngoài như trước đây con đã từng nghĩ.
Trước đây dù sống trong gia đình Phật tử nhưng Phật Pháp đối với con mà nói giống như một đứa trẻ mới chập chững tập đi mọi thứ đều rất mờ nhạt. Việc đến chùa chỉ giống như một hình thức bên ngoài, đến thăm viếng chốc lát rồi về hoặc chỉ khi đang cầu một việc gì đó chứ chưa từng nghĩ đến việc hướng nội vào “bên trong”. Con đã chưa bao giờ có thể tưởng tượng được rằng mình có thể đủ kiên nhẫn thức khuya dậy sớm tham dự bất kỳ Phật thất nào dù là ở Việt Nam hay ở Mỹ, nhưng rồi cũng chính từ sau lần đầu tiên tham dự Phật thất ấy mọi thứ trong con hoàn toàn thay đổi. Con bỗng tìm thấy được niềm hoan hỉ, an lạc lạ thường mỗi khi đặt chân đến nơi đây dù rằng thời khóa ở đây vô cùng gắt gao, con tìm thấy được niềm vui vào mỗi sáng thức dậy công phu trì tụng Lăng Nghiêm chú và trưa đến lại được trì lạy “Đại Bi Sám”, lại còn được tiếp cận các vị thiện tri thức. Và cũng từ đó tụng trì Lăng Nghiêm và Đại Bi chú giờ giống như một phần bổn phận trong con. Ngài đã thật sư “chuyển hóa” và giúp con có được những cảm nhận “hướng nội” về Phật Pháp.
Những chặng đường tiếp theo con phải đi qua chỉ mong sao chư Phật, Bồ Tát, Hòa Thượng giúp con tiếp thêm sức mạnh vượt qua “nghịch cảnh”, hoàn thành bổn phận của một người con. Niềm hy vọng ước mơ trong con giờ đây không còn là việc “xây lâu đài” nguy nga tráng lệ trên cát như trước đây con đã từng hão huyền mơ mộng mà là một ước mơ vô cùng bình dị: quãng đường đời còn lại con chỉ mong sao có đủ phước đức nhân duyên hội tụ được sống và tu học tại Vạn Phật Thành như bao vị Phật tử khác nơi đây, sống gần những vị thiện tri thức thì quả là một điều vô cùng diễm phúc.
Dù rằng Ngài đã viên tịch nhưng con vẫn luôn có cảm giác rằng Ngài vẫn hiện hữu đâu đó và thậm chí ở xung quanh trong mọi chúng ta, luôn luôn sẵn sàng ở đó mở rộng vòng tay với lòng từ bi vô hạn, làm “điểm tựa” chỗ dựa tinh thần cho con quay về nương tựa trong những lúc “gặp” phải những “cơn sóng” của cuộc đời. Ngày hôm nay bằng với tất cả lòng thành kính con xin bày tỏ niềm tri ân đến Ngài – vị Bồ Tát của lòng con.
Mai Meidinger
Vào mùa hè năm 2007, tôi cùng một số người bạn tổ chức đi du ngoan ở vùng Bắc California sẵn dịp chúng tôi ghé qua thăm viếng Vạn Phật Thánh Thành để lễ Phật và chụp hình làm kỷ niệm.
Dù chỉ ghé thăm chùa một khoảng thời gian ngắn không hơn một tiếng đồng hồ, nhưng tôi cứ tưởng nhớ đền Hòa Thượng khi về đến nhà. Từ đó, tôi nghiên cứu tiểu sử và những hạnh nguyện của Ngài. Khi được đọc bài giảng của Ngài thì tôi như một người vừa mới khám phá ra một kho tàng quý báu. Mỗi bài Pháp Ngài giảng như là một hồi chuông cảnh tỉnh chúng ta từ trong mê lầm.
Từ khi nghe bài giảng Chú Đại Bi và Phẩm Phổ Môn của Hòa Thượng thì tôi phát tâm trì tụng. Một thời gian sau thì tôi có những những giấc mơ là lạ như là thấy trên hàng trăm tu sĩ mặc áo vàng rất là trang nghiêm hoặc là thấy tôi đang dự lễ ở chùa hoặc là thấy tôi lặp lại những câu kinh văn trong Phẩm Phổ Môn để trấn an cho một số người chung quanh đang bi cơn sóng biển lớn đập vào bờ. Những người chịu đứng lại niệm hồng danh Quan Thế Âm thì được an toàn và, còn những người chạy tán loạn vì sợ sệt thì bị cuốn trôi theo cơn sóng dữ. Trong chiêm bao, tôi cũng từng thấy Hòa Thượng đến cứu tôi thoát nạn khi một bóng đen làm cho cứng cả người. Lúc đó tôi hoàn thoàn không tụng được Chú Đại Bi vì toàn thân không cử động được. Nhưng vừa khởi một niệm cầu Hòa Thượng cứu thì được thoát nạn. Đây là một bài học lớn nói lên sự diệu dụng của tâm. Một lần nữa thì tôi thấy Hòa Thượng đang thuyết pháp trên giảng tòa và Ngài còn đang rất trẻ tuổi. Tôi nghĩ có lẽ là tôi còn thường giải đải nên được thấy những cảnh mộng như vậy để khuyến khích tôi nỗ lực hành trì và nhắc nhở tôi nên thường hồi quan phản chiếu để không bị đi lạc trên đường đạo. Một niệm xấu hay một niệm tốt có thể thay đổi cảnh giới và hướng đi của tâm linh.
Năm nay 2012, nhân dịp tôi đang dự Hoa Nghiêm pháp hội, tôi xin chia xẻ nhân duyên mà tôi biết được và phát tâm tụng kinh Hoa Nghiêm. Trước đó thì ngoài những kinh thường tụng ở chùa như Phẩm Phổ Môn (cầu an) và Kinh A Di Đà (cầu siêu), tôi cũng không biết gì nhiều về những kinh khác. Lần đầu tiên tôi thấy Kinh Hoa Nghiêm là trong giấc mộng vào cuối năm 2008. Tôi thấy một quyển kinh rất lớn hiện ra giữa hư không, chữ nét như là nét tiếng Hoa hay tiếng Phạn và mỗi chữ dài hơn một ngón tay, trong từng nét chữ tỏa ra ánh sáng vàng đậm rất dịu mắt. Những nét chữ màu vàng không phải viết bằng mực thông thường mà dường như tự tỏa ra ánh sáng. Lúc đó như là người đã học qua ngôn ngữ này tôi đọc được những lời văn trong kinh và hiểu được nghĩa lý thâm sâu dường như rất quen thuộc. Tỉnh dậy thì vẫn còn thấy đang đọc những câu văn trong kinh và nhớ rất rõ ràng những dòng chữ. Tôi mau bước chân xuống giường để viết lại những câu văn và sự hiểu biết của mình. Nhưng tiếc thay tôi như kẻ mê man ngu muội vì lúc đó lại hoàn toàn không còn nhớ gì. Ngay lúc đó thì tôi chỉ nhớ duy nhất cái tựa của kinh là Hoa Nghiêm. Từ giấc mơ này, tôi bắt đầu tìm hiểu bộ kinh này. Nhân duyên đó đã đưa đẩy tôi đến tôi tìm đến Vạn Phật Thánh Thành để tham dự Hoa Nghiêm pháp hội vào mùa hè năm 2009.
Tôi thấy đạo lý trong kinh Hoa Nghiêm rất thâm sâu, vi diệu nhưng có thể áp dụng trong thực tế đời sống để được lợi lạc cho chính mình và những người chung quanh. Từ đó, tôi phát tâm trì tụng kinh Hoa Nghiêm mỗi ngày. Sau 3 năm, tức là kỳ Hoa Nghiêm pháp hội lần thứ nhì thì tôi mới phát hiện ra là Hòa Thượng đã tạo duyên từ lâu cho Vạn Phật Thánh Thành là nơi hội tụ và cử hành Hoa Nghiêm Pháp hội và cũng là chỗ hoằng dương chân lý của Kinh Hoa Nghiêm.
Quả Cúc (Alameda, California)
Giữa mùa hè 2006 bà Madalena nói với chúng tôi là nhà hàng chay Quân Khang ở Chùa Vạn Phật cần phải sơn lại vì đã hơn 10 năm rồi chưa sơn. Đến ngày 17 tháng 9 là thứ Bảy, nhóm phật tử vùng Vịnh chúng tôi gồm tôi, chồng tôi là Quả Ký, bà Madalena, Chị Hai, Chị Dung, Lê Thu, Quả Nguyên, Michael, và Anh Nhơn, và 2 em học sinh là Andrew va Michelle cùng đi lên Chùa Vạn Phật để sơn. Kế hoạch là chúng tôi sẽ sơn từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều thì sẽ hoàn tất. Nhưng sự việc không dễ dàng như chúng tôi dự tính. Do nhiều vách tường có những chỗ phải sơn nhiều lần, ngoài ra còn nhiều cửa sổ có song sắt rất khó sơn, lại có những người chưa biết sơn và 2 người đã khá lớn tuổi nên đến 5 giờ chiều công việc vẫn còn bề bộn chưa xong. Anh Quả Ký mới hỏi Quả Nguyên là có lẽ phải làm tới 1 giờ sáng thì mới có thể hoàn thành công việc, vậy Quả Nguyên tính sao? Quả Nguyên trả lời là nếu việc không xong thì không thể về nhà. Sau đó chúng tôi đề nghị vừa làm vừa hát để quên đi mệt nhọc, có người hát tiếng Hoa, có người hát tiếng Việt, có người kể chuyện vui… Và cứ như thể cho đến 12 giờ khuya, có vài người mệt mỏi nên về ngủ trước. Còn lại 5 người là vợ chồng tôi, Quả Nguyên, bà Madalena, và Michael ở lại làm đến 2 giờ 30 sáng mới hoàn tất công việc.
Khi chúng tôi ra khỏi nhà hàng Quân Khang, ngước nhìn lên bầu trời thì thấy mặt trăng trên cao, nhỏ, rất sáng và rất đẹp vì hôm đó ngày rằm tháng 8 là ngày Trung Thu. Khi xe về đến chỗ tôi ở trong chùa thì chúng tôi tình cờ nhận ra là trên bầu trời mặt trăng trông rất to, to gấp 10 lần chúng tôi thấy hối nãy, và có vòng mây ngũ sắc bao tròn chung quanh mặt trăng, chúng tôi cứ tưởng như mặt trăng từ trên trời treo xuống cho chúng tôi chiêm ngưỡng.
Trước đó vài người trong nhóm chúng tôi đã về sớm và còn đang ngủ vì quá mệt mỏi. Nhưng để không mất cơ hội hiếm có nên anh Quả Ký chạy vào đánh thức mọi người ra xem. Hiện tượng lại tiếp tục thay đổi, mây ngũ sắc tách ra và tạo hình thể Long Phụng hai bên mặt trăng rất đẹp như tranh vẽ. Quả Nguyên gọi điện thoại kêu anh Michael và anh Nhơn ra xem nhưng có lẽ do quá mệt nên họ không bắt điện thoại. Hai phút sau cảnh Long Phụng biến mất, mây ngũ sắc trở về vị trí cũ bao quanh mặt trăng. Đám mây đen kết hợp đám mây trắng kéo đến và hòa chung lại, chúng tôi chưa nhìn ra được thì Chị Hai kêu lên “Người đâu mà nhiều vậy!”, thì ra cả bầu trời chung quanh mặt trăng là hình đầu người đông hằng hà sa số (như trong kinh nói) những người đó trên đầu có búi tóc xoăn như thời Đức Phật. Chúng tôi nghĩ giống như là cảnh Pháp Hội Long Hoa. Tiếp đến hình ảnh Ngài Văn Thù Sư Lợi ngồi trên sư tử và ngài Phổ Hiền bồ tát ngồi trên voi ở hai phía hai bên mặt trăng, sau đó là hình Phật A Di Đà hiện ra từ từ trong mặt trăng, chúng tôi rất xúc động liền quỳ xuống đành lễ Đức Phật A Di Đà. Thấy cảnh tượng quá vi diệu nên Quả Nguyên gọi điện thoại vể nhà ở Alameda để nói chồng ra xem, nhưng chồng của Quả Nguyên ra ngoài nhìn lên bầu trời thì chẳng thấy gì cả, chỉ thấy bầu trời tối đen vì mây che khuất mặt trăng. Chùa Vạn Phật ở thành phố Talmage và nhà Quả Nguyên ở Alameda chỉ cách nhau hai tiếng đồng hồ lái xe thế mà cảnh trên bầu trời hoàn toàn khác biệt.
Chiêm ngưỡng được một lúc thì Quả Nguyên nói nếu Phật A Di Đà xuất hiện thì thế nào cũng thấy Ngài Quán Âm xuất hiện. Quả nhiên khoảng 5 phút sau thì hình ảnh Phật A Di Đà biến mất và hình ảnh ngài Quán Âm hiện ra! Quá mừng rỡ, chúng tôi liền quỳ xuống đảnh lễ ngài Quán Âm. Tất cả hiện tượng đó kéo dài hơn nữa tiếng đồng hồ và cảnh tượng tuần tự xuất hiện như đang xem phim. Mọi người chúng tôi lặng yên chiêm ngưỡng, không gian và thời gian như ngừng lại. Thật là cảnh giới chưa từng gặp qua. Sau đó cảnh vật từ từ tan biến và mọi người trở về phòng ngủ để sáng mai lái xe về lại vùng Vịnh.
Đến năm 2007 vợ chồng tôi cùng bà Madalena và một số bạn hữu ở Chùa Vạn Phật đi hành hương Trung Hoa, khi đến vùng Tun Hoan viếng một ngôi Chùa Cổ thì chúng tôi thấy một bức tranh Hoa Nghiêm Pháp Hội vẽ trên vách vào thế kỷ 17 với những chi tiết giống cảnh giới mà chúng tôi đã thấy trên bầu trời Chùa Vạn Phật vào đêm Trung Thu năm 2006. Mấy hôm nay chúng tôi tham dự Pháp Hội Hoa Nghiêm tại Chùa Vạn Phật đế tụng kinh Hoa Nghiêm, khi tụng đến quyển 80 thì thấy trong kinh mô tả cảnh giới giống như cảnh giới mà chúng tôi đã từng thấy.
Qua sự việc trên chúng tôi cảm thấy do may mắn có cơ hội làm Phật sự tại Vạn Phật Thánh Thành và do cố gắng làm việc không ngại cực khổ, không mong cầu, nên chúng tôi đã cùng được chứng kiến cảnh giới nhiệm mầu bất khả tư nghì, để thấy rằng ngoài thế giới chúng ta đang sống và sinh hoạt còn có thế giới vi diệu siêu xuất thế gian như Kinh đã mô tả.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Đặng Thiếu Mai (San Jose, California)
Năm 2012, là kỷ niệm 50 năm ngài Tuyên Hóa đến Mỹ hoằng pháp. Cũng là ngày đáng cho chúng ta nhớ đến Hòa Thượng Tuyên Hóa và Vạn Phật Thánh Thánh.
50 năm trước, Tuyên công thượng nhân đơn độc đến Hoa Kỳ. Vì muốn truyền bá phật pháp qua Tây phương nên đã thành lập tăng đoàn, dựng đạo tràng, vượt qua muôn ngàn khó khăn, đổ biết bao mồ hôi, tâm huyết hoằng pháp độ sanh nên ngày nay chúng ta mới có những đạo tràng thanh tịnh để tu tập.
Hồi tưởng lại năm 2006 tôi cùng người bạn lần đầu tiên đến Chùa Vạn Phật dự khóa A Di Đà Thất. Sau khi kết thúc khóa tu, tâm tôi luyến tiếc không muốn về, nước mắt tuôn trào khi bánh xe lăn ra khỏi cổng chùa và lo sợ tâm mình khó vững vàng với cảnh trần bên ngoài. Tôi âm thầm cầu Hòa Thượng gia trì để không bị chướng ngại khi xa rời đạo tràng thanh tịnh. Tôi đã vui mừng tìm được nơi nương tựa tâm linh và lòng nguyện rằng về sau mỗi khi có pháp hội thì tôi sẽ cố gắng trở về tham dự tu tập, vun trồng thiện căn và sữa đổi tập khí của mình, tìm lại trí tuệ soi sáng cho cuộc đời.
Nhưng trời đất không ngăn được phong ba bảo táp, trăng có khi tròn khi khuyết, nhân sanh khó hoàn toàn như ý. Mấy năm nay bản thân tôi tự kiểm lại và hiểu rõ sự đau khổ vô thường của kiếp người, của sanh tử ly biệt, khi nhìn thấy cảnh tre già khóc măng non. Nếu không nhờ biết đến Phật pháp, không nhờ biết đến Chùa Vạn Phật có lẽ tôi cũng không biết phải làm sao để thoát khỏi nỗi khổ đau này. Tôi rất vinh hạnh gặp được đạo tràng chánh pháp trên thế giới này có một không hai. Mỗi một lần tôi trở về tham dự Pháp hội, vừa tới cổng chùa là tâm tôi xúc động, như đang trở về quê mẹ. Tôi đảnh lễ trước cổng chùa và nói: “Chư Phật, Bồ Tát, Sư Phụ Thượng Nhân, con lại trở về, tâm đầy hoan hỷ.”
Cảm ơn Thượng Nhân đã cho đệ tử chúng con gieo trồng hạt giống bồ đề nơi bảo địa này. Cảm ơn quý thầy cô đã cực nhọc vì pháp quên mình. Để báo đáp ân đức của Ngài và quý thầy cô, chúng con sẽ tuân theo lời dạy và hành Sáu Đại Tông Chỉ của ngài để làm một để tử tốt, hộ trì đạo tràng tinh tấn không ngừng.
Sau cùng, nguyện chánh pháp thường trụ, pháp luân thường chuyển, Phật Pháp Tây Phương phát huy rộng lớn. Nguyện Vạn Phật Thánh Thành vĩnh cửu trường tồn. Nguyện tôi cùng tất cả chúng sanh đều tròn thành phật đạo.
A DI ĐÀ PHẬT
Huong Nguyen (Sunnyvale, California)
I took refuse with the Triple Jewels at the City of Ten Thousand Buddha in 2007. At that time via the website of Dharma Realm Buddha Association (DRBA) and the books published by DRBA, I learned about the Venerable Master Hua, his life and his quest to bring proper dharma to the west. His teaching was short and straight to the point. They have helped me see my offenses & bad habits, made me feel ashamed of my wrong doings. Since that time on, I told myself that I have to change, to learn Buddha Dharma and to cultivate.
March 12, 2009, I lost my job. A few days later, I saw the Venerable Master in my dream. He was standing right in front of the gate of Gold Sage Monastery, a few feet away from me. He signaled me to follow him in. That weekend when I took my daughter to Gold Sage Monastery for her to attend Sunday school, I had learned that the Great Compassion Repentance Ceremony is held every day at 1 o’clock and suddenly I was thinking now that I have a lot of free time I should come to start by doing this. Later on I came to realize the Venerable Master had given me the way to get rid of my offenses. So I started going to Gold Sage every day to attend the ceremony. After 4 months, I know by heart the Great Compassion Mantra. Then I was thinking about the 10,000 bows that I have to fulfill as of the Venerable Master’s request to all lay disciples when they took refuge with the Triple Jewels at CTTB but my knees hurt a lot I I have dizziness and my eyes get blurred after about 30 bows. So I came to him for help. That same day, to my surprise, I could do 100 bows at one time and I felt totally great. I then finished that 10,000 bows to Shakyamuni Buddha in about 4 months.
As I was totally new to cultivating, I did not know which dharma door is suitable for me. But I knew I wanted to end birth and death as I found the Saha world is so much of suffering. Again, I came to the Venerable Master for his advice. Again, he helped me, he sent me a Good Adviser. She is the 1st lay person I’ve ever met that I respected so much because of her dedication to cultivating. I came to know her through my husband’s family, but as far as our relationship went, we exchanged greetings at the monastery every time we met. Suddenly I received a call from her. She said: ” Now that you lost your job and have a lot of free time, it was a good timing for you to cultivate and I wanted to help you.” I learned about the Dharma Door of the Land of Ultimate Bliss, how to sit in the full lotus position and recite Amitabha Buddha’s name. The power of reciting: Nam Amitabha” is beyond words. They had tremendously purified my mind, gave me peace of mind and wisdom in lots of ways.
Even though the cultivating journey is long and difficult, I truly believe the Venerable Master is always behind those who want to change and to cultivate to end birth and death.
To the Venerable Master Hsuan Hua, with all my gratitude.
Huong Nguyen
Sunnyvale, CA
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
Lý do tôi đến Vạn Phật Thành là để lạy tạ ân đức của Hòa Thượng Tuyên Hóa. Khoảng năm 2007 có một người Phật tử xa lạ ghé thăm, mang cho tôi hai quyển “Từ hư không đến
Vài tuần sau thì trong mộng lại thấy tôi đi vào một ngôi chùa, qua một quảng rừng rất rộng, ngang chiếc cầu thang vàng thì đi thẳng vào một ngôi nhà cũng sơn màu vàng, bên ngoài có một tượng Phật ngồi trên mái chùa, đầu tượng hơi cúi xuống. Bên mé rừng hiện ra bốn vị trưởng lão, râu tóc bạc phơ, dáng mạo tiên phong đạo cốt. Tôi mở cửa, đi vào thì thấy một vị tăng mặc áo vàng đậm, ngoài khoác chiếc ca sa màu đỏ, có từng ô kim tuyến óng ánh, ngồi trên bục cao. Tôi gọi vị tăng là Thầy, ngài dạy tôi vài điều cần thiết, trong đó có câu: “Ngồi ngủ chứ đừng đi ngủ”. Thức giấc, tôi nhớ rõ từng chi tiết, nhưng vẫn chưa làm được lời dạy sau cùng. (Lúc đó tôi chưa biết chư tăng ni Vạn Phật Thành ngủ ngồi).
Ngày 25 tháng 8, 2011, tôi đến Vạn Phật Thành. Quang cảnh ngôi chùa in hệt như trong giấc mộng, từ cánh rừng rộng lớn, chiếc cầu thang vàng, tòa chánh điện sơn vàng, tượng Phật trên mái chùa, đầu hơi cúi xuống, bức ảnh lớn của Hòa Thượng Tuyên Hóa đắp y vàng, ngoài khoác ca sa đỏ có từng ô kim tuyến… Đến đêm thứ bảy sau cùng thì tôi và BT xin phép được vào một phòng thờ Phật biệt lập, ở đó chúng tôi đã ngồi tĩnh lặng trong thế thiền tọa liên tục được năm tiếng đồng hồ, từ 10 giờ tối đến 3 giờ sáng. Trong lúc tĩnh tọa thì tai vẫn nghe tiếng niệm Phật nho nhỏ phát ra từ một chiếc máy đặt trên bàn thờ Phật. Chúng tôi ở đây tọa thiền như vậy, không để đầu óc trống rỗng. (Mà có bao giờ đầu óc người đời trống rỗng dễ dàng ư?). Sáng hôm sau thì chúng tôi trở lại phi trường San Francisco.
Tôi ghi lại những dòng này trước hết để tạ ân Hòa Thượng Tuyên Hóa và chư tăng ni Vạn Phật Thành. Sau nữa để cảm ơn anh CK, người đã mang đến cho tôi hai quyển sách về Hòa Thượng, và cũng để các anh chị đọc để nếu có thể góp phần vào việc làm vững mạnh thêm lòng tin chánh pháp.