Nhất Tâm Đảnh Lễ Vạn Phật Thánh Thành-Q1
Ba bước, một lạy - ba bước dọc theo cạnh xa lộ, rồi lạy một lạy xuống đất; đầu gối, cùi chỏ, bàn tay, trán đều chạm đất, rồi đứng lên, chắp tay, bước thêm ba bước, rồi lại lạy thêm một lạy. Hết giờ này sang giờ khác, ngày này sang ngày khác, trong hai năm rưỡi, họ hành hương lễ lạy theo cách đó. Tại Trung Hoa, những Phật tử thành tâm có những lúc thực hành công việc khó khăn có tính cách cầu nguyện là ba bước một lạy trong vài trăm thước cuối cùng trước khi đến một nơi thánh địa.
Những Lời Dạy Đúng Lúc
Tuyển Tập các bài trong Timely Teachings
Quý vị tu hành nhất định phải có thiện tri thức
Thiện tri thức giúp tư tưởng quý vị không điên đảo, khiến quý vị sáng suốt không còn mê lầm, do đó mà có được chánh tri chánh kiến. Còn ác tri thức thì dạy cho quý vị ác tri kiến. Thế nào gọi là thiện tri thức giáo hóa? Ví dụ, người ấy dạy quý vị nhẫn, dạy quý vị nhường nhịn, dạy quý vị không tranh chấp với người khác, đó đều là phương pháp giáo hóa của bậc thiện tri thức. Nếu họ dạy quý vị tranh chấp với người khác, hoặc tranh danh đoạt lợi, không có tâm nhẫn nại, không nghiêm chỉnh tu hành, mà chỉ là những lời nói hay trên cửa miệng, và toàn làm những việc không chính đáng, đây gọi là ác tri thức. Vì thế, mọi người nên phân biệt rõ thiện tri thức và ác tri thức.
Tu Hành Phải Biết Hồi Quang Phản Chiếu
Người tu hành phải thực tình, phải thật sự tu, phải bỏ công sức ra chớ không thể nhởn nhơ. Có một số người nói họ hành đạo Bồ-tát, nhưng đúng ra là họ cốt biểu diễn cho bà con thấy. Mỗi một cử chỉ, mỗi một hành động, mỗi lời nói ra, họ đều phô trương cho mọi người thấy, chớ không phải cho chính họ thấy. Những người đó cần phải biết hồi quang phản chiếu, còn như chờ người khác trông thấy mới niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát - nếu quả có tử tưởng đó thì phải mau mau sửa đổi lại.
Người Tu Hành Không Ðược Phan Duyên
Người tu hành không nên có tâm phan duyên, mà cần có tâm thanh tịnh, chẳng tham chẳng nhiễm. Tôi thường nói với các bạn rằng phàm là kẻ xuất gia tu hành, một lòng cầu Ðạo, thì cái gì cũng không cần, cái gì cũng không tham, dù là một ngọn cỏ cũng không được tùy tiện đòi lấy và cũng không được tùy tiện mang cho người khác.
Năm đóa hoa sen của Phật giáo Hoa Kỳ
Ngày 30 tháng 1 năm 1968, tức Tết Âm lịch năm Mậu Thân, Hòa Thượng đã về lại ngôi đền Thiên Hậu ở khu phố Tàu và giảng dạy về kệ truyền Pháp của bảy vị Phật. Vị Phật thứ bảy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xoay một bông hoa trước đại chúng và Tôn Giả Đại Ca Diếp mỉm cười. Vì vậy Như Lai truyền cho ngài diệu pháp, đó là Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, và thật tướng tức vô tướng. Từ đó, pháp được truyền thừa qua 28 đời thì đến tôn giả Bồ Đề Đạt Ma, là người sau đó đã đến Trung Hoa, nơi ngài trở thành vị sư tổ đầu tiên ở Trung Hoa.
Vữa Xi Măng và Cát
...Tòa nhà gần như sắp sụp đổ, và mỗi lần quét vào tường đều làm rớt ra những miếng vữa và cát.. Không cách nào giữ bên trong sạch sẽ được nếu chúng tôi không giải quyết được vấn đề này. Thầy Hằng Khiêm mang vấn đề này để Hòa Thượng lưu tâm, và ngài lập tức có cách giải quyết. Ngài bảo mang đến một ít xi măng nguyên chất, nước, và cái chổi. Ngài biểu chúng tôi trộn nước vào thành một hỗn hợp xi măng lỏng. Sau đó ngài dùng chổi nhúng vào trong thùng nước xi măng lỏng và đánh chổi đó vào tường gạch. Sau vài lần thứ nghiệm thêm hoặc bớt xi măng và các cách đánh chổi vào tường khác nhau, và với vài cái chổi cũ, ngài tuyên bố là cách làm đã thành công...
Về Phép Lạ
Cả Ấn Độ giáo và Phật giáo đều xác định rất rõ ràng về các loại “thần thông” hay còn gọi là "các siêu kiến thức" mà một vị thiền sư có thể đạt được. Một trong số đó là khả năng biết được các kiếp trước của con người, khả năng đi rất xa chỉ trong thời gian ngắn và thấu hiểu được được ý nghĩ của người khác. Nhưng các thánh nhân Phật giáo đặc biệt rất cảnh giác đối với việc hiển lộ thần thông cho người khác thấy, vì sợ sẽ gia tăng bản ngã mà họ đang cố gắng vượt qua. Hòa thượng Tuyên Hóa, một nhà sư Phật giáo, người đã thành lập Thiền viện tại San Francisco vào năm 1970. Tại Á Châu người ta thuật lại rằng ngài có thể chữa lành bệnh cho những ai có lòng tuân theo giáo pháp nhà Phật. Nhưng tại Hoa Kỳ, nơi Ngài viên tịch năm 1995, Hòa Thượng Tuyên Hóa cho rằng việc sử dụng thần thông như một công cụ giảng dạy sẽ phản tác dụng trong một xã hội thiên về lý trí và khoa học.
Khai Thị – Quyển 3
Con người ở thế gian này gặp đủ thứ chuyện kỳ lạ, vì sao? Ðó là vì trước kia người ta đã trót trồng cái nhân kỳ lạ nên bây giờ mới sanh ra cái quả kỳ lạ. Nếu các bạn chẳng gieo loại nhân ấy thì sẽ không gặt phải loại quả này. Vì thế, nếu mọi người hiểu được đạo lý nhân quả thì hãy:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
(Chớ làm điều ác,
Chỉ làm việc lành.)
...
Khai Thị – Quyển 2
Người học Phật Pháp cần phải luôn luôn thành thật dụng công mà tu hành, như hai chân đứng vững trên mặt đất (cước đạp thực địa), không được mưu đồ hư danh. Ham thích hư danh thì chẳng ích lợi gì cho việc tu Ðạo. Muốn làm những việc "hữu thực vô danh" thì không được tham cầu chuyện "hữu danh vô thực"; nghĩa là không tham cầu cái danh giả dối, có tiếng mà không có miếng. Còn như làm những việc chân thật được biểu hiện ra ngoài thì được gọi là "hữu thực vô danh"!
Thử Luận Về Những Cống Hiến Của Hòa Thượng Tuyên Hóa Đối Với Nền Phật Học
Những cống hiến trong suốt cuộc đời của Hòa Thượng cho nền Phật Học đã được các đệ tử của Ngài sưu tập rất chi tiết, đặc biệt là trong bộ kỷ yếu Tuyên Hóa Lão Hòa Thượng Truy Tư Kỷ Niệm Chuyên Tập quyển I và II mới xuất bản gần đây nhất. Những tập sách này, nói chung, đã giới thiệu quan điểm của Ngài về vấn đề giáo dục, phiên dịch kinh điển, hoằng dương Phật Pháp, chế độ Tăng Già, tinh thần yêu nước yêu dân, luân lý đạo đức, đoàn kết Đại Thừa và Tiểu Thừa, dung hợp tất cả các tôn giáo, v. v...một cách tường tận; do đó ở đây sẽ không tra cứu bình luận lại nữa.
Thiền Thoại giữa Hoà Thượng Quảng Khâm và Đại Pháp Sư Tuyên Hóa
Lão hòa thượng: Tọa là nghĩa gì?
Đại pháp sư: Không có ý nghĩa!
Lão hòa thượng: Không có ý nghĩa, có phải giống như một cục đá không?
Đại pháp sư: Có ý nghĩa cũng là cục đá. Không nên trụ vào đâu để sanh cái tâm như vậy. Vì thế không ý nghĩa, không phải trí cũng chẳng có gì để chứng đắc. (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm , cố vô ý tư, vô trí diệc vô đắc!)
Lão hòa thượng: Không nên tiếc thân thể!
....
Quốc sư Thanh Lương và Kinh Hoa Nghiêm
Quốc sư Thanh Lương chính là hóa thân của Bồ-tát Hoa Nghiêm, vì sao nói Ngài là hóa thân của Bồ-tát Hoa Nghiêm? Vì Ngài chuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm, không giảng những kinh khác. Quốc sư Thanh Lương tên Trừng Quán, tự Đại Hưu, người Cối Kê, họ Hạ Hầu. Sinh vào thời vua Đường Huyền Tông, niên hiệu Khai Nguyên (713-741) năm Mậu Dần (738). Thân ngài cao chín thước bốn tấc, hai tay dài quá đầu gối và có bốn mươi cái răng. Thông thường răng của chúng ta có ba mươi mấy cái thôi, còn răng có bốn mươi cái là bậc quý nhân, người được như thế rất ít. Răng của Đức Phật có bốn mươi hai cái, còn Quốc sư Thanh Lương thì có bốn mươi cái;
Ngữ Lục
Ngữ Lục của Hoà Thượng Tuyên Hoá (PDF-1.1 Mb)
Khai Ngộ Phải Được Ấn Chứng Mới Đúng Pháp
Trước thời Oai Âm Vương Phật ra đời, ai ai cũng có thể khai ngộ và chẳng cần người nào ấn chứng cả. Từ thời Oai Âm Vương Phật trở về sau, những ai tự giác khai ngộ đều nhất định phải có Tổ-sư hoặc bậc Thiện-tri-thức (đã khai ngộ) ấn khả, chứng minh thì mới đúng phép. Cũng như ở Pháp-hội Lăng-Nghiêm, có hai mươi lăm vị Thánh-nhân tường thuật sự chứng đắc viên-thông của họ và thỉnh Đức Phật Thích-Ca ấn chứng.
Ra Đi Trong Mê Mờ
Những gì chúng ta cố gắng làm ở chùa Kim Sơn là truyền bá pháp môn vô thượng thậm thâm vi diệu pháp của Phật Giáo cho toàn thế giới và nhân loại, khiến cho nhân loại ly khổ đắc lạc, thoát vòng sanh tử (liễu sanh thoát tử). Vì vậy Phật Giáo ở Kim Sơn Thánh Tự hoàn toàn không phải là Phật Giáo của một quốc gia nhất định. Phật Giáo mà chùa Kim Sơn truyền bá là cùng tận hư không và Pháp Giới, và là của toàn nhân loại. “Nhân Loại” trong đó bao gồm cả hai thành phần Thiện và Ác của loài người. Thiện là sanh lực của thế gian trong khi Ác là khuynh hướng chết của thế gian. Nếu quý vị muốn được trường sanh và không bao giờ già cả, thì quý vị hãy tận lực làm các việc lành. Nếu quý vị muốn chết mau hơn một chút thì làm các việc ác, và quý vị sẽ qua đời sớm hơn.
Hại Người Rốt Cuộc Là Hại Chính Mình!
Chú là niệm chú; Trớ cũng giống như chú. Chú có rất nhiều thứ, Mật tông có nhiều chú nhất. Các vị Lạt-ma ở Tây Tạng có một loại chú, chỉ cần niệm trong bảy ngày là có thể khiến người khác chết được. Có thứ chú giết người, có thứ chú làm lợi ích cho người. Chú nói ở đây là thứ chú hại người. Các thuốc độc là chỉ chung cho tất cả các loại thuốc độc. Khi quý vị gặp phải những loại chú trớ, thuốc độc làm phương hại đến cơ thể, trong tình cảnh đó, nếu quý vị nhất tâm niệm: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát," thì những chú trớ cùng thuốc độc này chẳng những không thể làm hại được quý vị mà còn trở lại làm hại chính hung thủ.
Sự liêm khiết
Sự liêm khiết được biểu thị cho việc không tồn tại của lòng tham. Thường một người liêm khiết không tùy tiện cho ai bất cứ vật gì dù là nhỏ nhất, cũng như không tùy tiện nhận bất cứ vật gì dù là nhỏ nhất từ những người khác. Vật nhỏ nhất có thể là một ngọn cỏ. Người đó cũng sẽ chẳng tùy tiện cho một ngọn cỏ cho một ai đó hay tùy tiện lấy vật của người khác. Đây là ý nghĩa của sự liêm khiết, là thanh tịnh và không có lòng tham. Một con người có đặc tính như vậy được coi là rất cao quý.
Vì sao nên thọ Giới U Minh?
Giới U Minh chính là Giới mà tất cả các vong linh cô hồn thọ trì. Những ai cầu thọ giới U Minh cho người đã mất thì phải nên chí thành cầu thọ mới có thể cảm ứng được Chư Phật, Bồ Tát và các vị Thánh Hiền giáng lâm đến buổi lễ, chứng minh cho người cầu thọ. Đồng thời người đại diện thọ giới phải phát tâm rộng lớn, nguyện cho tất cả chúng sanh thọ giới U Minh đều đạt được lợi ích trong Phật pháp, lìa xa được tội khổ trong chốn U Minh, sanh vào cõi lành.
Một Pháp Môn Không Thể Nghĩ Bàn
Tối nay chúng tôi dự trù thảo luận về U Minh Giới. Buổi thảo luận này sẽ vắn tắt, và chúng ta có thể thảo luận thêm trong tương lai khi có thời gian. Quý vị đều có quyển Nghi Thức bìa màu xanh trước mặt. Quyển sách nầy khá đặc biệt. Đây là lần đầu tiên có một quyển sách có cả ba ngôn ngữ: Hoa ngữ, Anh ngữ, và Việt ngữ. Các chú sa di tại Vạn Phật Thánh Thành đã dành không biết bao nhiêu ngày giờ, có khi không ngủ, để đóng thành những tập sách này; chúng ta đã in được chừng vài trăm bản.
Nguyên nhân xa xưa về pháp danh xuất gia của chúng tôi
Sáng hôm sau tại nhà Ưu Bà Di Phương, Sư phụ nói với Hằng Trì, Hằng Hiền và tôi: “Bài kệ thầy nói với các con ngày hôm qua được viết khi thầy đang thủ hiếu bên cạnh mộ mẹ . Ngay lúc đó Lục Tổ và thầy đã đàm luận về những vấn đề này . Hôm qua thầy quan sát nhân duyên và thấy những Tỳ Kheo Ni các con có thể biết lời nguyện này được rồi; đó là những việc đã xảy ra nhiều thập niên về trước."
Pháp Duyên: Hòa Thượng Quảng Khâm
Lần đầu tiên Hoà Thượng Tuyên Hoá đến thăm viếng Hoà Thượng Quảng Khâm là năm 1974 khi được mời đến Châu Á để thuyết pháp. Trong thời gian ở Đài Loan, Ngài đã đến viếng thăm Lão Hoà Thượng Quảng Khâm mà chẳng hề báo trước. Hoà Thượng Quảng Khâm thường không quan tâm đến chuyện thế gian, và không ra ngoài chào đón bất cứ ai. Nhưng lần này, vào ngày trước khi Hoà Thượng Tuyên Hoá đến, Hoà Thượng Quảng Khâm đã căn dặn đệ tử ra ngoài quét dọn lối đi và chuẩn bị đón tiếp vì sẽ có một vị đại Bồ Tát đến viếng thăm.
Pháp Duyên: Hòa thượng Bhante Dharmawara và Hoà Thượng Ajahn Sumedho
Trong nỗ lực đoàn kết Phật Giáo Bắc Tông và Phật Giáo Nam Tông, Hòa Thượng Tuyên Hoá đã vô cùng thành công trong việc nhận được sự kính trọng và ngưỡng mộ của cộng đồng Tăng Già theo NamTông. Chính nhờ vậy, không phải một cách tình cờ mà hai Hòa thượng Bhante Dharmawara và Ajahn Sumedho, cả hai vị Tỳ Kheo Phật Giáo Nam Tông lại hết sức kính trọng Hoà Thượng Tuyến Hoá đến như vậy.
Cẩm Nang Tu Ðạo
Tập Cẩm-Nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh, khiến ta giác ngộ như Ngài. Kinh Hoa-Nghiêm dạy rằng: "Chúng sanh như người bệnh, Thiện-tri-thức như bác-sĩ, lời dạy của Thiện-tri-thức như thuốc hay. Thuốc hay thì đắng, song trị lành được bệnh."
Giới thiệu Cư Sĩ Lưu Quả Quang
Hòa Thượng gọi điện nói vài hôm nữa ngài sẽ đến Seattle vào khoảng nửa đêm. Tôi hỏi tại sao Ngài lại chọn thời gian như vậy, Ngài chỉ nói “Để tiết kiệm số tiền mà mọi người đóng góp cho chúng tôi. Vé máy bay chuyến nửa đêm rẻ hơn rất nhiều!” Thực ra Hòa Thượng có chuyến đi đặc biệt đó để quyết định ngài nên mua Chùa Kim Phong ở phố Minor Street, thành phố Seattle và Chùa Kim Phật, thành phố Vancouver hay không. Sau đó ngài nhờ một Pháp Sư và hai công nhân người Việt giúp sửa lại Chùa Kim Phong, đặc biệt nhắc nhở họ đặt hai khung hình 3x3x6 cho hai vị Bồ tát Vi Đà và Già Lam ở hai bên tường trong Phật điện.